Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới,
chúng ta còn phải đối mặt với nhiều thử thách và những rủi ro không thể lường trước
được. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn quá non trẻ và chưa có những hiểu biết nhất
định về nền thị trường lớn này. Và một vấn đề được đặt ra ở đây là những thiệt hại do rủi
ro pháp lý mang lại.
Mỗi quốc gia đều có hệ thống luật pháp của riêng mình. Nếu một nhà quản trị kinh
doanh quốc tế chỉ thông hiểu pháp luật nước mình mà ít am tường hệ thống pháp luật
khác thì rất dễ gặp rủi ro. Trong trường hợp ngay cả pháp luật nước mình cũng không
nắm vững, thì thật vô cùng nguy hiểm. Do đó, cần nghiên cứu để nắm vững pháp luật
nước mình và nước đối tác, cùng những luật có liên quan. Nhưng nghiên cứu luật pháp là
vấn đề phức tạp, không thể nắm vững luật pháp của tất cả các nước.
Thực tế thời gian qua cho thấy, do chưa có sự am hiểu về các yếu tố luật pháp nước
ngoài và quốc tế, việc quản lý các rủi ro trong quan hệ thương mại quốc tế chưa được
thực hiện tốt nên các doanh nghiệp đã phải đối mặt với các rủi ro và chịu các thiệt hại
không đáng có về tài chính và uy tín của doanh nghiệp.
Với những lý do trên mà nhóm chúng tôi quyết định chọn chủ đề “Rủi ro pháp lý
trong các doanh nghiệp Việt Nam” làm bài tiểu luận cho nhóm. Trong quá trình thực hiện
đề tài không thể tránh khỏi các thiếu sót và sai lầm, mong cô góp ý để bài làm được hoàn
thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn cô!
Nhóm thực hiện
1
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
I – Rủi ro pháp lý trong doanh nghiệp
1) Khái niệm rủi ro
-
Rủi ro là gì? Rủi ro là những biến cố bất ổn tác động lên lợi ích trong tương lai
mà không thể dự đoán chính xác. Rủi ro là một phần của đầu tư và việc hiểu rủi ro là rất
quan trọng cho Nhà đầu tư. Cũng giống như nhiều người, bạn rất muốn nhận được lợi
nhuận tốt nhất từ khoản đầu tư của mình mà không phải mất ngủ hàng đêm vì lo lắng.
Vậy thì đầu tư cổ phiếu có tốt không? Hay đầu tư vào trái phiếu thì tốt hơn? Điều quan
trọng là: bất kể bạn đầu tư vào loại tài sản nào, bao giờ cũng có những rủi ro tiềm ẩn nhất
định, và bạn cần phải nghiên cứu, cân nhắc trước khi thực hiện các quyết định đầu tư.
-
Rủi ro pháp lý: Rủi ro pháp lý là khả năng khách quan xảy ra sự sai lệch bất
lợi so với dự tính liên quan đến các quy định pháp luật. Rủi ro pháp lý là những sự
kiện pháp lý bất lợi xảy ra một cách bất ngờ gây nên những thiệt hại vật chất hoặc
phi vật chất cho các doanh nghiệp trong quá trình học tập và thi hành luật. Từ khi
Việt Nam chính thức phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường vào đầu thập niên 90,
Chính phủ hoàn thiện dần khung pháp lý cho các hoạt động chứng khoán và TTCK. Các
hoạt động chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán và TTCK được Chính phủ điều chỉnh
trong các văn bản pháp lý ban hành vào năm 1998. Năm 2006, trước sự bùng nổ của thị
trường chứng khoán và việc gia nhập WTO của Việt Nam, nhiều văn bản pháp lý về thị
trường chứng khoán đã được Chính phủ ban hành như Luật chứng khoán, các nghị định
hướng dẫn, quy chế hoạt động... Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những rủi ro nhất định liên
quan đến yếu tố pháp lý như: sự phù hợp với các cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO,
các quy định về thuế đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và chứng
khoán, chế độ kế toán quản lý quỹ, các chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực
chứng khoán và tài chính chưa đủ mạnh để có thể thu hút nhiều hơn các khoản vốn nhàn
rỗi trong công chúng vào nền kinh tế.
2) Phân loại rủi ro pháp lý
2
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
a)
Nhóm 3 – TM2 – K33
Nguyên nhân chủ quan: yếu tố văn hoá, cách hành xử, thói quen coi nhẹ pháp
lý trong kinh doanh, xem nhẹ vai trò của luật sư, thiếu kinh nghiệm đàm phán, chọn
nhầm đối tác…
b) Nguyên nhân khách quan: như sự cố, thiên tai, thay đổi thể chế, hay yếu tố thị
trường (giá cả, lao động…).
Ngoài ra, ta có thể phân loại như sau:
-Rủi ro liên quan đến kỹ thuật xây dựng hợp đồng.
-Rủi ro do thiếu hiểu biết pháp luật quốc tế.
-Rủi ro pháp lý từ tình trạng chưa gia nhập điều ước quốc tế.
-Rủi ro do lựa chọn mô hình pháp lý không phù hợp.
3)
Nguyên nhân gây ra rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Điếc không sợ súng
Luật Sư-Tiến Sĩ Luật, Phạm Liêm Chính, người từng có hàng chục năm tu nghiệp,
làm việc ở nước ngoài và bảo vệ luận án tiến sĩ luật tại Pháp với đề tài về tranh chấp hợp
đồng thương mại, cho biết ông đã được tiếp cận hồ sơ của hàng trăm vụ tranh chấp hợp
đồng thương mại giữa Doanh Nghiệp Việt Nam với quốc tế xuất phát từ những nguyên
nhân theo cung cách làm ăn kể trên đây. Theo chuyên gia kinh tế cao cấp - thành viên
Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, cố vấn Bộ trưởng Bộ KH-ÐT, Tiến Sĩ Lê
Ðăng Doanh, sống thời gian dài trong nền kinh tế bao cấp, các Doanh Nghiệp Việt Nam
đã quen với các mệnh lệnh hành chính. Trong cơ chế kinh tế này, các doanh nghiệp cũng
trở nên quen với những giao dịch... miệng.
