Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu xây dựng khẩu phần nuôi dưỡng bê đực lai holstein friesian hf hướng s...

Tài liệu Nghiên cứu xây dựng khẩu phần nuôi dưỡng bê đực lai holstein friesian hf hướng sữa lấy thịt tại thành phố hồ chí minh

.PDF
49
138
100

Mô tả:

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HCM VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP MIỀN NAM SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRUNG TÂM CKTBKT NÔNG NGHIỆP BÁO CÁO GIÁM ĐỊNH NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG KHẨU PHẦN NUÔI DƯỠNG BÊ ĐỰC LAI HOLSTEIN FRIESIAN (HF) HƯỚNG SỮA LẤY THỊT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ThS. Phạm Hồ Hải THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 04/ 2008 1 - Tên đề tài: Nghiên cứu xây dựng khẩu phần nuôi dưỡng bê đực lai Holstein Friesian (HF) hướng sữa lấy thịt tại thành phố Hồ Chí Minh. - Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phạm Hồ Hải - Cơ quan chủ trì: Trung tâm Chuyển giao Tiến bộ Kỹ thuật Nông nghiệp – Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam (IAS). - Thời gian thực hiện đề tài: 12/2006 đến 11/2008 - Kinh phí được duyệt: 190.000.000 đồng - Kinh phí đã cấp: 120.000.000 đồng theo TB số : ………TB-SKHCN ngày ……./12/2006 - Mục tiêu: Mục tiêu chung của đề tài là xác định khẩu phần nuôi dưỡng bê đực lai Hà Lan theo hướng thịt phù hợp với điều kiện tự nhiên của TP. Hồ Chí Minh nói riêng, của miền Nam nói chung; Từ đó hình thành và phát triển hướng chăn nuôi bò thịt đạt hiệu quả kinh tế cao. Mục tiêu cụ thể của đề tài là: Sản xuất và thử nghiệm chất thay sữa từ nguồn nguyên liệu địa phương, thay thế sữa bò mẹ sử dụng cho bê đực sau khi sinh cho đến khi cai sữa. Thử nghiệm khẩu phần nuôi dưỡng bê đực sau khi cai sữa đến khi giết thịt trên cơ sở tận dụng nguồn thức ăn địa phương. Chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiển sản xuất. - Nội dung (theo RD): Đề tài sẽ thực hiện theo 03 nội dung chính như sau: v Nội dung 1: Sản xuất thử nghiệm chất thay sữa từ nguồn nguyên liệu địa phương thay thế sữa bò mẹ nuôi bê đực lai Hà Lan sau khi sinh (1-3 ngày tuổi) đến khi cai sữa (4 tháng tuổi). § Nghiên cứu tổ hợp 02 công thức chất thay sữa từ các nguyên liệu như : công thức 1: bột đậu nành enzym, bột gạo, béo thực vật, vitamin, khoáng và enzym gọi là SCMR (Soybean calf milk replacer); công thức 2: bột đậu nành enzym, sữa ít béo, vitamin, khoáng và enzym gọi là CMR (Calf Milk Replacer); tạo thành hỗn hợp bột có 20-24% chất béo; 22-24% chất đạm, khoáng tổng số 10%, xơ thô 0,5-1%, ẩm độ 0,3-0,5%, lactose 40%. § Thí nghiệm 1: Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển khi sử dụng chất 2 thay sữa từ bột đậu nành (SCMR), sữa thay thế CMR và sữa bò mẹ gọi là CM (Cow Milk) trên bê đực lai Hà Lan sau khi sinh. v Nội dung 2: Thử nghiệm khẩu phần nuôi dưỡng bê sau khi cai sữa đến khi giết thịt trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu tại địa phương. • Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của việc thay thế cỏ, cám trong khẩu phần bằng các phụ phẩm nông nghiệp đã được chế biến như rơm ủ 4% urê, thân bắp ủ chua, vỏ khoai mì khô/ủ chua, khoai mì lát đến khả năng sinh trưởng và phát triển của bê giai đoạn 5-14 tháng tuổi. • Thí nghiệm 3: Nuôi vổ béo bê lai hướng sữa lấy thịt theo kỹ thuật phối hợp khẩu phần tổng hợp (giai đoạn 15-18 tháng tuổi). v Nội dung 3: Đánh gía hiệu quả kinh tế và chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiển sản xuất. • Phân tích hiệu quả kinh tế sau khi kết thúc từng giai đoạn thí nghiệm và hạch toán giá thành sản xuất 1 kg thịt bò hơi đến khi kết thúc thí nghiệm. • Tổ chức hội thảo để chuyển giao kết quả nghiên cứu. - Những nội dung thực hiện ở giai đoạn 1 : Công việc dự kiến Nghiên cứu công thức chất thay sữa Công việc đã thực hiện Nghiên cứu và sản xuất được 2 công thức chất thay sữa từ bột đậu nành (SCMR) và sữa ít béo (CMR) với số lượng là 1.300 kg cho cả 2 công thức (tương đương với 11.700 kg sữa thay thế) Thí nghiệm 1: Đánh giá khả năng sinh Hoàn thành thí nghiệm sử dụng sữa thay trưởng, phát triển khi sử dụng chất thế cho bê từ 3 ngày tuổi đến cai sữa (4 thay sữa từ bột đậu nành (SCMR), sữa tháng) với số lượng 30 bê đực lai Hà Lan thay thế CMR và sữa bò mẹ gọi