Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Trƣờng đại học sƣ phạm Hà nội 2
Khoa: Ngữ văn
==================
Phạm Thị Hà
Không gian và thời gian
nghệ thuật trong Xứ tuyết của Yasunary
kawabata
Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Bích Dung
Hà Nội- 2010
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp của mình, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ
văn – Trường ĐHSP Hà Nội 2, trong tổ bộ môn Văn học nước ngoài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy , cô giáo trong
khoa, tổ, đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Bích Dung - Người đã trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Phạm Thị Hà
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Lời cam đoan
Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của T.S
Nguyễn Thị Bích Dung. Tôi xin cam đoan rằng:
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
- Kết quả này không trùng với kết quả của bất kỳ tác giả nào đã được
công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Sinh viên
Phạm Thị Hà
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
MỤC LỤC
Mở đầu....................................................................................................
1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................
1
2.Lịch sử vấn đề......................................................................................
2
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................
4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................
4
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát ........................................
5
6. Phương pháp nghiên cứu......................................................................
5
7. Đóng góp của khoá luận........................................................................
5
8. Bố cục khoá luận.................................................................................
5
Nội dung ..................................................................................................
6
Chƣơng 1: Không gian nghệ thuật trong Xứ tuyết..............................
6
1.1. Khái niệm về không gian nghệ thuật...........................................
6
1.2. Không gian nghệ thuật trong Xứ tuyết.........................................
7
1.2.1. Không gian thực....................................................................
9
1.2.2. Không gian tâm lý...............................................................
20
Chƣơng 2: Thời gian nghệ thuật trong Xứ tuyết..................................
29
2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật...................................................
29
2.2. Thời gian nghệ thuật trong Xứ tuyết...........................................
31
2.2.1. Thời gian tự nhiên..............................................................
32
2.2.2. Thời gian tâm lý ................................................................
46
Kết luận ..................................................................................................
51
Tài liệu tham khảo.................................................................................
53
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
1
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Lý do khoa học
Y.Kawabata ( 1899- 1972) được đánh giá là một hiện tượng kỳ lạ của
văn học Nhật Bản thế kỷ XX, ông không những là nhà văn nổi tiếng của Nhật
Bản mà còn cả trên thế giới. Cả thế giới biết đến Y.Kawabata, biết đến một
tâm hồn tiêu biểu của Nhật Bản luôn tôn thờ, trân trọng và giữ gìn cái đẹp.
Yêu cái đẹp là truyền thống của Nhật Bản có từ thời Heian (794-1185). Đến
cả sau này khi Nhật Bản trở thành nước công nghiệp hiện đại thì vẻ đẹp ấy
vẫn luôn được chắt chiu, nâng niu và bảo vệ trong sáng tác của Y.Kawabata.
Chính vì vậy, ông được coi là “ Người lữ hành muôn đời đi tìm cái đẹp”
“Người cứu rỗi cái đẹp”.
Y.Kawabata là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel văn học vào
năm 1968 với bộ ba tiểu thuyết: Xứ tuyết (1947), Ngàn cánh hạc (1951), Cố
đô (1962). Với sự kiện này ông được các nhà nghiên cứu tôn vinh như người
“Mở cánh cửa tâm hồn Nhật Bản” ra thế giới.
Trong ba tác phẩm đạt giải Nobel thì Xứ tuyết được xem là một trong
những tác phẩm toàn bích của nền văn học Nhật Bản, là quốc bảo của văn học
Nhật Bản thế kỷ XX. Mỗi tác phẩm của Y.Kawabata đều cho thấy nghệ thuật
viết văn tuyệt vời và tình cảm lớn lao, thể hiện được bản chất của cách tư duy
Nhật Bản qua bút pháp sáng tác bậc thầy- một kiểu sáng tác lãng mạn mà
không gian và thời gian nghệ thuật là một yếu tố rất quan trọng trong đó.
Không gian và thời gian là sản phẩm sáng tạo để nhà văn thể hiện quan
niệm nhất định về con người, cuộc sống. Vì vậy, việc tìm hiểu về không gian
và thời gian nghệ thuật là điều thú vị, là sự quan tâm của nhiều người.
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
2
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Đối với Y.Kawabata, từ lâu “ Không gian và thời gian nghệ thuật”
trong sáng tác của ông vẫn được coi là một đề tài mới mẻ và hấp dẫn đối với
những người say mê văn chương Nhật Bản- say mê dòng văn học xứ sở Phù
Tang.