Ðâu phải chỉ có vụ Letard, Vietnam Airlines làm phía VN phải chịu mất hàng triệu
euro, mà đã có hàng trăm vụ tranh chấp thương mại quốc tế như vậy... tưởng rằng mình
“điếc” nên không phải sợ “súng.” Ai không sợ cứ mặc, súng vẫn nổ...
Quen được “đánh khẽ” nên lờn
3
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
Ở góc độ khác, bà Phạm Chi Lan, thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, cho
rằng hiệu lực pháp lý thấp các phán quyết của tòa án trong nước liên quan đến các tranh
chấp kinh tế cũng là nguyên nhân quan trọng khiến doanh nghiệp “lờn” phán quyết của
tòa trong nước nhưng sẽ phải trả giá ngay nếu có cách ứng xử như vậy đối với tòa án,
pháp lý quốc tế.
Pháp lý như... cơm bình dân
“30 năm trước, những thế hệ công chức Nhà nước ai cũng mang cặp lồng cơm khi đi
làm. Buổi trưa thì hâm nóng bằng bếp điện cơ quan, rồi ăn. Nhưng bây giờ thì chẳng còn
ai dậy từ 5-6 giờ sáng để nấu cơm cho vào cặp lồng mang đi làm mà tất cả các công chức
đều sử dụng hình thức dịch vụ ăn trưa nào đó như cơm bình dân hay cơm hộp. Ngày nay,
hệ thống dịch vụ ở Việt Nam khá phát triển, ví như đau răng thì có nha sĩ, ốm đau có cơ
sở y tế, đi lại có xe khách, taxi... Tương tự như vậy, mỗi khi gặp phải vấn đề pháp lý phát
sinh trong làm ăn, các doanh nghiệp nên tìm đến dịch vụ pháp lý, tìm đến đội ngũ luật
sư,” Luật Sư Phạm Liêm Chính nói một cách hình ảnh về sự cần thiết phải thay đổi tư
duy của doanh nghiệp Việt Nam trong làm ăn hiện nay.
Với kinh nghiệm rút ra từ hàng trăm trường hợp tranh chấp hợp đồng thương mại,
Luật Sư Phạm Liêm Chính cho rằng việc sử dụng dịch vụ pháp lý thường xuyên như
“cơm bình dân” chỉ có lợi cho doanh nghiệp. Sau vài chục năm làm việc tại Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, bà Phạm Chi Lan cũng nhận xét rằng trong khi
doanh nghiệp nước ngoài luôn mang theo luật sư riêng để tư vấn các vấn đề pháp lý khi
đàm phán và ký kết các hợp đồng thì phần lớn các doanh nghiệp VN lại không làm như
vậy. “Bỏ ra một khoản tiền thuê luật sư có thể tốn kém đôi chút nhưng chắc chắn tốt hơn
nhiều việc ký kết các hợp đồng sơ hở để sau này chịu thiệt hại khi vướng vào tranh
chấp,” bà Phạm Chi Lan khẳng định. Luật Sư Phạm Liêm Chính cho biết, tất cả lãnh đạo
4
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
các công ty lớn trên thế giới đều coi luật sư như “lá chắn pháp lý” trên thương trường.
“Ông tổng giám đốc chỉ đặt bút ký chính thức vào các văn bản quan trọng khi thấy chữ
ký “ruồi” của luật sư trưởng tổng công ty,” ông nói. Tiến Sĩ Luật Phạm Liêm Chính tin
chắc rằng nếu có sự tham gia từ đầu của đội ngũ tư vấn pháp lý am hiểu luật pháp trong
nước, quốc tế và thông thạo ngoại ngữ trong việc đàm phán và ký các hợp đồng như thì
khó có thể chịu “tiền mất tật mang” như trong “vụ Letard” hay “vụ VNA.”
Doanh nghiệp chưa có ngân sách cho tư vấn pháp luật
Luật Sư Phạm Liêm Chính lấy làm tiếc rằng hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều
chưa có khoản ngân sách dành cho tư vấn pháp luật và điều này ngược lại với thông lệ
quốc tế. Ðiều khiến các doanh nghiệp Việt Nam ngại sử dụng các dịch vụ pháp lý, luật sư
là sợ “đội” chi phí. Theo bà Phạm Chi Lan, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có
nhiều nhu cầu đối với dịch vụ tư vấn pháp lý nhưng lại xem nhẹ chất xám và không sẵn
sàng trả thù lao tương ứng. “Giá cả dịch vụ tư vấn pháp lý thông thường trên thế giới khá
cao, có thể là 200-300 USD cho mỗi giờ tư vấn. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ ngần
ngại ngay khi thấy giá cả như vậy nhưng các doanh nghiệp cũng cần biết rằng để có được
một giờ tư vấn họ phải bỏ ra hàng chục năm, thậm chí gần cả cuộc đời để học tập, tích
lũy kiến thức, kinh nghiệm” - bà Phạm Chi Lan nói.
Nhìn đi cũng cần nhìn lại là các tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa
thực sự tín nhiệm, tin tưởng vào đội ngũ tư vấn pháp luật trong nước nên không mặn mà
với dịch vụ này. Luật Sư Phạm Liêm Chính thừa nhận, với khoảng hơn 2,000 người, đội
ngũ luật sư trong nước vừa mỏng vừa yếu.
Ðào tạo khi nước đến chân
Tuy nhiên, bà Phạm Chi Lan cũng chỉ ra rằng để có được một đội ngũ chuyên gia
pháp lý, luật sư đáp ứng yêu cầu hội nhập cũng phải xuất phát từ nhu cầu của DN. “Chỉ
khi doanh nghiệp có nhu cầu, đòi hỏi nhiều thì mới phát triển được đội ngũ luật sư, dịch
vụ pháp lý thương mại quốc tế,” bà nói. Luật Sư Phạm Liêm Chính cho rằng dù mỏng và
5
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
yếu nhưng không có nghĩa là đội ngũ luật sư, tư vấn pháp luật của Việt Nam hiện nay
không đáp ứng các nhu cầu cơ bản của hội nhập. Theo ông, hiện Việt Nam có khá nhiều
luật sư được đào tạo ở nước ngoài, am hiểu luật pháp quốc tế, trong nước, thành thạo
ngoại ngữ và hoàn toàn đủ sức tư vấn, thẩm định, soạn thảo các hợp đồng thương mại lớn
và phức tạp. Tiến Sĩ Luật Phạm Liêm Chính cho biết, VN hiện đang gấp rút đào tạo, cả
trong nước và cử ra nước ngoài, một đội ngũ luật sư từ 10,000 đến 20,000 người trong
vòng 5-10 năm tới để phục vụ nhu cầu hội nhập.