là CM tại 02 hộ chăn nuôi bò sữa ở Hóc Môn và (Cow Milk) trên bê đực lai Hà Lan sau 24 bê lai Hà Lan (9 cái + 15 đực) tại Long khi sinh Thành – Đồng Nai. Thí nghiệm 2 : Ảnh hưởng của việc Bước đầu thực hiện thí nghiệm này cho 24 thay thế cỏ, cám trong khẩu phần bằng bê đực lai Hà Lan tại Hóc Môn và 21 bê lai 3 các phụ phẩm nông nghiệp đã được Hà Lan (9 bê cái và 12 bê đực) tại Long chế biến như rơm ủ 4% urê, thân bắp ủ Thành từ 07/2007 đến 02/2008 (bê từ 5 chua, vỏ khoai mì khô/ủ chua, khoai đến 10 tháng tuổi) mì lát đến khả năng sinh trưởng và phát triển của bê giai đoạn 5-14 tháng tuổi Thí nghiệm 3: Nuôi vổ béo bê lai Bước đầu thực hiện thí nghiệm vỗ béo cho hướng sữa lấy thịt theo kỹ thuật phối 12 bê đực lai Hà Lan, giống ≥ F3; trọng hợp khẩu phần tổng hợp (giai đoạn 15- lượng bình quân 220 kg tại 01 hộ chăn 18 tháng tuổi) nuôi ở Hóc Môn trên cơ sở sử dụng khẩu phần có mức năng lượng (ME) khác nhau từ 2.300 đến 2.500 kcal/kg DM khẩu phần; đạm thô (CP) từ 10-12% - Những nội dung còn lại. • Tiếp tục theo dõi thí nghiệm 2 ở các hộ chăn nuôi tại Hóc Môn và Long Thành. • Tiếp tục triển khai thí nghiệm 3: Nuôi vổ béo bê lai hướng sữa lấy thịt (giai đoạn 15-18 tháng tuổi). • Tổ chức Hội thảo chuyển giao kết quả nghiên cứu. • Báo cáo nghiệm thu đề tài 4 PHẦN I. TỔNG QUAN 1.1. Giới thiệu. Ngành chăn nuôi bò sữa tại các khu vực ở phía Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) nói riêng đã và đang phát triển rất mạnh, bước đầu đã gặt hái được một số kết quả khả quan. Tổng đàn bò sữa hiện nay ở TP.HCM khoảng trên dưới 56.000 con (số liệu thống kê năm 2007), chiếm hơn 2/3 tổng đàn bò sữa của cả nước. Bình quân có khoảng gần 28.000 bê sinh ra/năm; trong đó có gần 14.000 bê đực hướng sữa được sinh ra; ước chừng dưới 10%/tổng số bê đực này được nông dân nuôi. Số còn lại hầu hết được bán cho các lò mổ, nhà hàng ngay sau khi sinh hoặc 2-3 ngày tuổi với giá bán rất thấp khoảng 500.000-600.000 đồng/bê. Do phương thức chăn nuôi bê phổ biến ở nước ta hiện nay là sử dụng hoàn toàn sữa nguyên để nuôi bê đã tiêu tốn một lượng sữa nguyên lớn, do đó chỉ những bê cái mới được nông dân chọn nuôi nhằm mục đích sản xuất bê hậu bị; Trong khi đó, chính do chi phí cao nên những bê đực mới sinh ra thì thường bị bán để giết thịt rất sớm dẫn đến giảm hiệu quả kinh tế làm cho ngöôøi chaên nuoâi vaø ngöôøi tieâu thuï ñeàu khoâng coù lôïi. Ñây cũng chính là rào cản cho sự phát triển chăn nuôi bò sữa ở nước ta. Do đó, nếu ta giải quyết được nguồn thức ăn tương đối rẻ, những bê này có thể được nuôi đến khi đạt trọng lượng lớn hơn và sẽ sản xuất thịt có phẩm chất cao.Vì thế, việc áp dụng phương thức nuôi bê bằng thức ăn thay thế sữa (Milk replacer) với giá rẻ hơn sữa nguyên, chi phí thấp hơn so với giá sữa nguyên, lại dễ tiêu thích hợp với hệ tiêu hóa bê sẽ là nguồn nguyên liệu dồi dào là nhân tố góp phần làm giảm chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận cho người chăn nuôi bò sữa, thúc đẩy phong trào chăn nuôi bê đực theo hướng thịt ở địa phương, vaø töø ñoù nuoâi boø seõ trôû thaønh moät ngheà cuûa ngöôøi noâng daân Vieät Nam. Ở các nước chăn nuôi tiên tiến, vấn đề sử dụng sữa thay thế nuôi bê đực theo hướng sản xuất thịt đáp ứng được đến 40% tổng sản lượng thịt sản xuất và hướng này ngày cáng phát triển vì năng suất và chất lượng thịt sản xuất theo hướng này mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Ở nước ta việc sử dụng sữa thay thế nuôi bê vẫn còn hạn chế là do: chăn nuôi thường không tập trung và mang tính nhỏ lẽ; giá sữa 5 thay thế ngoại nhập còn khá cao; quan trọng hơn hết là do trình độ và sự e ngại của người chăn nuôi khi sử dụng những sản phẩm không có nguồn gốc tự nhiên; và cuối cùng là làm sao giải quyết tốt nhöõng vaán ñeà coù lieân quan nhö: hieäu quaû kinh teá, chaát löôïng söõa thay theá, phöông thöùc chaêm soùc, nuoâi döôõng… Chính vì thế việc thử nghiệm sử dụng sữa thay thế và xây dựng khẩu phần ăn trên cơ sở sử dụng nguyên liệu tại chổ cho bê sau cai sữa trong điều kiện Việt Nam coù yù nghóa thieát thöïc trong chaên nuoâi boø hieän nay. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu. 1.2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước Vỗ béo bê đực hướng sữa lấy thịt không mới đối với những nước có nền chăn nuôi tiên tiến và đã trở thành một qui trình công nghiệp được áp dụng rộng rãi ở các nước như Úc, Mỹ, Anh...Riêng những quốc gia mà trình độ chăn nuôi chưa cao, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Alvarez và ctv, 1980; Velazco và ctv, 1982; Khan và Preston, 1985; Gaya và ctv, 1987; Kevin và ctv, 2000; Jenkin và ctv, 2001; Quigley và ctv, 2001; Robert và ctv, 2003 đã thử nghiệm dùng sữa nhân tạo trên nền là sữa không béo bổ sung một số nguyên liệu khác như: béo thực vật, bột lòng đỏ trứng gà, một số vitamin và khoáng cho bê Hà Lan thuần và bê lai giữa Hà Lan và Hereford đã cho kết quả rất khả quan, tăng trọng bê từ 353-500 gam/con/ngày so với 497-770 gam/con/ngày khi bú bò mẹ. 1.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước Trung tâm Nghiên cứu KHKT và Khuyến nông TP Hồ Chí Minh đã xây dựng 5 mô hình điểm nuôi bê đực (giống lai hướng sữa) tại 5 hộ ở xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn cho kết quả rất tốt. Theo những hộ nuôi này, việc giữ bê đực để nuôi lấy thịt hiệu quả hơn thay vì bán làm bê thui, lại dễ nuôi, tăng trọng nhanh (từ 100kg/con lên 300 –360kg/con trong 12 – 18 tháng. Lợi nhuận thu được dao động từ 7 - 8 triệu đồng/5 con, cá biệt có hộ lên đến 12 triệu đồng. Nguyễn Kim Cương và ctv, 2000 sử dụng chế phẩm thay sữa nhập từ Úc nuôi bê đực lai hướng sữa tại trại bò An Phước cũng đã cho kết quả cao, tăng trọng bình quân 420 gam/con/ngày sau 4 tháng nuôi; Hồ Quế Anh (2000), sử dụng chế phẩm thay sữa nhập từ Úc nuôi bê đực lai hướng sữa tại trại bò An Phước cũng đã cho kết quả cao, tăng trọng bình 6 quân 420gam/con/ngày sau 4 tháng tuổi. Trần Ngọc Bích (1999) sử dụng sữa thay thế ở mức 1/3 và 1/2 thay sữa nguyên cho thấy mức tăng trưởng tương đương với sữa nguyên ở cả 2 giai đoạn uống sữa và sau cai sữa, hệ số chuyển hóa thức ăn đều tương đương nhau và chi phí chăn nuôi đã giảm được 1.53% (cho mức thay thế ở 1/3) và 2.9% cho mức thay thế ½. Tuy nhiên, các nghiên cứu và kết quả trên chỉ tập trung vào từng giai đoạn trong qui trình nuôi bê; việc xây dựng một qui trình chăm sóc, nuôi dưỡng hoàn chỉnh theo hướng nuôi bê hướng sữa lấy thịt chưa được nghiên cứu triển khai. Trong khi đó, nhu cầu thịt bò hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng cao theo đà phát triển kinh tế và kiến thức của người tiêu dùng. Trên bình diện quốc gia, trong tổng số các loại thịt tiêu thụ bình quân trên đầu người thì có khoảng 77% là thịt heo, 16% là thịt gia cầm và chỉ có khoảng 7% là thịt bò; nhưng riêng ở thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận số liệu điều tra cho thấy: 62,4% là thịt heo, 19,38% là thịt gia cầm và 18,15% là thịt bò; cũng theo đánh giá của các chuyên gia hiện nay trên 70% thịt bò tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí Minh là thịt trâu. Bên cạnh đó, giá thịt bò không ngừng tăng: trước năm 1986, gía thịt bò chỉ bằng 50% giá thịt heo, nhưng hiện nay gía thịt bò khá cao, cao hơn giá thịt heo từ 35-40%. Giá 1 kg thịt bò chất lượng cao nhập từ Úc, Newzealand, Mỹ....bán tại Việt Nam bình quân là 10-12 USD/kg. Hiện nay, mỗi năm chúng ta phải tốn khoảng 19 triệu USD cho việc nhập thịt bò từ các nước như Úc, Newzealand để đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Như vậy, việc tận dụng nguồn bê đực lai sữa theo hướng nuôi lấy thịt là một hướng mới nó tận dụng được nguồn lao động, đáp ứng một phần nhu cầu thịt bò trong nước và quan trọng là nó góp phần tăng thêm thu nhập cho chăn nuôi bò sữa khi gía cả thị trường của con giống không ổn định. Như chúng ta biết, sữa là thức ăn tốt nhất và quan trọng nhất không thể thiếu đối với bê đặc biệt là khi bê mới sinh ra, vì sữa là nguồn thức ăn chứa đầy đủ dưỡng chất dưới dạng dễ tiêu hóa, là một hệ thống keo phức tạp, là một chất màu trắng ánh vàng chứa hàng trăm chất khác như mỡ sữa, protein sữa, đường sữa, chất khoáng, vitamin, men, kích thích tố… Sữa giữ vai trò quan trọng là do trong sữa có chứa đầy đủ các loại acid amin thiết yếu, 18 loại acid béo, 12 loại sinh tố và nhiều nguyên tố 7 đa và vi lượng. Do đó để có sự phát triển hoàn thiện thì sữa cần phải có đầy đủ dưỡng chất. Thông thường tất cả động vật nhai lại khả năng kháng bệnh có được là do chúng được uống sữa đầu. Khả năng kháng bệnh của chúng không phải có được nhờ các kháng thể trong máu. Vì