BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
==========
VŨ PHẠM HƯNG LINH
MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ CẢ HÀNG HOÁ VÀ
LẠM PHÁT KỲ VỌNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
==========
VŨ PHẠM HƯNG LINH
MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ CẢ HÀNG HOÁ VÀ
LẠM PHÁT KỲ VỌNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính–Ngân hàng
Mã số
: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ Giảng
viên hướng dẫn là PGS. TS Nguyễn Ngọc Định. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công
trình nào. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong
phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước Hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.
TP.HCM, ngày 04 tháng 10 năm 2013
Tácgiả
Vũ Phạm Hưng Linh
MỤC LỤC
TÓM TẮT .................................................................................................................. 1
1. Giới thiệu ............................................................................................................. 3
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây ................................................. 7
2.1. Các kết quả nghiên cứu ở nước ngoài .................................................................. 7
2.2. Các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam................................................................... 23
3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 25
3.1. Mô hình nghiên cứu ........................................................................................... 27
3.2. Lựa chọn các biến trong bài nghiên cứu ............................................................ 27
3.3. Mô tả các biến được sử dụng trong bài nghiên cứu ........................................... 29
3.4. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm............................................................... 32
3.5. Các bước thực hiện............................................................................................. 34
4. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm .................................................................... 36
4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị................................................................................... 36
4.2. Xác định độ trễ tối ưu sử dụng trong mô hình ................................................... 37
4.2.1.
Xác định độ trễ tối đa .................................................................................. 37
4.2.2.
Xác định độ trễ tối ưu .................................................................................. 38
4.3. Kiểm định nhân quả Granger ............................................................................. 41
4.4. Kết quả kiểm định mô hình VAR ....................................................................... 43
4.5. Phân tích phân rã phương sai ............................................................................. 46
4.6. Phân tích hàm phản ứng xung ............................................................................ 48
4.7. Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát kỳ vọng và giá cả hàng hóa trước khủng
hoảng kinh tế thế giới 2008 (từ tháng 01/2004 đến tháng 09/2008) ......................... 50
4.8. Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát kỳ vọng và giá cả hàng hóa sau khủng
hoảng kinh tế thế giới 2008 (từ tháng 10/2008 đến tháng 06/2013) ......................... 55
5. Kết luận ............................................................................................................. 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 62
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 68
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kiểm định tính dừng của các biến .................................................. 68
Phụ lục 2: Kết quả kiểm định mô hình VAR ................................................... 74
Phụ lục 3: Kiểm định tính ổn định của mô hình .............................................. 79
Phụ lục 4: Kiểm định mô hình có bị đa cộng tuyến không .............................. 80
Phụ lục 5: Kiểm định mô hình có bị phương sai thay đổi không .................... 81
Phụ lục 6: Kiểm định mô hình có bị tự tương quan không .............................. 82
Phụ lục 7: Kết quả hồi quy mẫu phụ trước khủng hoảng ................................ 83
Phụ lục 8: Kết quả hồi quy mẫu phụ sau khủng hoảng .................................... 89
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1: Các biến sử dụng trong nghiên cứu ................................................. 31