Cùng một luật chơi trên thương trường
“Không kịp thời sửa đổi hệ thống luật pháp trong nước vào thời điểm sắp gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), có thể gây khó dễ cho chính doanh nghiệp VN khi
làm ăn với bên ngoài,” Tiến Sĩ Luật Phạm Liêm Chính cảnh báo. Theo ông, nguyên tắc
lớn nhất của một hợp đồng thương mại quốc tế hiện nay phải nêu rõ quyền và nghĩa vụ
các bên. Các định chế luật pháp quốc tế cũng ghi rất rõ rằng các bên phải chịu những chế
tài như thế nào nếu đơn phương phá bỏ cam kết, không thực hiện hợp đồng. Luật Sư
Chính cho biết, các định chế quan trọng này ghi rất rõ trong văn bản luật pháp quốc tế
như Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế hay 108 nguyên tắc của hợp
đồng thương mại quốc tế do Viện Luật Unidroit xuất bản tại Roma (Ý) năm 1994. “Luật
Việt Nam cần đưa vào những nguyên tắc đã được thế giới xem như “khuôn vàng thước
ngọc” này trong quan hệ giao dịch thương mại toàn cầu. Hội nhập tức là phải chơi cùng
một “luật chơi” phổ quát của quốc tế nếu không doanh nghiệp Việt Nam có thể bị thiệt
thòi, thua sút khi “thi đấu” trên thương trường thế giới,” Tiến Sĩ Luật Phạm Liêm Chính
nhấn mạnh.
II – Những tình huống rủi ro pháp lý trong doanh nghiệp
1) Rủi ro pháp lý do yếu tố chủ quan
a)
Vụ việc của Vietnam Airlines
VIETNAM AIRLINES
6
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
TIẾP TỤC THEO ĐUỔI VỤ KIỆN 5,2 TRIỆU EURO
Phát hiện chứng cứ cho thấy dấu hiệu lừa đảo trong vụ kiện do luật sư Italy Liberati
tiến hành, Vietnam Airlines đã gửi đơn đặc biệt yêu cầu huỷ bản án Toà sơ thẩm Roma
tuyên từ năm 2000. Ngày 2/4 tới đây, tòa sẽ xem xét lần cuối đơn xin hủy án.
Chứng cứ có lợi cho phía Việt Nam chính là 2 bức thư mật nhằm dàn xếp vụ kiện do
ông Maurizio Liberati – bên đứng đơn kiện, gửi cho Công ty Falcomar – cùng bị kiện với
Vietnam Airlines và từng làm đại lý cho Vietnam Airlines tại Italy.
Tổng giám đốc Vietnam Airlines Phạm Ngọc Minh cho biết, phiên toà ngày 2/4 có ý
nghĩa quyết định, nếu án tuyên tích cực sẽ mở ra cơ hội mới cho phía Việt Nam Airlines
để tìm công lý, ngược lại hầu như không còn cơ hội nào để bác bỏ khiếu kiện và yêu cầu
bồi thường hàng triệu euro của luật sư người Italy Liberati.
Vụ kiện được ông Liberati khởi xướng cách đây hơn 15 năm, sau khi Vietnam
Airlines ký hợp đồng đại lý bán vé với Công ty Italy Falcomar vào năm 1991-1992.
Trong đơn kiện, ông Liberati cho biết từ tháng 9/1991 đến tháng 12/1992, đã được
Falcomar - với tư cách đại diện của Vietnam Airlines – thuê làm một số việc, song chưa
được thanh toán tiền công. Cả Falcomar và Vietnam Airlines cùng bị kiện và đối mặt với
khoản bồi thường không dưới 537.910.000 Lia Italy.
Năm 1994, thông qua Đại sứ quán Italy tại Hà Nội, Tòa sơ thẩm Roma gửi giấy triệu
tập cho Vietnam Airlines tham dự phiên tòa đầu tiên diễn ra vào ngày 30/11/1995. Tuy
nhiên, Vietnam Airlines đã không tham dự, phiên tòa vẫn được đưa ra xét xử.
Sau nhiều phiên toà xét xử, đến 7/3/2000, Tòa sơ thẩm Roma ra phán quyết Vietnam
Airlines phải bồi thường cho luật sư Liberati gần 4 tỷ 852 triệu lia (khoảng 4,3 triệu
euro). Do không tham dự phiên tòa đầu tiên, nên Vietnam Airlines không nhận được
phán quyết cũng như bất cứ thông tin nào liên quan đến vụ việc. Hơn 2 năm sau, ngày
2/5/2002, khi đã hết hạn kháng cáo, Vietnam Airlines mới nhận được thư của luật sư
Liberati cùng bản sao bản án của Tòa sơ thẩm Roma, yêu cầu bồi thường 4,3 triệu euro.
7
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
Ông Liberati sau đó đã yêu cầu thi hành bản án tại Pháp. Ngày 18/2/2004, Vietnam
Airlines nhận thông báo của Ủy ban Đòi nợ và Tịch biên Pháp thông báo phong tỏa số
tiền 1,3 triệu euro tại tài khoản BSP Pháp (tài khoản thu từ bán vé máy bay ở đại lý) của
Vietnam Airlines để thanh toán theo phán quyết của tòa. Tòa phúc thẩm Paris cũng xác
nhận số tiền mà Vietnam Airlines phải trả là gần 5,2 triệu euro (bao gồm cả lãi phát sinh
tính đến cuối 2003).
Trong tháng 4/2004, Vietnam Airlines gửi đơn kháng án tới Toà phúc thẩm Paris xin
huỷ lệnh phong toả và Toà phúc thẩm Roma xin xem xét lại bản án đã có hiệu lực từ
2000 của Toà sơ thẩm Roma. Toà Paris và gần đây nhất là Toà phúc thẩm Roma đều bác
đơn của Vietnam Airlines, với lý do đã quá thời hạn kháng án.