1.2.Lý do sư phạm
Việc tìm hiểu sáng tác của Y.Kawabata sẽ giúp người giáo viên tương
lai có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về văn học nước ngoài, đặc biệt là văn
học Nhật Bản. Từ đó tích luỹ được những tư liệu cần thiết cung cấp cho học
sinh hiểu biết thêm về những sáng tác văn học được học trong nhà trường phổ
thông như thơ Haikư của Basho. Và đặc biệt giúp các em có cái nhìn đúng
đắn trong học tập và trong cuộc sống. Biết gìn giữ, trân trọng những giá trị
truyền thống khi xã hội đang tiến lên và hội nhập.
Một tác phẩm văn chương sinh động, hấp dẫn được thể hiện qua rất
nhiều phương diện nghệ thuật trong đó “ không gian và thời gian nghệ thuật”
là đề tài độc đáo và đặc sắc. Khi nghiên cứu đề tài này người viết không chỉ
nắm được nội dung tư tưởng của tác phẩm mà còn là dấu hiệu nhận biết
phong cách của nhà văn.
Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “ Không gian và thời gian
nghệ thuật trong Xứ tuyết của Y.Kawabata” với hi vọng sẽ khám phá được
phần nào đóng góp của tác giả làm nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Y.Kawabata là một trong những nhà văn góp phần làm phong phú các
giá trị văn chương của nhân loại trong thế kỷ XX. Sáng tác của ông luôn thu
hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước:
Tạp chí văn học số 16 ( tháng 9/ 1999) tác giả E.G.Sheidensticker nhận
xét: “ Tôi cho rằng nên xếp Y.Kawabata vào dòng văn chương mà ta có thể
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
3
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
dò đến tận bậc thầy Haikư của thế kỷ XVII ”. Trong bài viết này tác giả chủ
yếu tìm hiểu nghệ thuật Chân không trong sáng tác của Y.Kawabata.
Tạp chí văn học số 9 năm 1999: Tác giả Lưu Đức Trung có bài viết bàn
về “ Thi pháp tiểu thuyết Y.Kawabata- Nhà văn lớn của Nhật Bản”. Thể hiện
rõ thi pháp đặc trưng trong sáng tác của Y.Kawabata là thi pháp Chân không
(nói ít, gợi nhiều, ý được toát ra từ khoảng trống của câu chữ).
Tạp chí văn học số 15 ( tháng 6/ 2010) có bài: “ Đọc Xứ tuyết suy nghĩ
về cái nhìn huyền ảo của Y.Kawabata” của tác giả Đào Ngọc Chương. Ở bài
viết này người nghiên cứu không đề cập đến lý thuyết tiếp nhận như một cơ
sở để xây dựng các luận điểm mà chỉ dừng lại ở việc so sánh, hệ thống các
yếu tố trong tác phẩm hướng tới lý giải cái nhìn huyền ảo của Y.Kawabata
trong xứ tuyết như một đặc trưng thi pháp của ông.
Tạp chí văn học tháng 2 năm 2002, tác giả Nhật Chiêu có bài “ Thế
giới Kawabata Yasunary trong tác phẩm của ông”.
Tạp chí nghiên cứu văn học số 1 năm 2004 với bài: “ Thủ pháp tương
phản trong truyện Người đẹp say ngủ của Y.Kawabata” của tác giả Khương
Việt Hà, bài viết tập trung đi sâu tìm hiểu về nghệ thuật của tác phẩm.
Trong tạp chí văn học số 7 năm 2005: Đào Thị Thu Hằng có bài
“Y.Kawabata giữa dòng chảy Đông- Tây”. Bài viết nghiên cứu về sự ảnh
hưởng của văn hoá phương Tây đối với Y.Kawabata và khẳng định văn hoá
phương Đông là gốc rễ trong tư tưởng nhà văn.
Tạp chí văn học số 11 năm 2005 với bài: “Y.Kawabata – Lữ khách
muôn đời đi tìm cái đẹp” của tác giả Nguyễn Thị Mai Liên. Bài nghiên cứu đi
sâu vào vẻ đẹp Nhật Bản trong sáng tác của Y.Kawabata: Vẻ đẹp thiên nhiên,
vẻ đẹp phong tục, vẻ đẹp của tâm hồn con người.
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
4
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Trong nghiên cứu văn học số 6 năm 2006: Khương Việt Hà có bài bàn
về “ Mĩ học Y.Kawabata” bài viết trình bày rõ quan điểm về cái đẹp của
Y.Kawabata và nguồn gốc hình thành quan điểm đó.
Tác giả Đào Thị Thu Hằng với cuốn chuyên luận “ Văn hoá Nhật Bản
và Yasunary Kawabata” chuyên luận viết về những nét văn hoá đặc sắc của
Nhật Bản, về tác giả Y.Kawabata và nghệ thuật kể chuyện trong sáng tác của
ông, trong đó có nhắc đến phương diện không gian và thời gian.