Bảng 4.1: Kết quả kiểm định tính dừng của các biến nghiên cứu ................... 36
Bảng 4.2: Kết quả kiểm định độ trễ tối đa của mô hình nghiên cứu ............... 37
Bảng 4.3: Kết quả kiểm định độ trễ cần loại bỏ của mô hình nghiên cứu ....... 39
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định Portmanteau ...................................................... 40
Bảng 4.5: Kết quả kiểm định nhân quả Granger giữa các biến ....................... 41
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy mô hình VAR ........................................................ 43
Bảng 4.7: Kết quả phân rã phương sai ............................................................. 46
Bảng 4.8: Kết quả phân rã phương sai trước khủng hoảng kinh tế thế giới .... 52
Bảng 4.9: Kết quả phân rã phương sai sau khủng hoảng kinh tế thế giới ....... 56
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1: Đường Phillips mở rộng..................................................................... 8
Hình 2.2: Kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ .................................................. 19
Hình 4.1: Kết quả phân rã phương sai ............................................................. 47
Hình 4.2: Phản ứng của lạm phát kỳ vọng đối với giá cả hàng hoá ................ 49
Hình 4.3: Phản ứng của lạm phát kỳ vọng đối với giá cả hàng hoá trước khủng
hoảng kinh tế thế giới ....................................................................................... 51
Hình 4.4: Kết quả phân rã phương sai trước khủng hoảng kinh tế thế giới..... 53
Hình 4.5: Phản ứng của lạm phát kỳ vọng đối với giá cả hàng hoá sau khủng
hoảng kinh tế thế giới ....................................................................................... 55
Hình 4.6: Kết quả phân rã phương sai sau khủng hoảng kinh tế thế giới ........ 57
1
TÓM TẮT
Lạm phát kỳ vọng đã được nghiên cứu từ lâu và được chấp nhận rộng rãi
trong thực thi chính sách tiền tệ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, đây
là khái niệm khá mới và chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. Bài
nghiên cứu này xuất phát từ thực trạng lạm phát cao và biến động mạnh ở
Việt Nam trong những năm gần đây, các giải pháp đưa ra hầu hết tập trung
vào việc thắt chặt tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thắt chặt chỉ có thể là
một giải pháp trong ngắn hạn, hơn nữa lại có chi phí cơ hội rất lớn – đánh đổi
bằng tăng trưởng kinh tế. Thực tế cho thấy, lạm phát ở Việt Nam thường kéo
dài hơn những nước khác trong khu vực. Điều này chỉ ra rằng, một khi người
dân đã có kỳ vọng về lạm phát, việc kiểm soát nó thường khó khăn hơn. Tính
trì trệ này của lạm phát có thể là kết quả của việc người dân vẫn còn nhớ rõ
tình trạng siêu lạm phát kéo dài từ giữa những năm 1980 đến đầu những năm
1990. Vì vậy, các chính sách của Chính phủ chỉ có thể phát huy tác dụng nếu
Chính phủ quản lý được “kỳ vọng” của dân chúng. Nếu dân chúng kỳ vọng
lạm phát tương lai sẽ giảm thì chính sách kiềm chế lạm phát của Chính phủ sẽ
đạt được mục đích như mong đợi và ngược lại. Nếu Chính phủ không quan
tâm đến vấn đề này thì mọi nỗ lực của Chính phủ cũng chỉ thu được kết quả
hạn chế.
Bảy tháng đầu năm 2013, chỉ số của lạm phát luôn ở mức thấp, nhưng diễn
biến khá phức tạp. Nếu tháng 01 chỉ số CPI tăng ở mức 1,25%, thì tháng 02
vẫn tăng với mức 1,32%. Tuy cao, nhưng do ở thời điểm của tháng trước,
trong và sau Tết Nguyên đán nên chưa gây lo ngại cho các cơ quan chính sách
và điều hành. Nhưng từ tháng 03 đến tháng 07, CPI đột ngột tăng - giảm theo
biên độ hình “sin”: 0,19% (tháng 03) - 0,02% (tháng 04) - 0,06% (tháng 05) 0,05% (tháng 06) - 0,27% (tháng 07). Vậy là cho đến tháng 07, tuy cũng mới
2
ở mức tăng 2,68% so với 31/12/2012, nhưng so với cùng kỳ năm ngoái, CPI
đã tăng 6,81%. Và với việc giá các mặt hàng nhiên liệu và năng lượng đầu
vào cho sản xuất và tiêu dùng như xăng dầu và điện đã tăng, nhiều người kỳ
vọng rằng tốc độ chỉ số lạm phát có thể sẽ tăng từ nay đến cuối năm, gợi lên
những lo ngại về một sự bất ổn, như vẫn thường thấy trong những năm qua.
Mục đích chính của bài nghiên cứu này là kiểm định xem giá cả hàng hóa (giá
xăng dầu, giá gạo) có mối quan hệ như thế nào đối với lạm phát kỳ vọng ở
Việt Nam.
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình VAR với bộ số liệu từ tháng 01 năm 2004
đến tháng 06 năm 2013 để nghiên cứu mối quan hệ giữa giá cả hàng hóa và
lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong ngắn hạn,
tồn tại tác động nhân quả Granger hai chiều giữa lạm phát kỳ vọng và giá dầu,
tồn tại tác động nhân quả Granger một chiều từ giá gạo đến lạm phát kỳ vọng.