Tuy nhiên, tia hy vọng mở ra cho phía Việt Nam Airlines khi toà Paris bác đơn kháng
án song chưa yêu cầu thực thi ngay bản án, mà chỉ tạm giữ 5,2 triệu euro để chờ kết luận
cuối cùng của vụ kiện đang diễn ra tại Roma. Trao đổi với báo chí chiều nay, Tổng giám
đốc Vietnam Airlines Phạm Ngọc Minh cho biết trong năm 2006, hãng đã nộp đủ 5,2
triệu euro vào tài khoản phong toả của Chủ tịch đoàn luật sư Paris để thi hành bản án.
Việc toà Paris chưa yêu cầu thi hành án ngay giúp hãng có thêm thời gian tìm chứng cứ
bảo vệ mình.
Ngoài đơn kháng án gửi lên 2 toà phúc thẩm nói trên, vào tháng 10/2005, hãng cũng
nộp thêm đơn đặc biệt lên Toà sơ thẩm Roma xin huỷ bản án năm 2000, sau khi phát hiện
ra hai bức thư mật do luật sư Liberati gửi cho Công ty Falcomar. Hai bức thư cùng gửi
vào năm 1996, một năm sau phiên xử đầu tiên tại Toà sơ thẩm Roma, trong đó ông
Liberati đề nghị phía Falcomar khai trước toà đã thuê ông làm việc cho Vietnam Airlines.
Sau hai bức thư này, Falcomar tuyên bố giải thể để chuyển phần trách nhiệm sang
Vietnam Airlines, với tư cách bị đơn thứ hai. Ông Liberati cùng luật sư của Falcomar còn
xây dựng kịch bản để đưa con số đòi bồi thường lên đến hàng triệu euro.
Đến 2/4 tới đây, Toà sơ thẩm sẽ có phiên làm việc thứ 6 nhằm xem xét đơn đặc biệt
của Vietnam Airlines xin huỷ bản án 2000. Luật sư của Vietnam Airlines tiên lượng đây
8
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
có thể là phiên làm việc cuối cùng, toà án có thể đưa ra bản án ngay sau phiên hoặc chậm
nhất vào mùa hè năm nay.
“Cho dù kết luận tới đây như thế nào, chúng tôi vẫn mong muốn theo đuổi vụ kiện
đến cùng nhằm tìm ra công lý, bảo vệ danh dự của Vietnam Airlines và tránh tiền lệ xấu
cho doanh nghiệp Việt Nam khi vướng mắc về pháp lý tại nước ngoài”, ông Minh nói
thêm.
Toà phúc thẩm Roma đã bác đơn kháng án của Vietnam Airlines vào tháng 12 năm
ngoái, sau 7 phiên làm việc. Nhưng theo Vietnam Airlines, vị thẩm phán phụ trách vụ
việc này đã thốt lên rằng đây là một vụ kiện rất bất bình thường. Từ việc toà Roma gửi
giấy triệu tập thông qua Đại sứ quán Italy tại Hà Nội thay vì gửi tới Đại sứ quán Việt
Nam tại Italy, cho tới những lời buộc tội của luật sư Liberati, lá thư dàn xếp giữa vị luật
sư này với đại lý Falcomar đều cho thấy dấu hiệu bất thường. Tổng giám đốc Phạm Ngọc
Minh cho biết thêm, hợp đồng đại lý mà Vietnam Airlines ký với Công ty Falcomar có
điều khoản ghi rằng Falcomar chỉ bán vé, Vietnam Airlines không chịu trách nhiệm với
bất cứ thoả thuận hay hợp đồng khác do Falcomar ký kết.
Ngày 9/3 vừa qua, Thủ tướng đã giao các bộ, ngành liên quan có hình thức tác động
phù hợp và hỗ trợ Vietnam Airlines để đề nghị phía Italy xét xử vụ kiện một cách công
bằng, khách quan.
Luật sư Lê Công Định http://vemaybay.hivietnam.vn/news.php?airticket=ticket&newsid=38
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM “HỒN NHIÊN” VỚI LUẬT PHÁP QUỐC TẾ
Hãng hàng không Việt Nam: "Điều ngạc nhiên là khi bị triệu tập đến tòa, tâm lý của
Vietnam Airlines khi đó là không đến thì làm gì được, dẫn tới thiệt hại lớn như bị phong
tỏa tài sản ở nước ngoài, không thể lật lại được tình thế khi hết thời gian kháng án. Đây là
bài học rất đắt mà DN Việt Nam phải chịu", ông Hoa nói.
(http://www.tin247.com/dn_viet_nam_hon_nhien_voi_luat_phap_quoc_te-3-21248279.html)
9
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
HIỂU BIẾT PHÁP LUẬT ĐỂ TRÁNH RỦI RO TRONG GIAO THƯƠNG
10:01, Thứ tư, 06/12/2006 (GMT+7)
Dẫn chứng về những rủi ro pháp lý trong hoạt động thương mại quốc tế, ông Nguyễn
Văn Du - Trưởng phòng Pháp chế - Thanh tra Tổng Công ty Hàng không Việt Nam đã kể
câu chuyện DN mình đó là vụ kiện đòi bồi thường gần 1 triệu USD ở Italia.
Gia tăng giao thương quốc tế luôn đi kèm những rủi ro pháp lý.
(Ảnh: Haiphong.gov)
Ban đầu đây chỉ là một tranh chấp về lao động và tiền công. Khi có phát sinh tranh
chấp đã không xử lý kịp thời và đối tác đã lợi dụng biến thành một vụ kiện thương mại.
Rủi ro pháp lý này đã gây ra nhiều thiệt hại. Có những thiệt hại vật chất có thể đo đếm
được còn có những thiệt hại vật chất không đo đếm được mà trong trường hợp này là đã
ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị trường. Bên cạnh đó, là những mất mát phi vật
chất rất lớn như ảnh hưởng đến thương hiệu, uy tín, khả năng cạnh tranh thị trường.
(Phước Hà, http://vietnamnet.vn/kinhte/kinhdoanh/2006/12/641074/)
b) Vụ việc HLV Letard
VFF ĐÃ GIẤU VỤ LETARD
10
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
Thứ tư, 05 Tháng một 2005, 09:06 GMT+7
LĐBĐ VN đang "ngồi trên đống lửa" về khoản tiền 197 nghìn USD mà toà án trọng
tài thể thao quốc tế tuyên phạt về việc chấm dứt hợp đồng với HLV Letard. Tuy nhiên, sự
thật về "vụ án Letard" người hâm mộ lẽ ra đã biết cách đây 5-6 tháng, nếu như không có
sự bưng bít của một số quan chức VFF.