Nhìn chung, đã có một số bài viết đề cập đến “ Không gian và thời gian
nghệ thuật” trong sáng tác của Y.Kawabata nhưng chưa được khai thác sâu
mà chủ yếu chỉ tập trung làm nổi bật cái đẹp trong tác phẩm của ông.
Trong khoá luận này, người viết muốn tìm hiểu, khám phá sâu hơn
phương diện “ Không gian và thời gian nghệ thuật trong Xứ tuyết của
Y.Kawabata”.
Xứ tuyết là một trong ba tác phẩm đạt giải Nobel của Y.Kawabata, được viết
từ năm 1934 và hào thành vào năm 1947. Tác phẩm được Y.Kawabata viết
nhằm tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên
Nhật Bản. Các nhà nghiên cứu đánh giá “ Xứ tuyết là bài ca về tình yêu tuyệt
vọng của một geisha. Một tình yêu được hình thành như tuyết và tan ra như
tuyết”. Không gian và thời gian trong tác phẩm được Y.Kawabata thể hiện rất
độc đáo, sinh động khiến độc giả cảm nhận mới mẻ không dề gì nắm bắt được
ngay mà phải bằng cả tâm hồn, sự hứng thú của mình để tìm hiểu sâu sắc vấn
đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích khám phá không gian nghệ thuật và thời gian
nghệ thuật trong Xứ tuyết của Y.Kawabata. Qua đó thấy được tài năng của
nhà văn và những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Nhật Bản nói
riêng và cho nhân loại nói chung.
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
5
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này người nghiên cứu hệ thống các khoảng không gian và
thời gian khác nhau trong tác phẩm, sau đó tiến hành phân tích, so sánh, đối
chiếu giúp người đọc thấy được những đóng góp, sáng tạo mới mẻ của
Y.Kawabata về vấn đề đang cần bàn.
5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Xứ tuyết của Y.Kawabata.
5.2. Phạm vi khảo sát
Tiểu thuyết Xứ tuyết của Y.Kawabata do Ngô Văn Phú và Nguyễn
Đình Bình dịch- NXB Văn học ấn hành năm 2001.
Tuy nhiên, để tiện cho việc phân tích đối chiếu, so sánh, người viết có
thể mở rộng sang một số tác phẩm khác của Y.Kawabata nếu cần thiết.
6. phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp khảo sát tác phẩm.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp tổng hợp nâng cao vấn đề.
7. Đóng góp của khoá luận
Khoá luận đóng góp một phần nhỏ bé vào việc cung cấp ngữ liệu về
việc giảng dạy những tác phẩm Văn học Nhật Bản sau này ở trường PT.
8. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khoá luận gồm có hai
chương:
Chương 1: Không gian nghệ thuật trong Xứ tuyết.
Chương 2: Thời gian nghệ thuật trong Xứ tuyết.
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
6
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG XỨ TUYẾT
1.1. Khái niệm về không gian nghệ thuật
Không gian là hình thức tồn tại cơ bản của thế giới. Trong đó, các vật
thể có độ dài và độ lớn khác nhau nhưng đó chưa phải là không gian nghệ
thuật. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật.
Không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian.
Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của cách nhìn và mang ý nghĩa khái
quát thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách
nhìn. Không gian ấy có thể rất rộng có thể là rất hẹp. Nó cũng có viễn cảnh,
có giá trị tình cảm. Tình cảm có thể làm cho không gian bao la thêm hay gò
bó chật chội hơn. Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian
hiện thực. Đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc hình thành thế
giới nghệ thuật, góp phần thể hiện thế giới quan tư tưởng của người nghệ sĩ
trước hiện thực và xã hội, phụ thuộc vào cách phản ánh thế giới của nhà văn
vì nó mang tính chủ quan.
Trong “ Từ điển thuật ngữ văn học” các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi đã định nghĩa về không gian nghệ thuật như sau:
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể
hiện chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng
xuất phát từ một “điểm nhìn” diễn ra trong “ trường nhìn” nhất định. Không
gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan, ngoài
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
7
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
không gian vật thể có không gian tâm tưởng”. Do vậy, không gian nghệ thuật
có tính độc lập, tương đối, không quy được vào không gian địa lý.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình
hóa các mối quan hệ của bức tranh thế giới như: Thời gian, xã hội, đạo đức,
tôn ti trật tự. Không gian nghệ thuật có thể mang tính địa điểm, tính phân giới,
tính cản trở. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng
như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật.