Bên cạnh đó, mô hình còn chỉ ra rằng: giá cả hàng hóa và lạm phát kỳ vọng
có mối quan hệ đồng biến với nhau. Trong đó, lạm phát kỳ vọng phụ thuộc
nhiều hơn vào giá gạo so với giá dầu. Cuối cùng, trong giai đoạn trước khủng
hoảng kinh tế thế giới, lạm phát kỳ vọng phản ứng với giá cả hàng hóa rất
phức tạp và không ổn định; trong giai đoạn hậu khủng hoảng, lạm phát kỳ
vọng có phản ứng nhanh, mạnh và ổn định hơn đối với các cú sốc giá cả hàng
hóa trong ngắn hạn.
3
1. Giới thiệu
Từ nửa cuối năm 2010 đến nửa đầu năm 2011, giá dầu tăng nhanh một cách
bất ngờ là do sự kết hợp giữa nhu cầu cao hơn của những thị trường mới nổi
và tình hình bất ổn ở những nước xuất khẩu dầu. Giá dầu West Texas
Intermediate (WTI) và dầu Brent đã tăng khoản 60% từ tháng 06/2010 đến
tháng 04/2011. Giá lương thực thực phẩm cũng tăng, bằng chứng là chỉ số giá
lương thực của FAO (FFPI) tăng 40% từ tháng 06/2010 đến tháng 02/2011
chủ yếu là do sản lượng thu hoạch kém và điều kiện thời tiết bất lợi. Sau khi
giảm nhẹ trong nửa cuối năm 2011, giá cả hàng hoá lại có xu hướng tăng
trong năm 2012.
(Bên cạnh những yếu tố theo chu kỳ còn có các yếu tố thuộc về cấu trúc nền
kinh tế đóng góp vào sự gia tăng của giá cả hàng hoá. Theo Chamon (2008),
Ấn Độ và Trung Quốc - những quốc gia đông dân nhất thế giới, đang trong
giai đoạn phát triển, khi mà nhu cầu sở hữu xe riêng rất lớn xảy ra, điều này
sẽ gây áp lực rất lớn lên giá dầu trong tương lai. Tương tự, theo Simon
(2011), dân số thế giới gia tăng cũng sẽ làm cho giá lương thực tăng trong
tương lai).
Tại Việt Nam, trong bảy tháng đầu năm 2013, chỉ số của lạm phát luôn ở mức
thấp, nhưng diễn biến khá phức tạp. Nếu tháng 01 chỉ số CPI tăng ở mức
1,25%, thì tháng 02 vẫn tăng với mức 1,32%. Tuy cao, nhưng do ở thời điểm
của tháng trước, trong và sau Tết Nguyên đán nên chưa gây cho các cơ quan
chính sách và điều hành sự lo ngại. Nhưng từ tháng 03 đến tháng 07, CPI đột
ngột tăng – giảm theo biên độ hình “sin”: 0,19% (tháng 03) - 0,02% (tháng
04) - 0,06% (tháng 05) - 0,05% (tháng 06) - 0,27% (tháng 07). Vậy là sau 7
tháng, tuy cũng chỉ mới ở mức tăng 2,68% so với 31/12/2012, nhưng so với
cùng kỳ năm ngoái, CPI đã tăng 6,81%. Và với việc giá các mặt hàng nhiên
liệu và năng lượng đầu vào cho sản xuất và tiêu dùng như xăng dầu và điện đã
4
tăng, nhiều người kỳ vọng rằng tốc độ chỉ số lạm phát có thể sẽ tăng từ nay
đến cuối năm, gợi lên những lo ngại về một sự bất ổn, như vẫn thường thấy
trong những năm qua.
Giá cả hàng hoá sẽ đi cùng với lạm phát và lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam.
Một vài tác động truyền dẫn trực tiếp từ sự thay đổi trong giá dầu vào lạm
phát hàng tiêu dùng phù hợp với tỷ trọng của những sản phẩm sử dụng năng
lượng dầu trong chỉ số giá hàng tiêu dùng. Tác động thực sự trên giá hàng tiêu
dùng có thể lớn hơn tác động trực tiếp nếu sự thay đổi của giá dầu truyền dẫn
vào giá thực tế/giá kỳ vọng của những sản phẩm dịch vụ không sử dụng năng
lượng.