Không như thông tin ban đầu từ LĐBĐ VN cho biết là việc
tòa án trọng tài thể thao quốc tế tại Thụy Sĩ chỉ mới gửi văn bản
trong thời gian gần đây để buộc LĐBĐ VN thua kiện và nộp
phạt, thực chất LĐ đã nhận văn bản liên quan đến vấn đề này từ
hồi tháng 8, trong đó có quy định rõ LĐ phải giải trình sự việc
Ông
Phạm
Ngọc này trong thời gian sớm nhất, nhưng một số quan chức lãnh đạo
Viễn (bìa phải) người đã tìm cách giấu nhẹm, không thông báo cho thường vụ và cũng
“có công” đưa Letard không báo cáo rõ với lãnh đạo UBTDTT để có hướng giải quyết
đến VN.
sớm nhất.
Theo tìm hiểu của Thanh Niên, khi nhận được văn bản của tòa án trọng tài thể thao
quốc tế ở Thụy Sĩ, thường trực LĐ đã chỉ đạo "nội bộ" cho ông Vũ Hạng, Trưởng ban
thanh tra Khen thưởng kỷ luật, liên hệ đoàn luật sư Hà Nội để tìm hiểu các khía cạnh luật
pháp trong hợp đồng nhằm chống đỡ để không bị thua kiện, đồng thời bàn bạc với ban kế
hoạch tài chính tìm cách nếu chống án không được sẽ chuyển tiền nộp phạt cho xong để
"bưng bít" luôn vụ này, sợ khi bị bung ra không có lợi cho uy tín của LĐ. Thậm chí theo
đề xuất của ông tổng thư ký, thường trực LĐ còn đưa ra giải pháp là lấy tiền tài trợ của
FIFA là 250.000 USD để bồi thường cho vụ Letard, rồi sau này tìm cách lấy nguồn thu
khác bù đắp vào.
Sự việc này đã không qua được mắt của thường vụ và Ban chấp hành LĐ, nhất là khi
các quan chức trong thường trực LĐ muốn hợp thức hóa chứng từ để chuyển ngân. Một
số ủy viên thường vụ vào thời điểm tháng 9-10 đã "cảnh cáo" nếu ban tài chính LĐ làm
11
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
điều này là không thể chấp nhận được và một khi thanh tra kiểm toán phát hiện được là sẽ
rắc rối to, vì thế vào giờ chót LĐ không dám chuyển tiền. Sự việc được treo lại và cho
đến khi tòa án trọng tài thể thao quốc tế một lần nữa yêu cầu LĐBĐ VN phải nhanh
chóng thực hiện việc bồi thường cho ông Letard thì thường trực LĐ không còn cách nào
khác là phải đưa vấn đề này ra thường vụ LĐ và mọi chuyện từ đó mới vỡ lở ra.
Cũng theo nguồn tin từ LĐ, thực chất số tiền 197.000 USD chỉ là phần cứng phải trả
cho ông Letard, ngoài ra còn cộng với các khoản phí khác trả cho án phí thêm 16.000
USD nữa, tổng cộng là 213.000 USD. Đây là một khoản thiệt hại vô cùng lớn của bóng
đá VN chỉ vì kiểu làm việc tắc trách của một số quan chức LĐ.
VFF: Sẽ học hỏi để tránh... rút kinh nghiệm
Theo thông lệ cứ đầu mỗi tháng, người phát ngôn của LĐBĐ VN Nguyễn Lân Trung
lại chủ trì phiên họp giao ban với giới báo chí. Nhưng cuộc họp đầu tiên của năm mới
vào chiều qua không “thuần” như mọi bữa mà diễn ra trong bầu không khí khá căng
thẳng. Ông Lân Trung một lần nữa lại phải điều trần thay cho các quan chức LĐ về sự
kiện “nóng hổi” nhất: Cựu HLV đội U23 VN Letard đòi bồi thường 197.000 USD tương
đương với giá trị của... nửa trụ sở cao 7 tầng khá bề thế của LĐBĐ VN.
Lần lại “lịch sử” lựa chọn cũng như nguyên nhân sa thải HLV Letard, ông Lân Trung
nói: "Ông Letard do HLV danh tiếng Aime Jacque giới thiệu nên LĐ hoàn toàn tin tưởng.
Nhưng sau 5 tháng hành nghề tại VN, HLV Letard đã bộc lộ nhiều điểm yếu, đặc biệt có
những quan điểm trái ngược với LĐ về chọn cầu thủ, ví dụ điển hình nhất là ông ta đã
dựa vào bài testcooper để loại Văn Quyến. Mặc dù không ưng ý nhưng tôn trọng hợp
đồng, LĐ vẫn phải tiếp tục cho HLV Letard dẫn dắt đội U23 VN và đã thất bại nặng nề
tại LG Cup 2002". LĐ đã phải hỏi ý kiến một số tổ chức ngoài VN và được cố vấn rằng,
LĐ chỉ phải đền 3 tháng lương để HLV Letard đi tìm việc, thậm chí nếu ông Letard tìm
được việc trong thời gian này, LĐ còn không phải trả một đồng nào. Sau đó LĐ còn được
Ủy ban tư cách kỷ luật FIFA đồng ý cho bồi thường ông Letard chỉ có 35.000 USD".
12
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
Thế nhưng, đến cuối tháng 10/2004, lúc nhận được trát của tòa án trọng tài thể thao
quốc tế trên cơ sở đơn kiện của ông Letard với kết luận, lý do sa thải HLV Letard của VN
không chính đáng vì HLV chỉ chịu một phần trách nhiệm trong thất bại của đội tuyển
U23 VN và buộc LĐBĐ VN phải bồi thường trước ngày 10/1, nếu không thực thi đội
tuyển VN sẽ bị cấm thi đấu quốc tế 2 năm. LĐ đã quá ngỡ ngàng và "chết lặng". Cách
đây 2 ngày, LĐ mới gửi đơn cứu xét đến tòa án. Ông Lân Trung mếu máo: "Chúng tôi rất
mong tòa án thông cảm cho LĐBĐ VN vì lý do sa thải của LĐ rất chính đáng. LĐ sẽ làm
mọi cách nhưng chưa biết được giảm bao nhiêu và liệu có được giảm hay không". Chính
chánh văn phòng đoàn luật sư Nguyễn Huy Thiệp đã tỏ ra rất dè dặt, mặc dù không nói
thẳng nhưng ông đã lộ ra một ý rằng, vụ này LĐ rất khó tránh khỏi thất bại.