Trong cuốn “ Dẫn luận thi pháp học”, Giáo sư Trần Đình Sử khẳng
định: “Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu
hiện con người và thể hiện quan niệm nhất định về cuộc sống do đó không thể
quy nó về không gian địa lý, không gian vật lý hay vật chất. Trong tác phẩm,
ta hay bắt gặp sự miêu tả con đường, dòng sông…nhưng bản thân các sự vật
ấy chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng được xem là không gian nghệ
thuật trong chừng mực biểu hiện thế giới mô hình của con người”. Vì vậy,
xem xét không gian nghệ thuật như một quan niệm nghệ thuật về thế giới con
người, như một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm
xúc và khái quát tư tưởng thẩm mỹ.
Không gian nghệ thuật là một mô hình nghệ thuật về thế giới mà con
người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình trong đó. Không
gian nghệ thuật mang tính ước lệ, mang ý nghĩa cảm xúc, tâm tưởng của thế
giới tinh thần.
Trong văn học, không gian được biểu hiện bằng các không gian điểm
mang tính ước lệ tượng trưng: Làng quê, trong nhà, ngoài vườn, bến sông,
thành phố, biển khơi…
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
8
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Việc tìm hiểu không gian nghệ thuật của một tác giả, một tác phẩm có
tầm quan trọng lớn, cho phép khám phá phong cách và cá tính sáng tác của
người nghệ sĩ một cách khoa học về đời sống.
1.2. Không gian nghệ thuật trong Xứ tuyết
Xứ tuyết là tác phẩm mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi
nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân Shimamurachàng trai sinh ra và lớn lên tại khu phố thương mại Tokyo, chàng tìm về với
Xứ tuyết – miền đất xa xôi mà thiên nhiên còn lưu giữ tinh thần Nhật Bản
trong một xu thế rời bỏ thế giới thực tại đầy xô bồ, ồn ã của Tokyo. Tại thị
trấn xa xôi này Shimamura đã có tình cảm với một geisha tỉnh lẻ- nàng
Komako. Lần thứ hai trở lại đây Shimamura luôn sống trong trạng thái tình
cảm lưỡng phân: Một tình yêu nồng nàn, nhục cảm cùng Komako và một
khao khát, lý tưởng thanh sạch với Yoko. Cuộc hành trình này chính là hành
trình đi tìm lời đáp cho một lối ứng xử trước không khí thời đại đối chọi giữa
xu hướng níu giữ truyền thống và xu hướng phương Tây.
Khi đọc Xứ tuyết, dịch giả người Pháp Armel Guerne nhận định:“ Đây
là một tác phẩm thuần tuý Nhật Bản khác với lối tư duy trong ngôn ngữ
phương Tây vốn nặng nề về gò bó duy lý. Nghệ thuật mờ ảo, cái đẹp được
miêu tả tinh tế, lộng lẫy, lối kết cấu gần như vô hình”.
Xứ tuyết được viết trong khoảng từ 1934- 1947, nàng kỹ nữ Onsen
geisha Matsuli là người mà Y.Kawabata đã gặp năm 1934 và là hình ảnh để
xây dựng nhân vật trong truyện. Nàng Komako người con gái mang vẻ đẹp
diễm lệ của người con gái Nhật Bản mang mối tình sâu nặng với Shimamuramột người đàn ông đến từ Tokyo, đã lập gia đình. Hình tượng Shimamura
giống như hình ảnh điển hình của tầng lớp trí thức Nhật những năm 1930, họ
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
9
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
bị lôi kéo, bị ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây nhưng vẫn luôn mang trong
mình khát khao tìm về với vẻ đẹp thuần tuý của đất nước.
Không gian trong Xứ tuyết của Y.Kawabata đã góp phần quan trọng
trong việc bộc lộ tư tưởng, dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Ở đây, ông đã
dựng lên một không gian đặc biệt mang dấu ấn riêng trong tác phẩm của
mình. Đó là khoảng không gian đồng hiện giữa hiện tại và quá khứ.
Y.Kawabata thường khắc hoạ một vài đường nét còn lại là những khoảng
trống hư không. Điều này cho thấy tác giả luôn trân trọng quá khứ, hướng về
quá khứ để tìm lại vẻ đẹp truyền thống đang dần bị lãng quên.
Căn cứ vào kết quả khảo sát cho thấy không gian nghệ thuật trong Xứ
tuyết của Y.Kawabata gồm hai kiểu không gian: Không gian thực( không gian
rộng: Không gian xứ tuyết phương Bắc Nhật Bản; không gian hẹp: Không
gian phòng trọ, không gian đám cháy) và không gian tâm lý.