vậy, điều quan trọng là gia súc non phải được uống sữa đầu ngay sau khi sinh càng sớm càng tốt. Do đó bê cần phải được bú sữa đầu 5-7 ngày, vì trong sữa đầu có chứa nhiều kháng thể và là thức ăn dễ tiêu hóa thỏa mãn các nhu cầu dinh dưỡng của bê. Ngoài ra sữa đầu còn chứa hàm lượng MgSO4 cao, hoạt động như là một chất tẩy nhẹ, tẩy “cứt su” làm sạch đường tiêu hóa. Độ chua của sữa đầu cao (4850oT) ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh đường ruột. Đặc biệt sữa đầu chứa Immunoglobulin cao (5,5-6,8%). Trong sữa đầu có hàm lượng chất dinh dưỡng và kháng thể cao hơn gấp 4 lần sữa thường. Có hàm lượng chất béo và protein cao. Vitamin A trong sữa đầu nhiều gấp 10 lần so với sữa thường. Bê mới sinh ra không có sinh tố A dự trữ nên sữa đầu là thức ăn không thể thay thế được và lượng vitamin A cung cấp từ sữa đầu được dự trữ trong cơ thể bê nhiều tuần sau khi sinh. Sữa đầu thường có độ chua cao hơn so với sữa thường có tác dụng ức chế một số vi khuẩn có hại và protein trong sữa đầu dễ tiêu hóa. Do vậy cần sử dụng tối đa sữa đầu để nuôi bê sơ sinh. Chất lượng sữa đầu sẽ bị giảm nhanh trong những lần vắt sau đó, thành phần và đặc điểm của sữa đầu và sữa thường được trình bày trong bảng 1.1 Bảng 1.1: So sánh thành phần, đặc điểm của sữa đầu và sữa thường Thành phần Sữa đầu Sữa thường Vắt lần1 23,9 6,7 Vắt lần 2 17,9 5,4 Ngày thứ 2 14,0 4,1 Ngày thứ 3 13,6 4,3 Chất đạm (%) 14,0 8,4 4,6 4,1 3,1 Lactose (%) Khoáng (%) Vitamin A (g/100ml) Kháng thể (%) 27,0 295,0 6,0 3,9 190,0 4,2 4,5 95,0 1,0 4,7 74,0 - 5,0 0,7 3,4 - Vật chất khô (%) Chất béo (%) Ghi chú: Trích từ Nuôi Bò sữa; Đinh Văn Cải và Ctv, 1995. 8 12,9 4,0 Lê Xuân Cương, Phạm Hồ Hải và ctv (2000) ghi nhận rằng chất lượng sữa bị ảnh hưởng rất nhiều theo thời gian bảo quản; 2 giờ sau khi vắt sữa tổng số vi sinh vật trong sữa đã tăng thêm gấp 2 lần và sẽ tăng thêm gấp 4 lần khi bảo quản ở nhiệt độ thương sau 4 giờ tính từ khi vắt sữa. Sự gia tăng này sẽ kèm theo sự sinh sôi và phát triển của một số vi sinh vật gây bệnh như E. Coli; Coliform và Shigella là những vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy trên người và gia súc non. 1.2.3 Cơ sở chọn lựa nguyên liệu chất thay sữa. Nguyên liệu sử dụng trong sữa thay thế phải có giá trị dinh dưỡng tốt, đặc điểm sinh học gần giống sữa nguyên và có thể sử dụng sớm cùng sữa nguyên. Bên cạnh đó, một yêu cầu quan trọng nữa là nguyên liệu sử dụng phải ổn định, giá thành hiệu quả và phải hòa tan tốt trong nước. a. Yêu cầu chất thay thế sữa. Chất thay thế sữa phải đáp ứng những yêu cầu sau: - Là những thực liệu dễ tiêu hóa. - Có độ ngon miệng cao giúp bê thích khi uống. - Đảm bảo tốt về sức khỏe, giúp bê tăng trọng nhanh. - Giảm nguy cơ tiêu chảy. - Hòa tan tốt trong nước. - Đạt hiệu quả kinh tế. - An toàn sinh học. b. Sử dụng Protein đậu nành trong sữa thay thế. Tại Mỹ và các nước chăn nuôi công nghiệp khác đã sử dụng những sản phẩm như: sữa gầy, sữa tách béo, casein, whey protein để sử dụng trong sản phẩm sữa thay thế tuy nhiên với giá thành khá đắc vì thế họ đã nghiên cứu tìm ra sản phẩm protein từ đậu nành dùng trong chất thay sữa mà có thể chấp nhận được. Hiện nay protein đậu nành đã được sử dụng khá rộng trong chất thay sữa. Trong bột đậu nành chứa 50% protein và các acid amin thiết yếu, nhất là lysin và methionin. Đậu nành là loại hạt họ đậu chủ lực được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi, với giá thành rẻ, an toàn, có thể làm cho thịt thơm ngon và được dùng với tỷ lệ cao trong khẩu phần của gia súc. Tuy nhiên, vẫn còn những yếu tố hạn chế 9 khi sử dụng protein đậu nành trong sữa thay thế là do sự hiện diện của những yếu tố kháng dinh dưỡng trong đậu nành như: - Các chất ức chế trypsin trong đậu nành kết hợp với enzyme phân cắt protein trypsin và chymotrypsin làm enzym bị vô hiệu hóa khiến khả năng tiêu hóa protein bị giảm đi, kết quả protein không tiêu hóa sẽ lên men ở kết tràng gây tiêu chảy - Các kháng nguyên quan trọng nhất trong bột đậu nành là: glycinin và βconglycinin được xem là những protein mà không thể tiêu hóa được, có thể là nguyên nhân gây ra những phản ứng dị ứng trên bê, làm giảm khả năng tiêu hóa đặc biệt trên bê nhỏ hơn 3 tuần tuổi. Những bê nhỏ hơn 3 tuần tuổi thì sự phân tiết enzyme tuyến tụy thấp hơn so với những con bê đã trưởng thành do đó hoạt động phân giải protein tuyến tụy giảm thấp. Điều này đưa đến hậu quả làm giảm khả năng tiêu hóa và hấp thu dưỡng chất, gây tiêu chảy và giảm tốc độ tăng trưởng ở bê. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã lựa chọn sản phẩm chế biến từ đậu nành có tên thương phẩm là Dabomb-P (công ty Suchiang Đài Loan sản xuất) là do : - Là protein có nguồn gốc từ đậu nành, trong đó các chất kháng dinh dưỡng được loại trừ ở mức tối thiểu nhờ một quy trình sản xuất đặc biệt. - Có mùi vị thơm ngon kích thích bê uống tốt. - Có khả năng tiêu hóa tốt và độ hòa tan cao. - Trong Dabomb-P chứa trên 95% các acid amin được tiêu hóa nên là nguồn đạm thực vật có chất lượng ổn định, không chứa các yếu tố bất lợi như: histamin, gizzarosin, chất phi protein, sự nhiễm Samonella, độc tố từ vi sinh vật. - Ngoài ra trong Dabomb-P còn chứa 3,4% hàm lượng acid lactic, được sử dụng như là chất acid hóa trong thức ăn vật nuôi, cải thiện được khả năng tiêu hóa và hấp thu, đặc biệt rất tốt trên đường tiêu hóa của gia súc non, và còn được dung như chất chống oxy hóa. - Giá trị dinh dưỡng của Dabomb-P khá cao : ME 3.635 kcal/kg; Protein 53%; Chất xơ 3,5%; Chất béo 0,8% và một số acid amin thiết yếu như Lysin 3,29%; Methionin 0,8%; Cystin 0,8%; Threonin 2,12%; Tryptophan 0,69%. 10 Những yếu tố kháng dinh dưỡng còn trong Dabomb-P ở tỉ lệ rất thấp Antitrypsin 1mg/g protein. - Khả năng kết dính của Dabomb-P tương tự như của bột, đây là chất kết dính tự nhiên là nguồn cung cấp protein tốt nhất. Quy trình sản xuất Dabomb-P Bột đậu nành bỏ vỏ Tiệt trùng (130-135oC, 5s) Lên men lactobacillus Làm khô chân không (60oC, 5hrs) Nghiền Dabomb-P Su Chiang Co đã tiến hành thí nghiệm trên heo cai sữa sau 28 ngày, giống lai 3 máu Duroc * Yorkshire * Landrace, tiến hành tại trại chăn nuôi Joy Chan’s Farm, Shilo, Đài Loan, 2003. Dùng 25% Dabomb thay cho 21,1% bánh dầu đậu nành (48) dựa trên thành phần protein thô cho kết quả rất tốt. Ngoài ra, một sản phẩm của công ty trên cũng được chúng tôi đưa vào sử dụng trong sữa thay thế là Rubys protein, đây là chất thay thế plasma với những đặc tính như sau (do công ty giới thiệu) : v Công dụng: - An toàn và vệ sinh: do có nguồn gốc thực vật nên không mang mầm bệnh nguy hiểm như BSE, cúm gia cầm …Các yếu tố kháng dinh dưỡng được xử lý triệt để đảm bảo nhung mao ruột phát triển. - Có độ tiêu hóa cao. Protein tiêu hóa cao 95%. Lactic acid chống oxy hóa tự nhiên kháng vi sinh vật và hổ trợ tiêu hóa. - Kiểm soát E.coli ngăn ngừa tiêu chảy 11 - Hỗ trợ tiêu hóa: Các enzyme trong Rubys protein có tác động đến chức năng của pepsin và trypsin tốt hơn so với lysozyme có trong Plasma. - Hỗ trợ hấp thu các chất; Tính ngon miệng cao. - Tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi thức ăn từ tập ăn sang cai sữa dễ dàng hơn., nhằm tránh tạo stress cho vật nuôi. v Thành phần dinh dưỡng của Rubys Protein Protein 52,5% (min 5,1%) Chất tro 6,8% (max 7,5%) Chất xơ 3,5% (max 5,5%) Chất béo 0,8% (max 1,5%) Dẫn xuất Nitrogen tự do 27,2% Độ tiêu hóa chất xơ trong dung dịch kiềm 4,0% Độ tiêu hóa chất xo trong dung dịch acid 6,2% Ẩm độ 8,0% Theo khuyến cáo của công ty, rubys protein được sử dụng trong sữa thay thế ở mức <5% sẽ đạt hiệu quả tốt. c. Sử dụng protein nguồn gốc động vật trong sữa thay thế. Sản phẩm sữa ít béo của Hà Lan với tên thương mại là Super cowlac được sử dụng trong sữa thay thế là do thành phần dinh dưỡng tốt và giá thành thấp. Sản phẩm này được xem như là nguồn cung protein có nguốn gốc động vật với thành phần dinh dưỡng như sau: vật chất khô (DM) 97%; đạm thô (CP) 40%; carbonhydrate 35%; béo thô 2%; xơ thô 2%; khoáng tổng số 7% và một số acid amin thiết yếu Lysin 2.2%; Methionin + Cystin 1,15%; Calcium 0,9% và Phosphor 0,85% (nguồn Su Chiang Co, 2007). d. Tổ hợp công thức chất thay sữa. • Công thức 1-CT1, dựa trên nền là nguồn đạm thực vật. Dabomb đáp ứng được đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cho thú dạ dày đơn và là nguồn thức ăn có hàm lượng protein thực vật rất dồi dào có thể thay thế cho protein trong sữa vì thế chúng tôi sử dụng Dabomb như nguồn nguyên liệu chính trong công thức 1 của chất thay sữa. Để đáp ứng được giá trị dinh dưỡng như sữa nguyên vì thế ngoài nguyên liệu chính là Dabomb còn được kết hợp với khoáng, vitamin, 12 enzyme (Rubys Protein), bột gạo, béo thực vật gọi chung là SCMR (Soybean Calf Milk Replacer). • Công thức 2-CT2, dựa trên nền là nguồn đạm động vật. Với giá thành tương đối, mà vẫn đáp ứng được đầy đủ giá trị dinh dưỡng như sữa nguyên, vì thế chúng tôi chọn sản phẩm Milklac (sữa ít béo) để cho ra công thức 2 kết hợp với vitamin, khoáng, enzym (Rubys Protein) gọi là CMR (Calf Milk Replacer). Các công thức trên có giá trị dinh dưỡng như sau : 20 - 24% chất béo; 22 - 24% chất đạm, khoáng tổng số 10%, xơ thô 0,5 - 1%, ẩm độ 0,3 – 0,5%, lactose 40% (nguồn Robert B. Corbett, 2000). 