Việc sa thải HLV Letard cách đây 2 năm hoàn toàn được công luận ủng hộ nhưng
điều đáng quan tâm nhất ở đây là hợp đồng do LĐBĐ VN soạn thảo có quá nhiều sơ hở
nên đã để xảy ra hậu quả khó lường. Khoản 10.2 của bản hợp đồng này chỉ ghi rất chung
chung rằng, nếu HLV Letard không đạt được kết quả tốt trong công việc và làm tổn hại
uy tín của LĐ trước công luận thì LĐ có thể chấm dứt trước thời hạn và mọi tranh chấp
giữa hai bên sẽ được giải quyết tại Ủy ban Tư cách cầu thủ FIFA. LĐ đã không có điều
khoản bắt buộc HLV Letard không được phép gửi đơn kiện đến địa chỉ có thẩm quyền
cao hơn (ở đây là tòa án trọng tài thể thao quốc tế). Bản thân ông Lân Trung cũng cay
đắng thừa nhận: "Ông Letard có quá thừa "kinh nghiệm" còn LĐ thì không!". Và sau khi
sự cố của đội tuyển U23 xảy ra tại LG Cup, LĐ lại quá vội vàng ngưng hợp đồng mà
không tìm hiểu kỹ hơn về luật. Trong cuộc họp để đi đến quyết định sa thải HLV Letard
của LĐ chỉ có 3 nhân vật: Phó chủ tịch thường trực Trần Duy Ly, Tổng thư ký Phạm
Ngọc Viễn và trưởng ban thi đua khen thưởng Vũ Hạng.
Các nhà báo rất muốn chất vấn người có trách nhiệm chính là ông Viễn nhưng ông
không có mặt trong cuộc họp và không nghe điện thoại. Ông Lân Trung ra sức bênh vực
đồng nghiệp: "Ông Viễn đã thực hiện rất đúng quy trình lựa chọn HLV và không hề "cắt"
đi một công đoạn nào cả. Ông Viễn chỉ thay mặt LĐ ký vào hợp đồng mà thôi, chứ nếu
13
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
lỗi do ông Viễn thì hơi oan”. Vậy cá nhân nào chịu trách nhiệm chính trong vụ việc này?
Ông Trung nhấn mạnh: "Quyết định sa thải HLV là quyết định tập thể".
Khi được hỏi: "Vụ việc gần đây nhất liên quan đến HLV Tavares dẫn tới thất bại thảm
hại của VN tại Tiger Cup 2004 cũng có nguyên nhân chính là hợp đồng không được tính
toán kỹ. Và từ vụ việc HLV Letard, tất cả cũng đều liên quan đến ông Viễn là người được
phân công chịu trách nhiệm chính. Vậy LĐ chẳng lẽ cứ rút kinh nghiệm mãi?". Ông Lân
Trung đáp: "Sau mỗi lần va vấp, mỗi cá nhân trong LĐ lại thêm một bài học. LĐ thiếu
hiểu biết về luật quốc tế. Trong cuộc hội nhập bóng đá thế giới, LĐ phải học hỏi nhiều
hơn, đặc biệt về luật pháp để tránh rủi ro trong tương lai".
Việt Báo (Theo-Ngoisao)
c) DNTN Duy Lợi
NHIỀU DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI TÌM HIỂU LUẬT
ĐỂ “VÒI” TIỀN DN VIỆT NAM
09:04' 06/06/2003 (GMT+7)
Đại diện nhóm Johnson Miki của Nhật tháng 8/2002 đã yêu
cầu Doanh nghiệp tư nhân Duy Lợi (DNTN) hoặc ngừng ngay
việc sản xuất khung mắc võng, hoặc phải đóng "phí bản
quyền" sáng chế cho nhóm với mức 4 USD đối với mỗi chiếc
Võng Duy
võng xuất sang Nhật Bản. Nếu không, nhóm Miki sẽ kiện Duy Lợi
Lợi vì "xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN)".
Miki đưa ra lý lẽ là giải pháp hữu ích "Khung võng tiện dụng" họ đăng ký đã được
Cơ quan sáng chế Nhật Bản cấp văn bằng số 3081528 vào ngày 22/8/2001.
Từ một lá thư đòi... "phí bản quyền"...
DNTN Duy Lợi (www.duyloi.com) là cơ sở sản xuất võng xếp nổi tiếng và uy tín của
14
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
Việt Nam. Chỉ tính từ đầu năm đến nay, số lượng võng Duy Lợi xuất sang Nhật vượt cả
năm 2002. Duy Lợi cũng đã ký được hợp đồng dài hạn với tập đoàn siêu thị Keyio. Do
đó, lời đe dọa của Miki đặt ra một nguy cơ: Hàng Duy Lợi không những không được tiêu
thụ tại Nhật (vì bị cáo buộc là xâm phạm quyền SHCN), mà còn không thể bán ra tại 112
quốc gia thành viên của Hiệp hội Sáng chế Quốc tế.
Trước tình hình đó, tháng 11/2002, Duy Lợi với đại diện pháp luật là công ty luật
Phạm&Associates đã tiến hành khiếu nại yêu cầu Cơ quan Sáng chế Nhật hủy bỏ văn
bằng số 3081528.
Hành trình tìm kiếm sự công bằng kéo dài hơn 6 tháng. Phía bị đơn lập luận: Đăng ký
thứ nhất của Duy Lợi về kiểu dáng "Khung mắc võng" bị Cục SHCN Việt Nam từ chối
ngày 25/6/2001 chính vì kiểu dáng này đã được phía bị đơn nộp đăng ký vào ngày
9/7/1996. Đây cũng là giải pháp bị đơn đăng ký ở Nhật và được cấp văn bằng giải pháp
hữu ích.
Nhưng trên thực tế, giải pháp của Duy Lợi đã được công bố trên Công báo SHCN số
147, tập A, trang 84-85 (với số công bố 3787) trước khi có đơn đăng ký giải pháp hữu
ích của nhóm Johnson Miki tại Nhật. Vì thế chiểu theo Điều 3, khoản 1, mục 3 trong
Luật Sáng chế thì giải pháp "Khung võng tiện dụng" không thể được đăng ký.