Sự tăng lên của giá cả hàng hoá đặt ra thách thức cho việc quản lý kinh tế vĩ
mô và có thể tạo ra sự cản trở đối với phục hồi kinh tế của Việt Nam. Bên
cạnh đó, giá cả hàng hoá cao hơn có thể đưa vào lõi lạm phát - sự thay đổi của
chỉ số không bao gồm năng lượng và lương thực - tạo ra kỳ vọng về một
chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, vì vậy càng làm tăng thêm tác động xấu đến
tổng cầu. (đọc thêm nghiên cứu của Kilian (2008): Khảo sát tác động của cú
sốc giá năng lượng trên nền kinh tế thực). Từ quan điểm của chính sách tiền
tệ, một trong những rủi ro chính là động lực của lạm phát xung quanh các cú
sốc giá cả hàng hoá có thể tác động đến lạm phát kỳ vọng. Kỳ vọng lạm phát
của nhà đầu tư, người tiêu dùng cố định là điều kiện tiên quyết đối với chính
sách tiền tệ để duy trì sự thích ứng trong thời gian dài.
Trước thực trạng lạm phát luôn ở mức cao trong những năm gần đây thì việc
tìm ra căn nguyên của căn bệnh lạm phát, từ đó đưa ra các biện pháp để kiểm
soát và ổn định lạm phát luôn được các nhà kinh tế và nhà làm chính sách
quan tâm nghiên cứu. Đã có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đào sâu
vào vấn đề này. Tuy nhiên, một khía cạnh khác của lạm phát là yếu tố kỳ
vọng lại được ít quan tâm trong khi nó lại có một vai trò quan trọng trong
5
chính sách tiền tệ. Một thực tế gần như hiển nhiên ở Việt Nam đó là khi giá
xăng tăng, hầu hết giá các mặt hàng đều tăng và thường tăng cao hơn so với
mức tăng của giá xăng dầu, ngay cả các mặt hàng ít chịu tác động của việc
tăng giá này. Đây chỉ là một trong số những ví dụ cho chúng ta thấy tác động
của kỳ vọng lên giá cả.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “Mối quan hệ giữa giá cả hàng
hóa và lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam” để nghiên cứu và làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ.
Mục tiêu nghiên cứu chủ yếu của đề tài là làm sáng tỏ mối quan hệ giữa giá
cả hàng hoá trên thị trường và lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu trên, trong bài nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung giải
quyết các câu hỏi nghiên cứu sau:
Thứ nhất, giá cả hàng hóa (giá xăng dầu, giá gạo) có mối quan hệ như thế
nào với lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam?
Thứ hai, mối quan hệ giữa giá cả hàng hóa và lạm phát kỳ vọng như thế
nào trước và sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008?
Trên thế giới, lạm phát kỳ vọng thường được ước lượng theo phương pháp
khảo sát và phương pháp dựa trên các nguồn thông tin từ thị trường tài chính.
Phương pháp đo lường kỳ vọng thông qua khảo sát được sử dụng từ rất
sớm và phổ biến đối với các quốc gia phát triển và thị trường mới nổi.
Chẳng hạn, Mỹ đã tiến hành nghiên cứu và khảo sát lạm phát kỳ vọng trên
các hộ gia đình theo quý từ năm 1959 và chuyển sang khảo sát theo tháng
từ năm 1978; Israel tiến hành khảo sát trên các chuyên gia dự báo, các
công ty từ tháng 09 năm 1983 và thực hiện ít nhất hai lần mỗi tháng;
Philippines thực hiện khảo sát theo quý từ tháng 06 năm 2001 với 5000
doanh nghiệp niêm yết trên Ủy ban chứng khoán và ngoại hối Philippines
6
và gần đây nhất là tháng 09 năm 2005, Ấn Độ đã thực hiện khảo sát lạm
phát kỳ vọng theo quý trên các hộ gia đình.
Phương pháp đo lường lạm phát kỳ vọng dựa trên thị trường tài chính
được thực hiện thông qua phần bù lạm phát có trong Trái phiếu chính phủ
(đây chính là phần chênh lệch giữa lợi suất Trái phiếu chính phủ danh
nghĩa và Trái phiếu chính phủ hiệu chỉnh lạm phát ứng với các điều kiện
cho sẵn).
Việc nghiên cứu, đo lường kỳ vọng lạm phát ở các nước đang phát triển như
Việt Nam còn rất hạn chế, chưa có một cuộc khảo sát nào về kỳ vọng lạm
phát được thực hiện trong khi nó lại là một vấn đề dễ dàng nhận thấy ở Việt
Nam. Vì vậy trong bài nghiên cứu này, tác giả lựa chọn phương pháp đo
lường lạm phát kỳ vọng dựa trên thị trường tài chính để thực hiện các kiểm
định của mình. Do hiện nay Việt Nam vẫn chưa thực hiện hình thức Trái
phiếu chính phủ hiệu chỉnh lạm phát nên tác giả sử dụng lãi suất Trái phiếu
kho bạc kỳ hạn một năm làm đại diện cho biến Lạm phát kỳ vọng trong bài
nghiên cứu.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được sắp xếp như sau:
Phần 2: Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây.
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu.
Phần 4: Kết quả nghiên cứu.
Phần 5: Kết luận.
7
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
Phần này chúng tôi sẽ trình bày các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trước
đây về lạm phát, lạm phát kỳ vọng, cũng như mối quan hệ giữa giá cả hàng
hóa và lạm phát kỳ vọng.
2.1. Các kết quả nghiên cứu ở nước ngoài
Lý thuyết về lạm phát hiện nay chủ yếu dựa trên mô hình đường Phillips do
Phillips (1958) và Lipsey (1960) phát triển dựa trên giả định rằng giữa thất
nghiệp và lạm phát có mối quan hệ ổn định và tỷ lệ nghịch.
Dựa vào kết quả thực nghiệm nhiều năm về tiền lương, giá cả, thất nghiệp ở
Anh, đường Phillips ban đầu ra đời cho thấy mối quan hệ nghịch giữa thất
nghiệp và lạm phát và nó cũng phù hợp với thực tế kinh tế nhiều nước Tây Âu
thời kỳ những năm 50. Tức là có sự “đánh đổi” giữa lạm phát và thất nghiệp.
Đường Phillips được xây dựng hoàn chỉnh và có dạng như sau:
Gp = - e * (u - u*)
Trong đó:
Gp là tỷ lệ lạm phát.
u là tỷ lệ thất nghiệp thực tế.
u* là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
e là độ dốc đường Phillips.
Đường này cho thấy những đặc điểm sau đây:
Lạm phát bằng không khi thất nghiệp thực tế bằng tỷ lệ tự nhiên.
Khi thất nghiệp thực tế thấp hơn thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát xảy ra.
Độ dốc e càng lớn thì một sự tăng, giảm nhỏ của thất nghiệp sẽ gây ra sự
tang giảm đáng kể về lạm phát. Độ lớn của e phản ánh sự phản ứng của
tiền lương. Nếu tiền lương có độ phản ứng mạnh thì e lớn, nếu có tính ì
cao thì e nhỏ (đường Phillips sẽ xoay ngang). Nếu đường Phillips gần như
nằm ngang thì lạm phát phản ứng rất kém với thất nghiệp.
8
Friedman (1968) và Phelps (1967) đã bổ sung thêm vai trò của kỳ vọng về
lạm phát vào mô hình, phân biệt giữa đường Phillips ngắn hạn và đường
Phillips dài hạn.
Thực tế ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm phát kỳ
vọng, vì thế đường Phillips đã được mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỷ lệ
lạm phát kỳ vọng và có dạng như sau:
Gp = Gpe - e * (u - u*)
Trong đó: Gpe là tỷ lệ lạm phát kỳ vọng.
Đường này cho thấy khi thất nghiệp thực tế bằng thất nghiệp tự nhiên thì lạm
phát bằng tỉ lệ kỳ vọng. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn thất nghiệp tự nhiên
thì tỷ lệ lạm phát thấp hơn tỷ lệ kỳ vọng.
Hình 2.1 Đường Phillips mở rộng
Đường Phillips ngắn hạn:
Đường PC1 gọi là đường Phillips ngắn hạn ứng với thời kỳ mà tỷ lệ lạm phát
kỳ vọng chưa thay đổi. Đường Phillips ngắn hạn chỉ ra rằng trong ngắn hạn,
mức thất nghiệp cao hơn đi kèm với mức lạm phát thấp hơn. Chiều cao của
9
đường Phillips ngắn hạn phản ánh lạm phát kỳ vọng, vị trí cân bằng dài hạn
nằm tại E, khi đó kỳ vọng được điều chỉnh trọn vẹn.