1.2.1. Không gian thực
Trong mỗi trang sách, Y.Kawabata luôn ý thức về việc dựng lại một
không gian đẹp, truyền thống đặc trưng riêng của nước Nhật ( lễ hội, đền đài,
cây cối, cố đô…) muôn đời không bị thời gian và con người làm cho phai
nhạt. Không gian thực là khoảng không gian được xác định rõ ràng, hiển hiện
ngay trước mắt nhân vật, bạn đọc. Không thể tái hiện đời sống mà không
dựng lại một địa điểm, nơi nhân vật sống. Nhà văn có thể dễ dàng di chuyển
từ không gian này sang không gian khác. Không gian thực gói gọn trong nó
không gian rộng của xứ tuyết- phương Bắc Nhật Bản và khoảng không gian
hẹp là không gian của phòng trọ, không gian đám cháy.
Không gian thực trong Xứ tuyết hiện lên rất rõ ràng theo hành trình của
Shimamura- cuộc chạy trốn cuộc sống phàm tục và tìm lại bản ngã.
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
10
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
1.2.1.1. Không gian rộng- Không gian xứ tuyết phương Bắc Nhật
Bản
Qua không gian, nhà văn rất dễ dàng bộc lộ được tư tưởng, tình cảm
của mình. Không gian rộng- không gian xứ tuyết phương Bắc Nhật Bản là
khoảng không gian thiên nhiên, quang cảnh. Theo chân Shimamura hành trình
về xứ tuyết trước mắt bạn đọc hiện lên phong cảnh giàu chất trữ tình của
phương Bắc Nhật Bản với không gian bao la phủ đầy tuyết trắng, trần ngập
ánh nắng mặt trời, một khung cảnh nên thơ, quyến rũ lòng người. Không gian
này mang đậm ý nghĩa, mục đích của tác giả. Đây cũng chính là nét độc đáo
trong nghệ thuật không gian của nhà văn. Chính khoảng không gian này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà văn khai thác tâm lý, tình cảm, tính cách nhân
vật.
Thiên nhiên Nhật Bản là thiên nhiên mang tính hai mặt, chính điều này
đã tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút với người Nhật Bản- Một thiên nhiên dịu
dàng, tinh tế, thơ mộng nhưng cũng vô cùng dữ dội, khắc nghiệt luôn có sức
lôi cuốn với người Nhật Bản. Y.Kawabata đã tiếp thu truyền thống yêu cái
đẹp của người Nhật Bản “ Người Nhật vốn thích sống thanh cao, biết trọng
danh dự, gìn giữ đạo đức, khuôn phép, tâm hồn rộng mở, hoà hợp với thiên
nhiên. Họ yêu vẻ đẹp từ trong phiến đá, một bông hoa trên cành, một hoa
tuyết lửng lơ bay”.
Trong cuốn “ Thiên nhiên Nhật” P.Iu smit đã nhận xét: “ Cảm xúc về
cái đẹp, khuynh hướng chiêm ngưỡng vẻ đẹp là đặc tính tiêu biểu cho người
Nhật- từ nông phu cho đến nhà quý tộc. Bất cứ người nông dân Nhật Bản nào
cũng là nhà mỹ học, một nghệ sĩ biết cảm thụ cái đẹp từ trong thiên nhiên.
Đôi khi anh ta sẵn sàng chu du thật xa để thưởng ngoạn một cảnh đẹp nào đó.
Một quả núi, một con suối hay một ngọn tháp đều có thể được người ta sùng
bái trong suy nghĩ của một người bình thường, chúng gắn liền với các tượng
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
11
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
trong đền thờ Khổng Tử và Đức Phật. Nghệ thuật Nhật Bản nảy sinh từ lòng
tôn thờ vẻ đẹp thoát ra từ tổng thể hoà điệu của thế giới xung quanh ấy”.
Xứ tuyết được xây dựng trong một không gian rộng lớn đó là cả vùng
xứ tuyết- một miền đất xa xôi của phương Bắc Nhật Bản. Đây là không gian
gắn liền với hành trình thưởng ngoạn của Shimamura- một người đàn ông đến
từ Tokyo náo nhiệt.
Không gian xứ tuyết hiện ra trong ba mùa Shimamura tới đây, ở mỗi
mùa nó lại đem lại cho chàng một cảm giác riêng, mới mẻ.
Lần đầu tiên tới đây vào mùa xuân, Shimamura nhận thấy, không gian
nơi đây gợi cảm giác yên tĩnh và thanh bình. Anh tự nhủ, đây là “Ngôi làng
đơn sơ kiểu nông thôn nhưng chắc thú vị và tiện nghi lắm”. “Shimamura vừa
bước qua ngưỡng cửa của nhà trọ thì núi non và làn không khí ngát hương
thơm của cành lá non đã cuốn ngay anh đi”.