Sau một thời gian xem xét, nghe nguyên đơn lập luận và bị đơn biện hộ, Cơ quan
Sáng chế Nhật đã ra phán quyết: Văn bằng giải pháp hữu ích "Khung võng tiện dụng"
của nhóm Johnson Miki vi phạm quy định Điều 3, khoản 2 Luật Sáng chế, nên phải bị
hủy bỏ theo Điều 37, khoản 1, mục 2 của luật này. Bên bị đơn cũng phải gánh chịu tất cả
án phí.
Một bài học quý giá cho các doanh nghiệp Việt Nam
Tuy DNTN Duy Lợi thắng kiện, nhưng vụ khiếu nại trên cho thấy có rất nhiều vấn đề
các doanh nghiệp phải lưu tâm, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Lâm Tấn Lợi
cho biết, doanh nghiệp ở các nước nắm vững về luật. Họ cũng tìm hiểu rất kỹ hoạt động
của những cơ sở sản xuất và doanh nghiệp Việt Nam.
Cụ thể, nhóm Miki và đại diện của họ ở Việt Nam đã tìm hiểu và biết Duy Lợi đang
15
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
gặp khó khăn trong việc đăng ký kiểu dáng "Khung mắc võng". Khi biết Duy Lợi mới
chỉ đăng ký kiểu dáng thì họ đăng ký sáng chế tại Nhật. Đây là điều mà Duy Lợi chưa
tính đến. Dù văn bằng giải pháp hữu ích của nhóm Miki bị tuyên hủy bỏ, Duy Lợi giờ
cũng không thể tiếp tục đăng ký sáng chế cho giải pháp của mình, vì Luật Sáng chế
không chấp nhận đăng ký cho những giải pháp đã được sử dụng rộng rãi trước khi nộp
đơn đăng ký.
Ông Lợi nói: "Qua trường hợp của mình, tôi mong các doanh nghiệp Việt Nam khi có
những sáng tạo, cần nhờ các công ty luật chuyên ngành tư vấn và đăng ký bản quyền
ngay để tránh bị rơi vào các vụ bị ăn cắp bản quyền, và những cuộc kiện tụng kéo dài
tiền mất tật mang". Nếu không, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ phải trả giá đắt từ
những cuộc tranh chấp SHCN với công ty nước ngoài cho dù họ không sai.
(Theo Lao Động - http://vietnamnet.vn/kinhte/2003/6/14411/)
d) Trung Nguyên
HIGHLANDS COFFEE BỊ TỐ CÁO DÙNG TÊN MIỀN TRUNG NGUYÊN
Ngày đăng: 09/01/2010 02:36
Công ty cà phê Trung Nguyên cho rằng Công ty cổ phần Việt Thái Quốc tế đã ăn cắp
tên miền trungnguyen của mình, vì website trungnguyen.com.au có giao diện và thông tin
về sản phẩm Highlands Coffee của Việt Thái.
Mới đây, khi đăng ký sở hữu tên miền “trungnguyen” trên Internet tại Australia, Công
ty cà phê Trung Nguyên phát hiện Công ty The trustee for Hinchliffe Trust đã đăng ký
tên miền này dưới hình thức một website giao dịch thương mại “trungnguyen.com.au”.
Đặc biệt, truy cập vào tên miền này dẫn đến website phân phối trực tuyến các sản
phẩm mang thương hiệu Highlands Coffee của Công ty cổ phần Việt Thái Quốc tế (VTI),
trụ sở tại Việt Nam.
16
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
Giao diện chính trang trungnguyen.com.au. Ảnh chụp màn hình.
Theo đại diện Trung Nguyên, nội dung website trungnguyen.com.au này được hiển
thị bằng tiếng Anh, giống hoàn toàn về nội dung, hình ảnh, hệ thống sản phẩm, hình ảnh
bao bì được thể hiện bằng tiếng Việt trên website của Công ty Việt Thái Quốc tế.
trungnguyen.com.au
cũng
có
giao
diện
và
thông
tin
y
hệt
website
highlandscoffee.com.au.
Công ty Trung Nguyên cho rằng, sự giống nhau này gây ngộ nhận cho nhiều khách
hàng quốc tế khi truy cập vào website. Trung Nguyên cũng nhận được nhiều thắc mắc
của khách hàng tại thị trường Australia là tại sao bán cà phê Highlands trên website của
Trung Nguyên. Bản thân Trung Nguyên đã bị cơ quan cấp tên miền tại Australia từ chối
cấp tên miền “trungnguyen” với lý do là đã có công ty khác đăng ký sở hữu, mặc dù
doanh nghiệp đã chứng minh rằng sản phẩm phân phối trên website thuộc công ty khác.
Sự việc đang được các cơ quan pháp lý tại Australia xem xét.
Trung Nguyên cho rằng, VTI thông qua Công ty The trustee for Hinchliffe Trust tại
Australia đăng ký sử dụng tên miền trungnguyên để làm tên website thương mại, là hành
17
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
động có chủ đích và được ngụy trang rất khéo léo bằng việc đăng ký sử dụng hợp pháp
tên miền nêu trên.
Trao đổi với VnExpress.net, đại diện VTI khẳng định mình không phải là chủ sở
hữu hay điều hành trang web trungnguyen.com.au. Sản phẩm Highlands Coffee của
VTI tại Australia có website chính thức highlandscoffee.com.au. Trang web
trungnguyen.com.au do Công ty Dynamic Food Brokers (DFB), từng là nhà phân phối
sản phẩm cà phê Trung Nguyên tại Australia trước đây, sở hữu và điều hành.
VTI cũng tiết lộ, DFB đã nhiều lần liên hệ với Trung Nguyên về việc chuyển nhượng
tên miền này. Tuy nhiên việc thương lượng đã không thành công. Trong thời gian đó,
DFB cũng thay đổi nhà cung cấp sản phẩm cà phê Việt Nam, đó là Highlands Coffee.
VTI đã ra công văn yêu cầu DFB ngừng việc đưa các thông tin về sản phẩm
Highlands Coffee lên trang web www.trungnguyen.com.au để tránh những hiểu nhầm
không đáng có.
Trong khi đó đại diện Trung Nguyên cho biết, DFB chưa hề là nhà phân phối các
sản phẩm Trung Nguyên, và DFB cũng chưa từng đề cập đến việc bán lại tên miền cho
Trung Nguyên.