Xuất phát từ điểm E, giả sử có một sự kiện làm tăng tổng cầu. Mức thất
nghiệp sẽ giảm, lạm phát sẽ tăng lên và nền kinh tế nằm tại điểm A. Khi đó
NHTW sẽ tăng lãi suất để đạt mức mục tiêu của nó (ở một trong hai dạng) và
nền kinh tế từ từ vận động dọc theo đường Phillips ngắn hạn từ điểm A về lại
điểm E. Bởi vì, cần một khoảng thời gian để lãi suất tác động tới tổng cầu, do
vậy quá trình này thường kéo dài từ một tới hai năm. Ngược lại, nếu xuát phát
từ điểm E, một cú sốc bất lợi sẽ làm nền kinh tế đi tới điểm B trong ngắn hạn.
NHTW sẽ thay đổi lãi suất để đưa nền kinh tế từ từ quay trở lại điểm E.
Đường Phillips ngắn hạn tương ứng với đường tổng cung ngắn hạn. Với mức
lương đã có từ trước, mức giá cao hơn sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất
nhiều hơn và cần thuê thêm nhiều lao động hơn. Tại mọi mức giá của thời kỳ
trước, mức giá cao hơn ngày hôm nay hàm ý rằng tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Chiều cao của đường tổng cung ngắn hạn phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng
của tiền lương danh nghĩa mà nền kinh tế đã có. Khi công nhân và doanh
nghiệp kỳ vọng lạm phát cao, họ sẽ thống nhất tăng lương danh nghĩa. Nếu
lạm phát diễn ra đúng như kỳ vọng thì tiền lương sẽ giống như dự tính và tăng
trưởng tiền lương danh nghĩa sẽ vừa đủ. Nếu lạm phát cao hơn mức kỳ vọng
thì tiền lương thực tế sẽ thấp hơn so với dự tính. Doanh nghiệp sẽ tăng sản
xuất và thuê thêm nhiều lao động hơn. Lạm phát cao sẽ đi kèm với mức thất
nghiệp thấp hơn. Đường Phillips ngắn hạn có độ dốc đi xuống. Chiều cao của
nó phản ánh kỳ vọng lạm phát được thể hiện trong hợp đồng tiền lương đã có
trước đó.
Điều này giải thích tại sao hầu hết các nền kinh tế đều đã phải trải qua thời kỳ
lạm phát cao tại mỗi mức thất nghiệp trong những năm 1970 và 1980: Đường
10
Phillips ngắn hạn đã dịch chuyển lên trên. Chính phủ in tiền nhanh hơn trước
kia. Tỷ lệ lạm phát cân bằng dài hạn cao và được kỳ vọng là sẽ cao.
Điểm E sẽ di chuyển lên phía trên Đường Phillips dài hạn trong hình 2.1.
Đường Phillips ngắn hạn đi qua điểm này cao hơn rất nhiều so với Đường
Phillips ngắn hạn trong dữ liệu mà Giáo sư Phillips đã nghiên cứu lúc đầu.
Thời kỳ 1970 – 1980 là giai đoạn lạm phát cao. Dữ liệu của Đường Phillips
ban đầu là của thời kỳ có mức lạm phát thấp hơn rất nhiều.
Đường Phillips dài hạn (LPC)
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức sản lượng tự nhiên là các giá trị tại trạng
thái cân bằng dài hạn. Tại trạng thái cân bằng dài hạn, nền kinh tế vừa đạt
mức sản lượng tiềm năng, vừa có mức thất nghiệp cân bằng. Đôi khi, người ta
gọi đây là mức sản lượng tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Cả hai đều
được quyết định bởi các yếu tố thực chứ không phải là các yếu tố danh nghĩa.
Chúng phụ thuộc vào lượng cung đầu vào, trình độ công nghệ, mức thuế suất
v.v… Chúng không phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát nếu tất cả các mức giá P và
mức lương danh nghĩa W đều tăng cùng nhau. Mức thất nghiệp tự nhiên sẽ
phụ thuộc vào tiền lương thực tế W/P.