13 PHẦN II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Nội dung 1: Sản xuất thử nghiệm chất thay sữa từ nguồn nguyên liệu địa phương thay thế sữa bò mẹ nuôi bê đực lai Hà Lan sau khi sinh (1-3 ngày tuổi) đến khi cai sữa (4 tháng tuổi). Nội dung này được thực hiện theo 2 bước sau: 2.1.1 Nghiên cứu tổ hợp công thức chất thay sữa: Trên cơ sở những nguyên liệu như: sữa bột không béo (Super cowlac), bột đậu nành (Dabomb-P), bột gạo, khoáng, vitamin, enzym, Ruby-protein và béo không no (Bergafac); Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của Robert B. Corbett (2000), sử dụng phần mềm Excel tính toán tổ hợp các nguyên liệu trên tạo thành 02 công thức chất thay sữa khác nhau : Công thức 1 (CT1) gọi là SCMR (Soybean Calf Milk Replacer) trên nền là bột đậu nành (Dabomb P) và công thức 2 (CT2) gọi là CMR (Calf Milk Replacer) trên nền sữa ít béo (Super cowlac) kết hợp với các nguyên liệu khác như bột béo, bột gạo, lactose, men tiêu hóa và khoáng sao cho 1kg hỗn hợp (của mỗi công thức) có giá trị dinh dưỡng : 29,3-35,3% đạm thô, béo thô 21,1223,7%, khoáng tổng số 4,3-5,3%, xơ thô 1,7-2,2%, ẩm độ 6,6-7,2%, lactose 32,635,4%. Cứ 1 kg thành phẩm pha với 8 lít nước tạo thành 9 kg sữa có thành phần dinh dưỡng như sau: vật chất khô 11-12%. Béo 2,75-3,0%, đạm 2-3% và đường lactose 5% (tính trên 1 lít sữa thành phẩm). Giá thành dự kiến từ 22.000 - 26.000 đồng/kg bột, quy ra sữa nước là 2.450-2.890đ/kg sữa thay thế. Rẽ hơn so với sữa bò tươi hiện nay là 4.200-4.300 đ/kg (thời điểm tháng 07/2007). 2.1.2 Thí nghiệm 1: Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển khi sử dụng chất thay sữa từ bột đậu nành (SCMR), sữa thay thế (CMR) và sữa bò mẹ (CM) trên bê đực lai Hà Lan sau khi sinh. - Gia súc: 48 bê đực lai Hà Lan và 9 bê cái lai Hà Lan; Giống ≥ F2; Trọng lượng bình quân 28 kg được bú sữa đầu 3-5 ngày, không có dị tật và khoẻ mạnh, được sử dụng cho thí nghiệm. - Địa điểm : Thí nghiệm được tiến hành tại trại chăn nuôi bò là Xí nghiệp bò sữa An Phước, Long Thành, Đồng Nai (XNBSAP); 02 trại chăn nuôi gia đình hộ ông Nguyễn Văn Ngàn (Hộ A) và hộ Ông Nguyễn Thành Phương 14 (Hộ B) tại Hóc Môn TP.HCM (TCNGĐ), thời gian thí nghiệm kéo dài trong 04 tháng từ 21/03/2007 đến 21/07/2007 (Danh sách bê, trọng lượng sơ sinh đính kèm phần phụ lục). - Bố trí thí nghiệm: 57 bê đực và cái lai Hà Lan, giống F2, F3 tại XNBSAP và ≥F3 tại TCNGĐ; Trong đó, 30 bê của 2 hộ ở Hóc Môn và 27 bê của XNBSAP, được phân làm 03 nhóm : nhóm 1 gọi là nhóm đối chứng (ĐC) sử dụng sữa bò mẹ hay sữa nguyên (Cow milk-CM), nhóm 2 sử dụng sữa thay thế CT1 (SCMR) và nhóm 3 sử dụng sữa thay thế CT2 (CMR). Các bê trong mỗi nhóm sẽ tương đồng với nhau về trọng lượng, giống, phái tính. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu 2 yếu tố (khẩu phần, phái tính) ở Long Thành và 1 yếu tố (khẩu phần) ở Hóc Môn. Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau: ĐC-CM CT1-SCMR CT2-CMR Đực Cái Đực Cái Đực Cái XNBSAP (con) 6 3 6 3 6 3 Hộ A (con) 5 5 5 Hộ B (con) 5 5 5 Tổng cộng 16 3 16 3 16 3 - Chuồng trại: xây theo kiểu một mái, lợp tole điểm cao nhất của mái là 3,5m và Địa điểm thấp nhất là 2,5m, nền bằng xi măng. Được phân làm 03 ô, mỗi ô có diện tích 3,4x2,7 m2. Máng ăn được xây bên ngoài theo chiều dài của chuồng được ngăn làm 3 có kích thước 0,8x3,4 m2/lô; trong mỗi lô thí nghiệm đều có chậu chứa nước cho bê uống tự do. - Khẩu phần thí nghiệm được phân làm 2 giai đoạn • Giai đoạn 1 (giai đoạn bú sữa từ sau khi bú sữa đầu đến 72 ngày tuổi): Bê sau khi sinh được cho bú sữa đầu tối thiểu trong 03 ngày, từ ngày thứ 4 bê được tập uống sữa bò mẹ trong xô (chậu); Đến ngày thứ 7 trở đi, tùy theo lô mà mỗi