Vài năm trước, Trung Nguyên đã phát hiện một doanh nghiệp nước ngoài dùng tên
thương hiệu của mình. Công ty này đăng ký sở hữu trí tuệ tên và logo cà phê Trung
Nguyên với Tổ chức bảo hộ trí tuệ thế giới (WIPO), để kinh doanh cà phê tại thị trường
Mỹ. Phải mất rất nhiều thời gian đàm phán và hợp tác, chứng minh, Trung Nguyên mới
đòi lại tên thương hiệu của mình tại thị trường Mỹ. Ngay sau đó doanh nghiệp này đã tiến
hành đăng ký bảo hộ thương hiệu hơn 60 quốc gia trên thế giới.
(Hà Mai - Theo vnexpress.net)
RẮC RỐI QUANH TÊN MIỀN trungnguyen.com.au
09/01/2010
Công ty cà phê Trung Nguyên vừa phát hiện tại thị trường Úc, tên miền của mình đã
bị một doanh nghiệp cà phê lớn khác giành mất.
18
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
Trong lúc tiến hành các thủ tục để đăng ký sở hữu tên miền trên internet nhằm quảng
bá thương hiệu ra thế giới, Trung Nguyên phát hiện tại thị trường Úc, tên miền
trungnguyen.com.au đã được đăng ký với cơ quan quản lý ở Úc. Điều đáng ngạc nhiên là
đơn vị đã nhanh tay “xí” trước tên miền này lại là một thương hiệu khá quen thuộc tại
VN: cà phê Highlands.
Thông thường, việc “xí” tên miền kiểu này do các cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ nào
đó thực hiện với mục đích sau này bán lại với giá cao cho “chính chủ” để kiếm lời. PV
Thanh Niên đã truy cập vào tên miền nêu trên và nhận thấy đây là website quảng bá các
sản phẩm mang thương hiệu Highlands Coffee của Công ty cổ phần quốc tế Việt Thái
(VTI) đặt trụ sở tại Việt Nam. Nội dung thông tin bằng tiếng Anh hoàn toàn trùng khớp
các nội dung thể hiện trên website của VTI tại địa chỉ www.highlandscoffee.com.vn.
Không chỉ giống về nội dung, hình ảnh, hình thức... 2 website này còn giống hoàn toàn
về hệ thống sản phẩm, hình ảnh bao bì.
Ông Lê Tuyên - Giám đốc truyền thông và tiếp thị Công ty Trung Nguyên - bức xúc:
“Vụ việc đã gây nhầm lẫn cho rất nhiều khách hàng quốc tế khi truy cập vào website này.
Trung Nguyên đã nhận được nhiều thắc mắc của khách hàng tại thị trường Úc là tại sao
lại bán cà phê Highlands trên website của Trung Nguyên. Bản thân Trung Nguyên đã bị
cơ quan cấp tên miền tại Úc từ chối cấp tên miền “trungnguyen” với lý do là đã có công
ty khác đăng ký sở hữu, mặc dù chúng tôi đã chứng minh rằng sản phẩm đang được phân
phối trên website này không phải của Trung Nguyên”.
Trong khi đó, ngày 8.1, đại diện Công ty VTI khẳng định họ không phải là chủ sở hữu
hay điều hành tên miền và trang web www.trungnguyen.com.au; sản phẩm Highlands
Coffee của VTI tại Úc có website chính thức là www.highlandscoffee.com.au. VTI đồng
thời cho biết trang web www.trungnguyen.com.au do Công ty Dynamic Food Brokers
(DFB), từng là nhà phân phối sản phẩm cà phê Trung Nguyên tại Úc trước đây, sở hữu và
điều hành. DFB đã nhiều lần liên hệ với Trung Nguyên về việc chuyển nhượng tên miền
này, tuy nhiên việc thương lượng đã không thành công. Trong thời gian đó, DFB cũng
thay đổi, trở thành nhà phân phối cho Highlands Coffee.
19
Rủi ro pháp lý trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm 3 – TM2 – K33
VTI cho biết đã có công văn yêu cầu DFB ngừng việc đưa các thông tin về sản phẩm
Highlands Coffee lên trang web www.trungnguyen.com.au và DFB đồng ý tiến hành
thực hiện trong ngày 8.1.2010.
(Q.T-N.T.T-Nguồn:TNO. http://adonline.vn/vn/news/quang-ba-truyen-thong /2010 /
01/rac-roi-quanh-ten-mien-trungnguyen-com-au.aspx)
e) Vifon
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC BIỂN LỚN WTO:
Nhận diện những rủi ro pháp lý!
(11/12/2006 15:29)
Công ty Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam (Vifon) là chủ sở hữu nhãn hiệu "Vifon và
hình chiếc lư" đã được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam từ năm 1990. Với khả năng xâm
nhập thị trường châu Âu mạnh mẽ, đến năm 1995 Công ty Vifon nộp đơn đăng ký nhãn
hiệu của mình tại Ba Lan. Tuy nhiên, phía bạn thẳng thừng từ chối vì lý do phần hình
"chiếc lư" tương tự gây nhầm lẫn phần hình "chiếc lư" trong nhãn hiệu "Kim Lan và
hình" đăng ký trước cho sản phẩm cùng loại. Và như vậy vì chậm chân tại thị trường này,
Vifon mất sở hữu nhãn hiệu phần hình chiếc lư của mình.
(Báo Hải Quan)
f) Vinataba
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC BIỂN LỚN WTO:
Nhận diện những rủi ro pháp lý!
11/12/2006 15:29
Nhãn hiệu Vinataba, vốn đã được Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đăng ký bảo hộ từ
năm 1990 và tại 10 quốc gia khác theo Thỏa ước Madrit từ năm 2001. Tuy nhiên, cách
đây 3 năm, qua tra cứu, Tổng công ty này đã nhận thấy nhãn hiệu Vinataba đã bị một số
công ty thuộc tập đoàn Sumatra của Indonesia nộp đơn đăng ký tại 14 nước và vùng lãnh
thổ trong khu vực, đã được cấp đăng ký tại Campuchia, Lào, Hồng Kông, Thái Lan,
Indonesia và đang được xem xét tại Trung Quốc, Philippines, Myanma, Nhật Bản, Hàn
20
- Xem thêm -