Xuất hiện một loạt những hình ảnh chân thực đến tuyệt đẹp của vùng
núi phương Bắc “ Thân của cây bá hương ở đằng sau phiến đá cô ngồi vút lên
thẳng tắp, cao đến nỗi anh phải ngửa người ra, tựa lưng vào phiến đá, mới dõi
mắt được đến tận ngọn cây. Bầu trời bị che khuất bởi một lớp gần như màu
đen những hàng cây mọc sít, những cành cây và những lá kim xanh thẫm dày
đặc”. “ Người đàn bà trẻ nhìn làn nước con thác đang chảy ở xa xa trong ánh
mặt trời đã bắt đầu xuống… tiếng nước rào rào chảy trên sỏi của những dòng
thác xa xa vọng tới như một bản nhạc dịu êm. Ở đằng kia, trên sườn núi dốc
đứng mà họ trông thấy từng quãng rất đẹp các cành bá hương. Bóng tối sẫm
dần trong các hõm núi”. Y.Kawabata miêu tả không gian qua cái nhìn của
Shimamura. Người đọc có cảm giác, lần đầu tiên chàng tới đây- không gian
nơi đây vẫn như một thực thể xa lạ: Không gian được miêu tả cao- rộng- xa
tạo sự khoáng đạt, thoải mái trong tâm hồn người đối diện.
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
12
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Lần thứ hai trở lại xứ tuyết trên chuyến tàu đêm Shimamura nhận thấy
“Chân trời trắng mờ dưới bóng đêm”, “ Trong bầu trời đêm, phía trên những
quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm…lướt qua vẫn chỉ một phong
cảnh núi non bây giờ đã tối và chẳng còn màu sắc gì”. Mùa đông ở xứ tuyết
“Phong cảnh bao trùm một vẻ khắc nghiệt khô khan”. Hình ảnh thơ mộng
“Bầu trời trong veo như pha lê, xa xa trên các ngọn núi, tuyết trông như một
lớp kem mềm mại được bao phủ một làn khói nhẹ” rồi “ ánh sáng và bóng tối
liên tục đùa giỡn nhau vẽ lên một phong cảnh băng giá và rồi bóng tối đã bao
trùm lên các sườn dốc”.
Y.Kawabata cũng miêu tả không gian xứ tuyết rất chân thực “ Mặt
đường rắn đanh dưới lớp băng giá”.
Bao trùm lên không gian nơi đây là hình ảnh của “ tuyết”: “ Cả xứ tuyết
ngập trong màu trắng của tuyết”. Đó là cái màu trắng tinh khiết tràn ngập
vùng đất phương Bắc băng giá xa xôi. Nó khác hẳn với Tokyo phồn hoa.
Y.Kawabata đã hình tượng hoá khoảng cách giữa Tokyo với xứ tuyết bằng
một đường hầm dài. Đó cũng là một khoảng cách giữa hai cõi: Thế giới loài
người đang chìm đắm trong chiến tranh, trong lối sống chạy theo dục vọng
tầm thường và một thế giới thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch còn lưu giữ giá
trị truyền thống. Vẻ đẹp của tuyết nơi đây có tác dụng gột rửa tâm hồn
Shimamura. Lúc này chàng như gần hơn với thiên nhiên, con người nơi đây.
Không gian càng được mở rộng ra hơn.
“ Đối diện, trước những hàng cây bá hương thẳng tắp, vô số chuồn
chuồn lượn bay trong gió, bị cuốn hút bởi vị hương của bồ công anh. Và
những dòng thác nước vọt tung toé như tràn ra trên đầu những cành bá hương
dài nhất. Những thảm hoa thếp bạc mà mùa thu đã trải lên dốc núi”- Lần thứ
ba Shimamura tới xứ tuyết. “ Thứ đầu tiên đập vào mắt anh từ xe lửa bước
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
13
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
xuống là tấm áo choàng trắng bằng bạc lộng lẫy… vậy mà những ống cỏ dài,
khi nhìn thật gần anh lại như thấy khác lạ”.
Không chỉ thiên nhiên, không gian xứ tuyết còn gắn liền với cảnh vật
xung quanh con người. “ Gần ngay cửa sổ, có một vuông vườn với những
luống khoai lang, củ cải, khoai tây vươn thẳng”, “ Phía trước họ, trên sườn
dốc đứng ở phía bên sườn kia, đung đưa những bông hoa Kaya bạc trắng”.
Không gian xứ tuyết còn gắn chặt với con người, qua con mắt quan sát
của Shimamura: “ Mặc bộ Bamaka thô bằng nỉ mới tinh màu đỏ da cam, một
cô bé chơi ném bóng vào một bức tường trắng, dưới một mái hiên”, hình ảnh
“nông dân đang gặt lúa, phơi lúa”.
Thêm một không gian của xứ tuyết đã được Shimamura khám phá.
“Shimamura biết một con đường núi, ở ngay dưới một đỉnh núi, chạy giữa
những hồ và đàm trong một cảnh quan lộng lẫy và đặc biệt vùng đất ẩm đấy
rất nhiều loài hoa núi…những con chuồn chuồn ngô”.
Ở lần thứ ba tới xứ tuyết này Shimamura như đã hoà vào cùng không
gian nơi đây. Không gian xứ tuyết không còn xa- rộng, lạnh lẽo nữa mà nó đã
gần gũi: “ Đối diện”, “ thật gần”, “ gần ngay” trước mắt anh.
Y.Kawabata miêu tả Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành
của các thi nhân, văn sĩ Nhật Bản. Họ luôn khao khát tìm về với cái đẹp
truyền thống dù đang sống giữa cuộc sống xô bồ, náo nhiệt.
Không gian xứ tuyết phương Bắc Nhật Bản được Y.Kawabata dựng lên
mang dấu ấn riêng trong phong cách của tác giả. Việc xây dựng không gian
này góp phần giúp độc giả hiểu rõ hơn về hành trình đi tìm cái đẹp, hoà trộn
với thiên nhiên của nhân vật trong sáng tác của Y.Kawabata.
12.1.2. Không gian hẹp
Không gian hẹp là không gian tạo điều kiện thuận lợi cho nhà văn khai
thác tâm lý, tình cảm, tính cách nhân vật. Đời sống của nhân vật hiện lên cụ
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
14
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
thể, sinh động, chân thực. Đây cũng chính là nét độc đáo trong nghệ thuật xây
dựng không gian của nhà văn.
Không gian hẹp trong Xứ tuyết được xác định là không gian nơi phòng
trọ và không gian đám cháy. Đây đều là những chi tiết quan trọng làm nên
đặc sắc cho tác phẩm.
1.2.1.2.1. Không gian phòng trọ
Bên cạnh không gian rộng lớn của xứ tuyết còn có một dạng không
gian khác, đó là không gian phòng trọ. Đời sống của nhân vật hiện lên rất cụ
thể, sinh động, chân thực ở đây.
Một điều dễ dàng nhận thấy trong Xứ tuyết xuất hiện không gian phòng
trọ. Không gian này đóng vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong không gian
kể chuyện của Y.Kawabata.
Không gian phòng trọ là không gian xuyên suốt trong Xứ tuyết. Xứ
tuyết được xây dựng trong một không gian hẹp là phòng trọ. Đây là nơi dành
cho những người lữ khách đi du ngoạn phong cảnh phương Bắc, đi nghỉ ngơi
nơi suối nước nóng. Cụ thể ở đây là căn phòng trọ của Shimamura- một người
đến từ Tokyo trong những lần chàng tới xứ tuyết. Đây cũng là nơi chàng gặp
gỡ Komako – một nàng geisha tỉnh lẻ, sau thành nhân tình của chàng, phòng
trọ là nơi chủ yếu diễn ra tâm sự của hai người. Là nơi thể hiện rõ tâm lý, tình
cảm, tích cách của nhân vật.
Sau một tuần lễ đi khắp dãy núi Ba Tỉnh, Shimamura tới trạm suối
nước nóng lần đầu tiên. Căn phòng của anh là căn phòng có cửa sổ nhìn ra
núi: “Thế là họ chỉ còn lại có một mình, nhưng vì cô cũng không biết tên
những ngọn núi mà họ trông thấy qua cửa sổ. Theo thống kê của chúng tôi thì
hình ảnh “ cửa sổ” được nhắc đến tới 22 lần: “Lần này cô xoay người đối diện
anh, nửa đứng nửa ngồi bên bệ cửa sổ”, “ Cô nhẹ nhàng nhảy khỏi bệ cửa
sổ”…
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
15
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
Phòng trọ này là nơi Komako nảy sinh tình yêu với Shimamura. “ Cô
gái gọi Shimamura rất to ngoài hành lang… cô vào phòng anh và ngã xuống
chỗ trước cái bàn”, “ khoảng gần một giờ đồng hồ sau đó, Shimamura nghe
thấy những bước chân đi chệnh choạng đang tiến một cách nạng nhọc dọc
theo hành lang”, “ không còn nghi ngờ gì nữa, tiếng gọi thất thanh ấy phải
vang khắp quán trọ. Các ngón tay cô chọc qua lớp giấy khi cô bám vào nẹp
cửa rồi ngã nhào vào anh”. Qua cuộc tiếp xúc với Shimamura, Komako đã
nảy sinh tình cảm với chàng. Cô đã tự động tìm đến phòng trọ của anh.
“Shimamura về giường. Trong lúc đó cô gái cúi người xuống bàn uống
một cốc nước nữa”.
“Shimamura kéo cô lại nằm xuống cạnh anh. Lúc đầu cô quay mặt đi.
Lát sau, cô đột ngột quay lại chìa môi cho anh”.
“ Cô không muốn ra về… cuối cùng, đã đến giờ có những tiếng động
đầu tiên ở quán trọ, khi những người phục vụ đã dậy và bắt đầu làm việc.
Nhanh nhẹn cô sửa sang lại đầu tóc một chút rồi lẻn ra ngoài”.
Sở dĩ Komako làm vậy bởi, là một geisha nàng vẫn luôn đề ra những
quy định để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Không gian phòng trọ trong lần thứ hai Shimamura tới xứ tuyết: “ Ở
quán trọ suối nước nóng…anh đi dọc dãy hành lang dài, mỗi bước chân trên
lớp sàn gỗ cũ kỹ làm kính ở các cánh cửa ra vào rung lên…anh thấy một phụ
nữ đứng bên trong văn phòng của nhà trọ…không nói gì, họ đi về phía phòng
anh”, “ Đến chân cầu thang, anh xoè bàn tay trái giơ trước mặt cô: Bàn tay
này vẫn giữ những kỷ niệm tốt đẹp về em - thật ư ?… cô chỉ buông tay anh
khi hai người đã đến giữa căn phòng” ở đây hai người đã tâm sự về những
ngày xa cách, về việc cô viết nhật ký, về toàn bộ cuộc đời cô. Shimamura lại
cho rằng đó là một việc làm vô ích “ khi có tiếng còi tàu. Anh thấy cô đứng
phắt dậy đi thẳng tới, mở cửa sổ và cúi người ra ngoài…không khí giá buốt
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
16
K32D- Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà
tràn ngập căn phòng” người đàn bà trẻ, cúi thêm chút nữa xuống bệ cửa sổ, tì
hai vú lên. Đó không phải là một tư thế buông thả mà ngược lại: Trước bóng
đêm, cô có vẻ cứng rắn và kiên quyết hơn bao giờ hết”, “Shimamura đặt tay
lên cổ người đàn bà trẻ để kéo cô lui lại. Nhưng cô vẫn bám chặt vào bệ cửa
sổ”. Chỉ bằng những hành động trong một không gian hẹp, Komako thể hiện
được tính cách mạnh mẽ bên trong con người cô và sự chủ động trong tình
yêu của nàng.
Không chỉ có không gian căn phòng của Shimamura, các nhân vật còn
hiện lên trong căn phòng của Komako: “ Em nghĩ, em có thể mời anh đến nhà
em, nên em mới chạy theo anh” Shimamura đã tới phòng của Komako
“Komako đi vào lối qua một bờ tường thấp. ở bên phải là một khu vườn nhỏ
phủ đầy tuyết…ngôi nhà trông cũng cũ kỹ và nứt nẻ như cái thân rỗng của
một câu dâu già. Tuyết nằm từng mảng trên mái nhà bị gồ lên bởi những
thanh xà cong queo”.
“ Chỗ lối vào bằng đất nên lạnh cóng” “Shimamura được dẫn tới chân
một cái thang trước khi ánh mắt anh quen với bóng tối đột ngột. Một cái
thang thật, đưa lên một căn phòng áp mái thực sự ”. Shimamura tò mò quan
sát căn phòng. Anh thấy có một cửa sổ nhỏ ở hướng Nam nhưng giấy bịt kín
ở cửa sổ ấy khá mới… các vách đều được dán giấy rất khéo khiến căn phòng
giống như một chiếc hòm cũ bằng giấy. Phía trên đầu là mái luôn không có
trần và mái nhà dốc tuột xuống ngang cửa sổ gây một cảm giác cô đơn. Sàn
gỗ và các vách ngăn tuy cũ kĩ nhưng cực kỳ sạch sẽ.
Miêu tả căn phòng của Komako nhưng gợi trong Shimamura sự chật
chội. Y. Kawabata miêu tả không gian sống của Komako rất tỉ mỉ với tấm phủ
lò sưởi, cái tủ nhiều ngăn, cái bàn trang điểm, cái hộp đựng khâu vá, cái giá
gồm nhiều ngăn nhỏ. Những đồ vật trong phòng đều cũ kỹ nhưng tất cả gợi sự
gọn gàng, sạch sẽ như vẻ sạch sẽ, tươi mát của chính con người cô.
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
17
K32D- Ngữ Văn
- Xem thêm -