Do đường tổng cung dài hạn là đường thẳng đứng tại mức sản lượng tiềm
năng – sản lượng không chịu tác động của lạm phát – nên đường Phillips dài
hạn sẽ thẳng đứng tại mức thất nghiệp cân bằng. Mức thất nghiệp cân bằng
không phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát. Hình 2.1 biểu diễn đường Đường Phillips
dài hạn thẳng đứng tại mức thất nghiệp cân bằng U*.
Tại trạng thái cân bằng dài hạn, lạm phát không thay đổi. Mọi người sẽ dự
kiến chính xác mức lạm phát và điều chỉnh tốc độ tăng lương danh nghĩa để
giữ cho mức lương thực tế không đổi, mức lương thực tế sẽ duy trì ở mức
lương cân bằng dài hạn. Tương tự, lãi suất danh nghĩa cũng đủ lớn để bù đắp
11
mức lạm phát và duy trì mức lãi suất thực tế ở tại trạng thái cân bằng của nó.
Mọi người sẽ thích nghi với lạm phát vì người ta đã dự kiến đầy đủ về nó.
Giả sử rằng tỷ lệ lạm phát bằng 10% một năm. Đây là mức lạm phát phù hợp
với các dạng chính sách tiền tệ. Chúng ta có thể xem chính sách tiền tệ ở mức
tăng trưởng tiền tệ mục tiêu là 10% hoặc lạm phát mục tiêu là 10% một năm.
Trong hình 2.1, trạng thái cân bằn dài hạn nằm tại điểm E. Lạm phát bằng
10% đúng như mọi người kỳ vọng. Lượng tiền danh nghĩa tăng trưởng hàng
năm là 10%. Mức thất nghiệp duy trì tại trạng thái thất nghiệp tự nhiên.
Hai kết luận quan trọng từ các phân tích ở trên là:
Thứ nhất, sẽ là sai lầm nếu chúng ta giải thích đường Phillips ban đầu thể hiện
mối quan hệ đánh đổi thường xuyên giữa lạm phát và thất nghiệp. Đó chỉ là
mối quan hệ đánh đổi ngắn hạn, nó tương ứng với đường tổng cung ngắn hạn,
khi nền kinh tế phải điều chỉnh trước một cú sốc cầu.
Thứ hai, tốc độ điều chỉnh nền kinh tế dọc theo đường Phillips phụ thuộc vào
hai yếu tố: mức độ linh hoạt của tiền lương danh nghĩa và mức độ chính sách
tiền tệ điều chỉnh lãi suất để phục hồi mức tổng cầu nhanh hơn. Tiền lương
hoàn toàn linh hoạt sẽ xác lập lại đường Phillips thẳng đứng và đường tổng
cung thẳng đứng. Tốc độ điều chỉnh nhanh của lãi suất sẽ bù đắp cho cú sốc
cầu, sẽ phục hồi lại mức sản lượng, mức thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát và đưa
chúng về trạng thái cân bằng dài hạn.
Các nhà kinh tế theo trường phái tiền tệ cực đoan tin rằng tiền lương rất linh
hoạt. Thông thường, người lao động thỏa thuận lương theo năm, và điều này
sẽ ngăn không cho nền kinh tế luôn luôn nằm tại vị trí cân bằng dài hạn.
Những thay đổi của tổng cầu ngoài dự kiến khi tiền lương danh nghĩa đã được
xác lập có nghĩa là mức lương và mức giá sẽ tạm thời bị sai lệch. Tuy nhiên,
những sai lệch này sẽ sớm bị loại bỏ khi tiền lương được thỏa thuận lại.
12
Nếu tiền lương và giá cả điều chỉnh chậm chạp thì mức sản toàn dụng việc
làm sẽ không thể phục hồi lại ngay lập tức. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ có
thể bù đắp đầy đủ cho cú sốc cầu một khi nó được dự báo. Không có một mâu
thuẫn nào giữa việc ổn định lạm phát và ổn định tăng sản lượng hay việc làm.
Những mâu thuẫn như vậy sẽ chỉ nảy sinh khi gặp phải các cú sốc cung.
Fischer (1977) và Taylor (1979) đã điều chỉnh đường Phillips bằng cách đưa
thêm sự cứng nhắc danh nghĩa vào mô hình. Kết quả của hàng loạt điều chỉnh
này là đường Phillips mới New – Keynesian Phillips Curve (NKPC) đã được
xây dựng với các đặc điểm về kỳ vọng, nghĩa là lạm phát được quyết định bởi
các yếu tố kỳ vọng trong tương lai. Tuy nhiên, Woodford (2003) và
Christiano, Eichenbaum và Evans (2005) đã tiếp tục điều chỉnh đường
NKPC khi tìm thấy bằng chứng đáng tin cậy rằng tỷ lệ lạm phát hiện tại phụ
thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong quá khứ.
Phương trình đường NKPC sau hàng loạt các điều chỉnh:
Goodfriend (1993) lập luận rằng những người tham gia thị trường tài chính
đã có kinh nghiệm về nỗi sợ lạm phát, vì vậy Cục Dự trữ Liên bang đã tạo ra
một xu hướng tăng lên trong lạm phát thực tế trong những năm 1970 bằng
cách phản ứng với nỗi sợ lạm phát với một độ trễ.
Mankiw và Reis (2001) cho rằng thông tin được truyền đạt một cách rất
chậm chạp ra công chúng. Hậu quả là phản ứng của người ra quyết định bị
lệch đi so với thực tế về mặt thời gian. Bài nghiên cứu cũng cho thấy tốc độ
các phương tiện truyền thông đưa tin đến các chủ thể kinh tế sẽ quyết định sự
phân tán của kỳ vọng lạm phát. Điều này tương ứng với mức độ phóng đại xã
hội mà Ranyard và đồng sự (2008) đã đề cập.
Orphanides và Williams (2003) cho thấy sự hiện diện của sự tiếp thu đã làm
gia tăng độ nhạy cảm của kỳ vọng lạm phát và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất
13
trước các cú sốc kinh tế. Kỳ vọng lạm phát ít nhạy cảm hơn khi lạm phát mục
tiêu được áp dụng. Điều này thể hiện được lợi ích của việc neo giữ kỳ vọng
lạm phát có liên kết chặt chẽ với thành công của NHTW trong việc truyền đạt
các mục tiêu.
Gurkaynak (2007, 2010) cho thấy cách lãi suất danh nghĩa dài hạn của Mỹ
phản ứng với dữ liệu kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 1994 – 2005. Ông đã tìm
thấy lãi suất kỳ hạn trong dài hạn phản ứng có ý nghĩa thống kê cũng như có
hệ thống đối với thông tin được ban hành. Điều này cho biết lạm phát kỳ vọng
dài hạn có thể không cố định.
Pfajfar và Santoro (2006) quan tâm đến quá trình tiếp thu và thông tin cứng
nhắc như nguồn gốc của sự không thống nhất trong thiết lập kỳ vọng giữa các
chủ thể. Sử dụng số liệu khảo sát của Đại học Michigan, tác giả nhận ra ba
vùng phân phối của các tiến trình thiết lập kỳ vọng khác nhau, thể hiện sự
không đồng nhất trong phản ứng của chủ thể trước sự thay đổi của nền kinh tế
vĩ mô. Phân phối trái thể hiện nhóm kỳ vọng tự hồi quy, phân phối trung tâm
là nhóm gần hợp lý và phân phối phải tiếp thu thích nghi và thông tin cứng
nhắc. Nhóm cuối cùng tỏ ra khá bi quan và cường điệu hóa các biến động
kinh tế vĩ mô.
Bernanke và Mishkin (2007) nêu bật sự cần thiết của nghiên cứu để có một
sự hiểu biết tốt hơn về các nhân tố quyết định lạm phát kỳ vọng và bằng cách
nào những kỳ vọng đó ảnh hưởng đến lạm phát thực.
Blanchard và Gali (2007) đã sử dụng mô hình VAR để so sánh sự ảnh hưởng
vĩ mô của những cú sốc từ giá dầu lên hai thời kỳ lấy mẫu khác nhau, 1970:11983:4 và 1984:1-2006:4. Kết quả cũng chỉ ra phản ứng của lạm phát thực đối
với các cú sốc giá dầu trở nên gần như không có trong thời kỳ gần đây hơn.
Tuy nhiên, mô hình VAR của họ không bao gồm lạm phát kỳ vọng và lãi suất
danh nghĩa trong ngắn hạn, và do đó không có được những nguồn gốc thêm
- Xem thêm -