cá thể bê sẽ được sử dụng sữa thay thế CT1-SCMR hoặc CT2-CMR hoặc sữa bò mẹ ĐC-CM. • Giai đoạn 2 (giai đoạn sau cai sữa từ 73-120 ngày): Tùy theo điểm thí nghiệm mà thực liệu sử dụng sẽ khác nhau; ở Long thành thức ăn thô chủ yếu là cỏ sả lá nhỏ (Panicum maximum K280) và cám hỗn hợp dạng bột do CP sản xuất có 16% đạm thô; Ở Hóc Môn ngoài cỏ tươi (cỏ lùn xanh) 15 và cám hỗn hợp (loại C40 do Proconco sản xuất có 15% đạm thô) còn bổ sung thêm hèm bia và xác mì. Khi bê được bắt về trong 3 ngày đầu bê được tập uống sữa trong xô, bình quân khoảng 3-4 kg/con/ngày chia làm 2 lần, sáng 7 giờ và chiều vào lúc 16 giờ. Đến ngày thứ 7; tùy theo lô thí nghiệm sẽ thay thế sữa bò mẹ (sữa nguyên) bằng sữa thay thế cho bê ở lô sử dụng sữa thay thế SCMR và CMR như sau (áp dụng từ ngày thứ 7): • Ngày đầu tiên (ngày thứ 7) : 100% sữa bò mẹ • Ngày thứ hai (ngày thứ 8): 30% sữa thay thế + 70% sữa bò mẹ. • Ngày thứ 3 (ngày thứ 9): 50% sữa thay thế + 50% sữa bò mẹ. • Ngày thứ 4 (ngày thứ 10) : 70% sữa thay thế + 30% sữa bò mẹ. • Ngày thứ 5 (ngày thứ 11): 100% sữa thay thế. Sữa thay thế được pha bằng nước ấm khoảng 40-50ºC theo tỷ lệ 1 kg sữa + 8 lít nước tạo thành 9 lít sữa thay thế. Lượng sữa sử dụng cho bê tối thiểu 4 kg/con/ngày, chia làm 02 lần/ngày (sáng 40%/tổng sữa tiêu thụ cả ngày; chiều 60%/tổng sữa tiêu thụ cả ngày). Khi bê được 1-2 tuần tuổi (10-14 ngày), tập cho bê ăn sớm (áp dụng cho cả 3 lô thí nghiệm) bằng những thức ăn có chất lượng tốt như cỏ non (cỏ sả nhỏ ở Long Thành; Cỏ lùn ở Hóc Môn), cỏ được phơi héo trước khi cho bê ăn nhằm tránh tình trạng chướng hơi; Cám hỗn hợp sử dụng là loại cám viên số hiệu 1102, do công ty Cargill sản xuất có 17% đạm thô. Khi bê được 72 ngày tuổi (10 tuần hay 2,5 tháng tuổi) sẽ cai sữa lúc này bê đã ăn được trên 0,8 kg thức ăn tinh hỗn hợp/ngày và cỏ khoảng 2-3 kg/con/ngày. Cỏ và cám cho bê ăn tự do sau khi uống sữa ngày 2 lần (cám trước cỏ sau). Từ 73-120 ngày tuổi bê được cung cấp cỏ ăn tự do ngày 2 lần; thức ăn tinh hỗn hợp sử dụng là cám dạng bột loại C40 từ 1-1,5 kg/con/ngày. Ngoài ra, hèm bia và xác mì được trộn chung được bổ sung thêm cho bê theo tỷ lệ 2 hèm bia/1 xác mì ăn tự do ngày 2 lần sau khi cho ăn cỏ và cám. - Chỉ tiêu theo dõi: § Lượng sữa và số lượng cỏ, cám , hèm, xác mì tiêu thụ thực tế theo cá thể. § Tăng trọng bê: theo dõi cá thể bằng cân đại gia súc, ½ tháng 1 lần trong thời gian 4 tháng. Bao gồm 2 chỉ tiêu: 16 Tăng trọng tuyệt đối (gam/con/ngày) = (Pt-Po)/t x 1000 Trong đó: Pt Trọng lượng ở thời điềm t (Kg) Po Trọng lượng ở thời điểm o (kg) t Thời gian nuôi (ngày) Tăng trọng tương đối (%) = (Pt-Po) x 100/t § Số ngày tiêu chảy của bê trên tổng số ngày nuôi/lô thí nghiệm. § Ghi nhận các rối loạn tiêu hóa, bệnh tật khác xãy ra (nếu có). § Hiệu quả kinh tế thu được. 2.2. Nội dung 2: Thử nghiệm khẩu phần nuôi dưỡng bê sau khi cai sữa đến khi giết thịt (từ 05-18 tháng tuổi) trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu tại địa phương Bao gồm 02 thí nghiệm: 2.2.1 Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của việc thay thế cỏ, cám trong khẩu phần bằng các phụ phẩm nông nghiệp đã được chế biến như rơm ủ urê, hèm bia, xác mì đến khả năng sinh trưởng và phát triển của bê giai đoạn 5-14 tháng tuổi. - Phương thức nuôi nhốt và cho ăn thức ăn tại chuồng theo từng cá thể. Những loại thức ăn chủ yếu bao gồm : thức ăn thô là cỏ trồng (cỏ sả nhỏ, cỏ lùn xanh), rơm ủ urê 4%, rơm khô; thức ăn tinh là cám hỗn hợp, hèm bia, xác mỳ. - Đối tượng bê đưa vào thí nghiệm gồm 45 bê từ thí nghiệm 1, phân làm 3 nhóm. Mỗi nhóm sẽ có 15 bê, sao cho tương đối đồng đều về tuổi, giống, phái tính và trọng lượng giữa các nhóm. - Thời gian thí nghiệm kéo dài trong 10 tháng bắt đầu từ 08/2007 đến 05/2008 tại 1 hộ của Xí nghiệp bò sữa Long Thành-Đồng Nai; hộ anh Nguyễn Văn Ngàn và hộ anh Trương Hoài Phương tại Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. - Khẩu phần thí nghiệm bao gồm 3 dạng khẩu phần : Khẩu phần 1 (T1) cỏ (ăn tự do), cám hỗn hợp dạng bột C40 do proconco sản xuất có 15% đạm thô; Khẩu phần 2 (T2) cỏ , rơm ủ urê (thay thế 25% lượng chất khô của cỏ trong khẩu phần 1), thay thế cám hỗn hợp bằng hèm bia, xác mì; Khẩu phần 3 (T3) cỏ, rơm ủ urê 4% (thay thế 50% lượng chất khô của cỏ trong khẩu phần 1), và thức ăn tinh hỗn hợp cũng được thay thế bằng hèm bia và xác mì; Nhằm bổ sung thêm lượng đạm khẩu phần 2 và 3 sẽ bổ sung thêm 50-70 gam urê/con/ngày. Giá trị dinh dưỡng 17 khẩu phần được tính toán sao cho phù hợp với từng cá thể bò thí nghiệm. Lượng vật chất khô tổng số ăn được bình quân của mỗi bò từ 3-3,5% (NRC, 2000). Tỷ lệ tinh/thô khẩu phần dự kiến là 45/55 dựa theo kết quả nghiên cứu của các tác giả Đinh Văn Cải và ctv (2000) ; Phạm Văn Quyến và ctv (2001) ; Nguyễn Văn Vinh và ctv (2003). Thức ăn cung cấp theo từng lô theo đúng số lượng tính toán 2 lần/ngày (tinh và thô cho ăn riêng) thức ăn tinh cho ăn trước và thức ăn thô cho ăn sau, theo dõi tăng trọng từng cá thể bằng cách cân trọng lượng 30 ngày/lần. Chi tiết thành phần hóa học của các thực liệu sử dụng trong khẩu phần trình bày bảng 2.1. Bảng 2.1. Thành phần hóa học của các thực liệu sử dụng trong thí nghiệm Thực liệu n VCK (kg) CP (g/kg) 3 Cỏ sả nhỏ 0.28±0.02 34.00±1.23 3 Cỏ lùn 0.16±0.02 18.00±1.89 3 Rơm ủ urê 4% 0.60±0.09 43,2±1.20 3 Hèm bia 0.22±0.01 69.70±1.34 3 Xác mì 0.18±0.02 3.60±1.25 3 Vỏ khoai mì 0.81±0.04 69.00±2.12 3 Khoai mì lát 0.89±0.05 21.6±1.02 3 Mày bắp 0,89±0.07 82.9±1.12 * Cám HH 1102 0,86 170 * Cám HH C40 0,87 150 Ghi chú: * Thành phần dinh dưỡng ghi trên bao bì. - CF (g/kg) ME (kcal/kg) 119.8±1.09 56±2.02 237,3±3.24 32.6±2.02 20.0±0.98 292±3.43 24.00±0.07 26.6±2.01 55 100 590.38 328,73 945,21 651.32 497.70 1724.51 2628.79 2817.66 3000 2500 Bố trí thí nghiệm theo kiểu phân lô đồng đều 1 yếu tố ở Hóc Môn (khẩu phần) và 2 yếu tố ở Long Thành (khẩu phần và phái tính), mỗi lô có 15 con , tổng số có 3 lô (3 dạng khẩu phần) với 45 bê thí nghiệm bao gồm 21 bê tại XNBSAP; 24 bê tại 02 TCNGĐ (mỗi trại 12 bê). Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau: T1 Địa điểm XNBSAP (con) Hộ A (con) Hộ B (con) Tổng cộng - Đực 4 4 4 12 T2 Cái 3 3 Chỉ tiêu theo dõi: 18 Đực 4 4 4 12 T3 Cái 3 3 Đực 4 4 4 12 Cái 3 3 v Lượng thức ăn tiêu thụ bình quân trên lô/ngày. v Tăng trọng bê qua từng tháng thí nghiệm. v Các rối loạn tiêu hóa và bệnh tật xãy ra nếu có. v Hiệu quả kinh tế thu được. 2.2.2 Thí nghiệm 3: Nuôi vổ béo bê lai hướng sữa lấy thịt (giai đoạn 15-18 tháng tuổi). - Gia súc thí nghiệm: 12 bò đực lai Hà Lan, 12-13 tháng tuổi, giống F3, F4; trọng lượng bình quân 220 kg chia thành 3 nhóm, tương ứng với nhau theo từng cặp về trọng lượng, giống trong mỗi nhóm được sử dụng cho thí nghiệm khẩu phần với các mức năng lượng và đạm thô khác nhau trong thời gian là 3 tháng với phương thức nuôi nhốt hoàn toàn. - Địa điểm và thời gian : Thí nghiệm triển khai tại hộ anh Nguyễn Văn Tèo, xã Trung Chánh, Hóc Môn trong thời gian 03 tháng từ ngày 23/05/2007 đến 23/08/2007. - Khẩu phần: thử nghiệm 3 dạng khẩu phần có các mức năng lượng khác nhau: 2,5 Mcal/kg DM (Khẩu phần 1 – KP 1); 2,4 Mcal/kg DM (khẩu phần 2 – KP 2) và 2,3 Mcal/kg DM (khẩu phần 3 – KP 3) và đạm thô 10,8-12,4%/DM cho mức tăng trọng từ 797-1.206 g/con/ngày (theo NRC, 2000); Tỷ lệ tinh 40-50%. Các thực liệu sử dụng trong thí nghiệm này bao gồm thức ăn thô: Cỏ tự nhiên, rơm ủ urê 4%; thức ăn tinh: cám hỗn hợp, vỏ khoai mì, khoai mì lát, mày bắp và bổ sung thêm 100g urê + 100g rĩ mật/con/ngày. Lượng vật chất khô tổng số ăn được bình quân của mỗi bò từ 3-3,5% (NRC, 2000). Ngăn chuồng thành từng ô thí nghiệm, mỗi cá thể bò được cho ăn thức ăn theo đúng số lượng tính toán 2 lần/ngày (tinh và thô cho ăn riêng, tinh trước thô sau) - Bố trí thí nghiệm theo kiểu phân lô đồng đều, mỗi lô có 4 con , tổng số có 3 lô (3 dạng khẩu phần) với 12 bò thí nghiệm. Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau: Hộ gia đình (con) KP 1 KP 2 KP 3 4 4 4 Sau khi kết thúc thí nghiệm, chọn 01 bò/lô mỗ khảo sát đánh giá chất lượng 19 quầy thịt theo các chỉ tiêu: tỷ lệ thịt tinh, tỷ lệ thịt xẻ, vật chất khô, hàm lượng đạm thô, béo thô và khoáng. - Chỉ tiêu theo dõi: v Lượng thức ăn tiêu thụ trên con/ngày. v Tăng trọng bê qua từng tháng thí nghiệm (cân bằng cân đại gia súc). v Hạch toán hiệu quả kinh tế thu được. 2.3. Xử lý số liệu. Tất cả các số liệu thu thập, được nhập vào phần mềm Excel và xử lý theo kiểu thí nghiệm 2 yếu tố cho thí nghiệm ở Long Thành và 1 yếu tố cho thí nghiệm ở Hóc Môn bằng phần mềm Minitab Version 12.1. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng