Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tương quan giữa nhận thức về sức khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho ...

Tài liệu Tương quan giữa nhận thức về sức khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học phổ thông

.PDF
90
48
52

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐẶNG THỊ THU TRANG TƢƠNG QUAN GIỮA NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Hà Nội – 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐẶNG THỊ THU TRANG TƢƠNG QUAN GIỮA NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên Mã số: Thí điểm Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Hoàng Minh Hà Nội – 2017 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được chương trình Cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại Học Giáo dục – ĐHQGHN. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, Cán bộ quản lý, quý thầy cô trường Đại Học Giáo Dục – ĐHQGHN, đặc biệt là quý thầy cô đã tận tình truyền thụ kiến thức cho tôi trong suốt thời gian hoạc tập tại trường. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư – Tiến sĩ Đặng Hoàng Minh đã dành rất nhiều thời gian, công sức và tâm huyết hướng dẫn tôi nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn những lời động viên, khích lệ từ phía gia đình, cùng sự chia sẻ, học hỏi từ đồng nghiệp, bạn bè đã góp phần rất nhiều cho luận văn của tôi được hoàn thành tốt hơn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình, tâm huyết và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót.Vì thế tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn để luận văn này hoàn thiện và có chất lượng tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày… tháng… năm 2017 Tác giả (Ký, ghi rõ họ tên) Đặng Thị Thu Trang i LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn (Ký, ghi rõ họ tên) Đặng Thị Thu Trang ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT Chữ viết tắt Đọc là SKTT Sức khỏe tâm thần TKTG Tìm kiếm trợ giúp HV Hành vi THPT Trung học phổ thông HS Học sinh VTN Vị thành niên BTT Bệnh tâm thần DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH Chữ viết tắt DSM-IV Đọc là Diagnostic and Statistical Sổ tay chẩn đoán và thống kê các Manual of Disorder, 4th rối loạn tâm thần (Hội tâm thần học Hoa kỳ), lần thứ 4. ICD-10 WHO International Classification Phân loại bệnh quốc tế lần thứ of Diseases, 10th 10. Wolrd Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Kiểm định độ tin cậy thang đo nhận thức về SKTT của học sinh THPT ..... 32 Bảng 2.2. Các nhân tố của bảng hỏi hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT..... 37 Bảng 2.3. Phân phối mẫu thu thập được trên thực tế .......................................... 40 Bảng 3.1 Giá trị trung bình của tổng thang đo nhận thức về SKTT ................... 43 Bảng 3.2. Mức độ nhận thức về Sức khỏe tâm thần của học sinh Trung học phổ thông .................................................................................................................... 43 Bảng 3.3 Ảnh hưởng của yếu tố nhân khẩu học đến điểm trung bình thang đo MHL 44 Bảng 3.4 Mức độ nhận thức của tiểu thang đo «Nhận diện các rối loạn tâm thần».......... 46 Bảng 3.5 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học lên tiểu thang «Nhận diện rối loạn tâm thần» ..................................................................................................... 47 Bảng 3.6. Mức độ nhận thức của tiểu thang đo «kiến thức tìm kiếm thông tin» ...... 47 Bảng 3.7 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học đến điểm trung bình của nhân tố «Kiến thức tìm kiếm thông tin» ...................................................................... 48 Bảng 3.8. Mức độ nhận thức của tiểu thang đo “thái độ tiêu cực về SKTT” ..... 50 Bảng 3.9 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học đến điểm trung bình của nhân tố «Thái độ tiêu cực về bệnh tâm thần» .............................................................. 51 Bảng 3.10. Mức độ nhận thức của tiểu thang đo “thái độ tích cực đối với SKTT”....... 52 Bảng 3.11 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học đến điểm trung bình của nhân tố “Thái độ tích cực về bệnh”.............................................................................. 53 Bảng 3.12 Giá trị trung bình của bảng hỏi hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT........ 55 Biểu đồ 3.4. Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp khi có vấn đề về SKTT của............. 55 học sinh THPT .................................................................................................... 55 Bảng 3.13. Điểm trung bình thang đo hành vi tìm kiếm trợ giúp của ................ 56 học sinh THPT .................................................................................................... 56 Bảng 3.14. Điểm trung bình 2 nhân tố hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT...... 57 Bảng 3.15. Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm nguồn trợ giúp của học sinh THPT .................................................................................................... 59 Bảng 3.16. Tương quan giữa nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT ........................................................................................................... 61 Bảng 3.17. Tương quan các tiểu thang đo nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp .......... 62 iv DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biều đồ 3.1 Hàm phân phối tổng điểm thô thang đo nhận thức về SKTT ......... 42 Biểu đồ 3.2 Mức độ nhận thức về SKTT của học sinh THPT ............................ 43 Biểu đồ 3.3. Hàm phân phối tổng điểm thô bảng hỏi hành vi tìm kiếm trợ giúp...... 54 v MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... i LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT ................................................ iii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH ................................................. iii DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. iv DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ............................................................................. v MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chƣơng 1CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ........................... 8 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 8 1.1.1 Tổng quan những nghiên cứu về “nhận thức về Sức khỏe tâm thần” ......... 8 1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu về hành vi TKTG và sử dụng nguồn trợ giúp ở học sinh THPT .................................................................................................... 11 1.1.3 Tổng quan những nghiên cứu về tương quan giữa nhận thức về Sức khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT ................................ 16 1.2Các khái niệm công cụ của đề tài ................................................................... 17 1.2.1. Nhận thức .................................................................................................. 17 1.2.2. Sức khỏe tâm thần ..................................................................................... 19 1.2.3. Hành vi ...................................................................................................... 26 Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................. 29 Chƣơng 2TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................ 30 2.1. Xác định biến nghiên cứu............................................................................. 30 2.2. Các phương pháp nghiên cứu....................................................................... 30 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận............................................................... 30 2.2.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi ................................................................. 30 2.3. Mẫu nghiên cứu ............................................................................................ 38 2.3.1. Xác định địa bàn nghiên cứu ..................................................................... 38 2.3.2. Quy trình thu thập số liệu .......................................................................... 39 2.3.3. Mẫu nghiên cứu thu thập được trên thực tế: ............................................. 40 Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 41 vi CHƢƠNG 3KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 42 3.1. Thực trạng mức độ nhận thức về SKTT của học sinh THPT ...................... 42 3.1.1. Nhận thức về Sức khỏe tâm thần của học sinh THPT .............................. 42 3.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến thang đo nhận thức về SKTT .................... 44 3.1.3 Mức độ nhận thức của bốn tiểu thang đo về SKTT của học sinh THPT ... 46 3.2. Thực trạng hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT của học sinh THPT ....... 54 3.2.1. Thực trạng chung về thang đo hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT.... 54 3.2.2. Mức độ tìm kiếm trợ giúp của các nhân tố trong nguồn tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT .............................................................................................. 57 3.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT ..... 59 3.3. Tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT của học sinh THPT .............................................................................. 61 3.3.1. Tương quan giữa nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT... 61 3.3.2. Tương quan giữa các tiểu thang đo nhận thức về SKTT và tiểu thang đo hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT. ................................................... 62 Kết luận chƣơng 3 ............................................................................................. 64 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................... 66 1. Kết luận ........................................................................................................... 66 2. Khuyến nghị .................................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 70 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 76 vii MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trước tuổi vị thành niên (VTN), có sự phát triển cân bằng về thể chất và tâm sinh lý, nhưng giai đoạn vị thành niên có sự tăng trưởng mạnh mẽ về thể chất, tâm thần và xã hội, chính những sự thay đổi này dễ làm xuất hiện các vấn đề về sức khoẻ tâm thần. Vị thành niên có sự khủng hoảng lớn về tâm lý trong quá trình phát triển, cảm xúc giao động dễ bị tổn thương, là giai đoạn sự phát triển mang tính kịch tính cao, được thể hiện qua những biểu hiện mới về hành vi và tự ý thức về bản thân. Các rối loạn sức khoẻ tâm thần ở trẻ em và vị thành niên có tỷ lệ khá cao [3] khảo sát ở 1525 trẻ 4-18 tuổi ở hai phường Kim Liên và Trung Tự (Hà Nội), cho thấy 18,56% trẻ trai và 17,22% trẻ gái tuổi 4-18 có các rối loạn hành vi và cảm xúc; 22,40% trẻ trai và 20,94% trẻ gái tuổi 12 – 18 có các rối loạn hành vi và cảm xúc nói chung (trung bình là 19,67%). Theo khảo sát về sức khỏe tâm thần ở học sinh trên địa bàn Hà Nội được tiến hành giữa Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương với Đại học Melbourne (Australia) về “Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh trường học tại Hà Nội” là dự án hợp tác quốc tế giữa Sở Y tế Hà Nội, bằng bộ công cụ SDQ của Tổ chức Y tế Thế giới ở 1.202 học sinh tiểu học và trung học cơ sở (10-16 tuổi) cho thấy tỷ lệ học sinh có các vấn đề về sức khỏe tâm thần chung là 19,46%, không khác biệt về nam, nữ, học sinh tiểu học hay trung học cơ sở, trong đó lạm dụng chất gây nghiện đang tăng nhanh chóng. Nghiên cứu trên 21.960 thanh thiếu niên Hà Nội phát hiện 3,7% em có rối loạn hành vi. Tỷ lệ này giữa nội thành, ngoại thành không có gì khác biệt.Theo khảo sát của dự án, quận Hai Bà Trưng có tỷ lệ học sinh gặp khó khăn về ứng xử cao nhất, với 44,2% so với các quận còn lại là Hoàng Mai (28,8%), Từ Liêm (26,9%). Điều này cho thấy ảnh hưởng của điều kiện sống, môi trường sống tác động hành vi ứng xử của các em 1 Tại hội thảo quốc gia “Sức khỏe tâm thần trong trường học” do Quỹ Tài năng Trẻ tâm lý học - giáo dục học (Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam) tổ chức tại Đồng Nai, nhiều chuyên gia tâm lý, sức khỏe tâm thần đã lên tiếng cảnh báo về tình trạng ngày càng sa sút của học sinh. Tâm lý lo sợ không hoàn thành bài vở mới là nỗi ám ảnh với các học sinh lứa tuổi THPT, nhất là các em lớp 12.Từ đó, học sinh cảm thấy căng thẳng trong việc học. Chiếm 13,6% học sinh khá cảm thấy ăn không ngon, 17,6% chỉ muốn uống nước hoặc sữa và gần 20% thường xuyên bỏ bữa. Thậm chí, một số em tâm sự đang đối mặt với kỳ thi quan trọng, sợ làm bài không tốt, sợ gia đình thất vọng và khi nghĩ đến những điều đó thì các em chỉ muốn... 'nổ tung'. Nghiên cứu dịch tễ học về SKTT của trẻ em Việt Nam ở 10 tỉnh đại diện ở Việt Nam của Đặng Hoàng Minh, Weiss, Cao Minh Nguyễn (2013) chỉ ra có từ 1213% trẻ em Việt Nam (trong độ tuổi 6-16) gặp phải những vấn đề SKTT một cách rõ rệt. Điều này có nghĩa là có khoảng 2.7 triệu trẻ em và vị thành niên trên toàn quốc gặp phải vấn đề SKTT [1]. Trước những con số nhiều nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng về vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh luôn biến động và ngày càng tăng. Điều đó cho thấy thực trạng vấn đề SKTT ở trẻ VTN đang trong tình trạng đáng báo động. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào chỉ ra thực trạng hiểu biết của trẻ VTN về các vấn đề Sức khỏe tâm thần cũng như chưa tìm được nghiên cứu nào chỉ ra thực trạng hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT ở trẻ VTN. Trong khi tuổi VTN là giai đoạn phát triển tâm lý, với những nét nhân cách còn chưa định hình rõ rệt, dễ thay đổi tâm tánh.Ở giai đoạn này khả năng tự khẳng định bản thân rất lớn, tò mò và ham tìm kiếm khá phá những điều mới lạ nhưng tự kiềm chế cảm xúc và khả năng làm chủ hành động của bản thân chưa cao.Mặt khác các em chưa có cái nhìn độc lập, khả năng phân định đúng sai và hậu quả trước mỗi hành động của các hoạt động tham gia. Do đó các em dễ bị lôi cuốn vào các hoạt động mới lạ và muốn tự trải nghiệm, phần lớn các em muốn độc lập trên quyết định của mình mà không có sự tham gia cùng của người lớn, đặc biệt ở học sinh Trung Học Phổ Thông. Điều đó khiến các em say mê với hoạt 2 động hoặc tự ý ra quyết định khi ở tuổi suy nghĩ còn chưa chín muồi, nhận thức còn nhiều hạn chế khi đối mặt với những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống và các mối quan hệ các em loay hoay giải quyết, có nhiều em vướng mắc vào những căng thẳng, lo âu và những vấn đề về sức khỏe tâm thần ở các mức độ nặng nhẹ khác nhau. Điều đáng lo ngại hơn là phần lớn các em học sinh không ý thức được tầm nghiêm trọng của sức khỏe tâm thần nên không thực hiện hành vi tìm kiếm trợ giúp từ những người xung quanh hoặc tìm kiếm sự trợ giúp không phù hợp dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng: tự ý sử dụng thuốc ngủ không theo chỉ dẫn của bác sĩ; hút thuốc lá hoặc chơi games để giảm căng thẳng; tự ý nạo phá thai tại các cơ sở y tế không đảm bảo; lạm dụng cafe trong những ngày thi cử… Bên cạnh những nghiên cứu về SKTT của giới trẻ, đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra có khoảng 18-34% thanh niên với mức độ cao của những triệu chứng trầm cảm hoặc lo âu tìm sự giúp đỡ chuyên nghiệp. Những người bị bệnh tâm thần và đặc biệt là những người bị trầm cảm có xu hướng trì hoãn điều trị vì nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng có một sự phụ thuộc cao vào “tự để giải quyết vấn đề, giới trẻ thiếu thẩm quyền tình cảm và có thái độ tiêu cực về việc tìm kiếm trợ giúp chuyên nghiệp” đó là những rào cản khiến giới trẻ và thanh niên ít tìm kiếm giúp đỡ từ các chuyên gia trên Thế giới. Bên cạnh đó, kết quả cũng chỉ ra, ở những người trẻ tuổi và thiếu niên, họ chỉ tìm sự giúp đỡ chuyên nghiệp khi nó là cần thiết, thường bạn bè và gia đình là những nguồn tìm kiếm giúp đỡ ưa thích của họ [39]. Một nghiên cứu về Trầm cảm, Tìm kiếm Sự trợ giúp và Tự nhận thức về Trầm cảm giữa người nhập cư Dominican, Ecuador và Colombian ở Đông Bắc Hoa Kỳ, nghiên cứu được thực hiện trên 177 người Mỹ Latino, kết quả nghiên cứu chỉ ra có 25% người có biểu hiện của rối loạn trầm cảm theo Bảng hỏi Điều tra Y tế Bệnh nhân (PHQ-9). Các yếu tố có thể có liên quan đến rối loạn này là: nghèo đói; Khó khăn trong hoạt động; Các triệu chứng soma lớn hơn, cảm giác căng thẳng và kỳ thị; Số bệnh mãn tính. Năm mươi bốn người đã xác nhận sự giúp đỡ tìm kiếm và nghiên cứu chỉ ra các yếu tố liên quan đến việc tìm kiếm trợ giúp là: giới tính nữ, khó vận động, mức độ nặng nhẹ của trầm cảm [47].Điều đó 3 cho thấy, các yếu tố liên quan đến rối loạn tâm thần liên quan đến vấn đề tinh thần và sự nghèo đói về vật chất là những yếu tố góp phần thúc đẩy hình thành rối loạn tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp chịu ảnh hưởng của một số yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn, giới tính cũng ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm trợ giúp. Nhìn nhận thực trạng sức khỏe tâm thần của giới trẻ Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung qua tổng quan một số nghiên cứu, cho thấy tỉ lệ trẻ VTN có vấn đề về SKTT đang trong tình trạng báo động là rất rõ rệt. Tuy nhiên, thực tế giới trẻ, đặc biệt là trẻ VTN có vấn đề về SKTT tại Việt Nam đã thực hiện hành vi tìm kiếm trợ giúp như thế nào?, bằng cách nào? Hành vi tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc SKTT chuyên nghiệp như thế nào? vẫn là điều chưa được biết đến. Trong khi đó, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu báo cáo về hành vi TKTG vấn đề SKTT ở cộng đồng và giới trẻ. Do đó, với mong muốn hiểu và nắm bắt được nhận thức của học sinh THPT về SKTT và xu hướng thực hiện hành vi TKTG khi có vấn đề SKTT chúng tôi quan tâm và hướng đến chủ điểm nghiên cứu này, với tên đề tài “Tương quan giữa nhận thức về Sức khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp vấn đề Sức khỏe tâm thần ở Học sinh Trung học Phổ thông”, với mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi kỳ vọng sẽ đem lại những ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra con số thể hiện sự hiểu biết của học sinh THPT về SKTT và thực trạng hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT qua đó chỉ ra mối tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi TKTG cho vấn đề SKTT của học sinh THPT.Vì khả năng nghiên cứu có hạn nên chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu và khách thể nghiên cứu tại một số Trường trên địa bàn Hà Nội và tỉnh Hưng Yên. 2. Câu hỏi nghiên cứu - Có hay không mối tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT? 3. Mục đích nghiên cứu - Chỉ ra mối tương quan có thể có giữa nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT của học sinh THPT. Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến mối 4 tương quan này? Từ đó đưa ra các giải pháp và các kiến nghị đối với nhóm nghiên cứu; trường học và cha mẹ. 4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu 4.1.1. Khách thể nghiên cứu: - Học sinh trong độ tuổi từ 16 – 18 tuổi đang theo học tại 2 trường THPT trên địa bàn Hà Nội (THPT FPT, THPT Nhân Chính), 2 trường tại tỉnh Hưng Yên (THPT Yên Mĩ, THPT Hồng Bàng). - Số lượng khách thể nghiên cứu 271 Học sinh THPT. 4.1.2. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu mối tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp vấn đề SKTT ở học sinh THPT. 5. Giả thuyết nghiên cứu - Mức độ nhận thức của học sinh THPT về SKTT ở mức trung bình. - Nguồn tìm kiếm trợ giúp được lựa chọn nhiều nhất cho vấn đề SKTT của học sinh THPT là nguồn trợ giúp không chính thức. - Có tương quan thuận giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận: - Thu thập tài liệu đã được nghiên cứu và công bố trên tạp chí, bài báo, nghiên cứu khoa học trong nước và thế giới nhằm làm rõ cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ khái niệm nhận thức; SKTT; hành vi tìm kiếm trợ giúp. - Tổng kết, khái quát tài liệu, điểm luận những tài liệu thu thập được để làm sáng rõ ý định nghiên cứu. 6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn: - Nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. - Tìm hiểu thực trạng nhận thức về SKTT và hành vi TKTT cho vấn đề SKTT của học sinh THPT. - Chỉ ra tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi TKTT cho vấn đề SKTT của học sinh THPT. 5 - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao nhận nhức về SKTT và thực hiện hành vi TKTG cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT. 7. Phạm vi nghiên cứu 7.1. Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp vấn đề SKTT của học sinh THPT. 7.2. Phạm vi về thời gian nghiên cứu: 5 tháng kể từ thời điểm bắt đầu nghiên cứu đến khi hoàn thành nghiên cứu (tháng 01 – tháng 05/2017). 7.3. Phạm vi về không gian nghiên cứu: 271 học sinh đang theo học tại 4 trường THPT trên địa bàn Hà Nội (Trường THPT FPT; Trường THPT Nhân Chính) và tỉnh Hưng Yên (Trường THPT Yên Mỹ; Trường THPT dân lập Hồng Bàng). 8. Phƣơng pháp nghiên cứu 8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các báo cáo khoa học, tạp trí, bài đăng trên Hội thảo khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 8.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi: - Thang đo nhận thức về SKTT của Matt O’Conner: Đánh giá nhận thức của học sinh về SKTT. - Bảng hỏi tự xây dựng nhằm tìm hiểu hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT của học sinh THPT. - Thang đo Likert: Đánh giá mức độ nhận thức và mức độ thực hiện hành vi tìm kiếm trợ giúp vấn đề SKTT của học sinh THPT. 8.3. Phương pháp xử lý số liệu: Phần mềm xử lý số liệu SPSS. 9. Đóng góp mới của luận văn Hiện nay tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu về mối tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT. Do vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ đi sâu vào nghiên cứu thực trạng nhận thức về SKTT và thực trạng tìm kiếm trợ giúp và mối tương quan giữa 2 biến nhằm chỉ ra. Từ đó, đưa ra kiến nghị nhằm giúp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần thúc đẩy những chiến lực nâng cao nhận thức về SKTT và hành vi TKTG ở học sinh THPT. 6 10. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Tổ chức nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu 7 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1 Tổng quan những nghiên cứu về “nhận thức về Sức khỏe tâm thần” Trên thế giới, đặc biệt ở các nước Châu Âu đã thực hiện nhiều nghiên cứu về vấn đề nhận thức của công dân, giới trẻ về SKTT hoặc những kỳ thị về SKTT. Trong một nghiên cứu ở Úc về "Nhận thức về Sức khoẻ tâm thần trong trường Đại học" của nhóm tác giả Nicola J. Reavley và cộng sự (2012), đã nghiên cứu trên 774 (65%) là sinh viên và 422 (35%) là giảng viên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra có hơn 70% sinh viên và nhân viên có thể xác định trầm cảm với một số dấu hiệu nhận biết liên quan đến tuổi già, phụ nữ và tình dục dễ dàng nhận biết hơn. Hơn 80% người được hỏi cho biết họ sẽ tìm kiếm sự trợ giúp nếu họ gặp vấn đề tương tự. Tuy nhiên, tỷ lệ ý định giúp đỡ, tìm kiếm một cách cụ thể của sinh viên là tương đối thấp, chỉ có 26% đề cử một chuyên gia thực hành và chỉ có 10% là đề cử một cố vấn sinh viên. Những nhân tố liên quan đến sự kỳ thị bao gồm nam giới, thanh thiếu niên, trình độ học vấn thấp, sinh ra ngoài nước Úc và thiếu nhận thức về trầm cảm.[36]. Trong một nghiên cứu ở Úc trên nhóm nghiên cứu nằm trong độ tuổi từ 15 đến 24, rối loạn tâm thần được mẫu nghiên cứu nhìn nhận như một gánh nặng bệnh tật [16] và một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tần suất sinh viên đại học mắc bệnh tâm thần cao hơn so với dân số nói chung [46]. Trong công cuộc xây dựng thang đo nhận thức về sức khỏe tâm thần (MHLS) của Matt O’Connor, Leanne Casey năm 2014, nghiên cứu tại Úc, với mẫu nghiên cứu gồm 372 người từ 17 -55 tuổi, có 94 nam và 278 nữ chủ yếu là người da trắng, trong đó tuổi trung bình là 21.5. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, điểm trung bình của thang đo là 127.38 với độ lệch chuẩn là 12.63, điểm thấp nhất là 92 và cao nhất là 155 với kết luận là thang đo phân phối ở mức độ trung bình. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nhóm bác sĩ tâm thần có nhận thức về SKTT cao hơn nhóm cộng đồng. Trong một nghiên cứu khác của Jorm và cộng 8 sự(2005),cho biết mức độ hiểu biết của cộng đồng về sức khỏe tâm thần là rất thấp, trong đó có nhiều cá nhân không nhận biết được những triệu chứng của rối loạn tâm thần, đặc biệt là trầm cảm, thái độ tích cực sẽ kéo theo khả năng nhận thức về sức khỏetâm thần là tốt hơn. [35, tr.515]. Một cuộc khảo sát nhận thức về SKTT của hộ gia đình người Malaysia được tiến hành từ cuối tháng 8 năm 2007 đến đầu tháng 10 năm 2007, sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Đạo đức trường Đại học Malaya Medical. Các hộ gia đình được tiếp xúc chủ yếu vào cuối tuần và buổi trưa các ngày trong tuần (từ 1500 đến 1930 giờ). Sau khi giải thích các mục tiêu của cuộc điều tra, người trả lời cũng được đảm bảo rằng sự tham gia của họ vẫn còn ẩn danh. Một lá thư đồng ý đã được ký bởi mỗi người trả lời trước buổi phỏng vấn. Người phỏng vấn kiểm tra bằng tay bản câu hỏi sau mỗi cuộc phỏng vấn trước khi tiếp tục gia đình kế tiếp. Cuộc khảo sát gồm tổng cộng 651 người trả lời phỏng vấn, 69 người phiếu loại và chỉ còn 587 câu hỏi hoàn thành đã được trả lại, đạt tỷ lệ phản hồi chung là 90,2%. Trong số 587 người trả lời, 321 (54,7%) là nam giới và 266 (45,3%) là nữ, tuổi từ 18 đến 60 (trung bình và độ lệch chuẩn [SD] 33,9 ± 12,13) năm. Phần lớn người được hỏi là người Mã Lai (70,9%), trong khi 118 (20,1%) là người Trung Quốc và 51 (8,7%) là người Ấn Độ. Phần lớn người được hỏi là người Hồi giáo (71,2%), tiếp theo là Phật tử (9,0%), Hindu (7,3%) và Kitô hữu (11,1%). Có hơn một phần tư số người được hỏi đã hoàn thành giáo dục sau trung học, trong khi 57,8% số người đã hoàn thành bậc trung học, 13,7% chỉ có trình độ tiểu học và không có bằng cấp chính thức. Tuy nhiên kết quả chỉ ra, có ít hơn 5% số người được hỏi (n = 29) cho biết bản thân họ, hoặc những người mà họ biết có vấn đề về sức khoẻ tâm thần [53, tr.1171]. Đồng thời,kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra phần lớn những người trả lời không có kiến thức về sức khoẻ tâm thần. Tuy nhiên, tất cả những người trả lời đều có thái độ trung lập đối với các vấn đề về sức khoẻ tâm thần. Người ta nhận thấy rằng dân tộc, tôn giáo, trình độ giáo dục và địa điểm cư trú là một vài đặc điểm nhân khẩu học có liên quan đáng kể đến kiến thức hoặc thái độ của người trả lời về các vấn đề sức khoẻ tâm thần [53]. 9 Tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu bàn về nhận thức của cộng đồng hay một nhóm người, nhóm bệnh cụ thể về sức khỏe tâm thần. Một vài nghiên cứu về sức khỏe tâm thần ở Việt Nam đã được công bố về sự phổ biến của rối loạn tâm thần. Một nghiên cứu của nhóm tác giả Wright và cộng sự năm 2007 phát hiện ra rằng vị thành niên và thanh thiếu niên (từ 12 đến 25 tuổi) có thể gãn nhãn một rối loạn được miêu tả một cách châm biếm, cũng có nhiều khả năng họ đánh giá các nguồn trợ giúp chuyên nghiệp thích hợp cho rối loạn đó là có ích. Nhưng nó không cung cấp thông tin về ý định giúp đỡ của giới trẻ nếu họ phát triển một vấn đề tương tự [49]. Qua phần tổng quan một số nghiên cứu về nhận thức về SKTT của cộng đồng trên thế giới nói chung, phần lớn cộng đồng nhận thức còn hạn chế về các rối loạn tâm thần [33], co nhiều nhận thức sai lệch về rối loạn tầm thần [49], niềm tin vào khả năng của bản thân để thực hiện hành vi tìm kiến trợ giúp có nhiều rào cản [36]. Tại Việt Nam nhận thức về SKTT cũng đã được nhiều nghiên cứu đề cập đến. Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung lý giải nhận thức về SKTT trên khía cạnh nhận biết các rối loạn tâm thần như trầm cảm, lo âu, tâm thần phân liệt… hoặc nhận thức về tìm kiếm thông tin về SKTT, những nguồn trợ giúp sẵn có, các dịch vụ trợ giúp chuyên nghiệp…mẫu lựa chọn nghiên cứu là một nhóm bệnh nhân, một nhóm tuổivà cộng đồng. Đông thời chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức về SKTT tập trung chủ yếu vào nhóm yếu tố như niềm tin vào nguồn trợ giúp và bản thân, khả năng nhận biết rối loạn, khả năng tiếp cận các dịch vụ và thái độ đối với bệnh tâm thần. Phần lớn nhận thức và hành vi TKTG về SKTT của người Việt Nam bị ảnh hưởng bởi các khái niệm Việt về bệnh tâm thần và gắn với nhiều tên gọi định kiến như: điên, thần kinh, dở… nên tâm lý miệt thị và mặc cảm có ảnh hưởng nhiều đến việc cá nhân thực hiện tìm kiếm trợ giúp chủ động [28]. Qua đó những nghiên cứu trên thế giới và trong nước về nhận thức về SKTT đã đánh giá phần nào thực trạng nhận thức của cộng đồng về SKTT, từ đó cho thấy cộng đồng còn nhận thức thấp về SKTT[34, tr.515], đặc biệt còn nhiều 10 kỳ thị và định kiến đối với vấn đề SKTT[36]. Do đó, tại Việt Nam, việc thực hiện nghiên cứu về nhận thức về SKTT của cộng đồng nói chung được nhiều nghiên cứu đề cập. Tuy nhiên sự mới mẻ của đề tài ở chỗ, tập trung chỉ ra thực trạng nhận thức về SKTT trên đối tượng là học sinh THPT, tức các em học sinh nằm trong độ tuổi từ 15 – 18 tuổi. Bởi đây làgiai đoạn phát triển và thay đổi mạnh mẽ về đặc điểm tâm sinh lý, nên tồn tại nhiều mâu thuẫn giữa hiện thực khách quan và mong muốn chủ quan, cùng với nhiều áp lực trong học tập để hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp và hướng nghiệp sắp tới (bước ngoặt lớn trong cuộc đời). Chính vì thế, bản thân các em sẽ có nhiều trải nghiệm để cảm nhận rõ nét về SKTT của bản thân và/hoặc quan sát từ những người xung quanh. Qua đó, nghiên cứu sẽ tìm hiểu được nhiều điều có ý nghĩa khi nghiên cứu SKTT trong độ tuổi này, góp phần đề xuất chiến lược phòng ngừa với những cơ sở đào tạo và chăm sóc SKTT nhằm giúp các em dễ dàng vượt qua giai đoạn nhạy cảm này. Do đó, với đề tài “Tương quan giữa nhận thức về Sức khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT” là đề tài nghiên cứu khả mới mẻ tại Việt nam và sẽ hướng đến làm rõ hơn thực trạng nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT và mối quan hệ giữa chúng. 1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu về hành vi TKTG và sử dụng nguồn trợ giúp ở học sinh THPT Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về ý định, hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần ở giới trẻ và cộng đồng. Tuy nhiên tại Việt Nam những nghiên cứu tượng tự còn rất ít và chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về ý định, hành vi TKTG của học sinh THPT về vấn đề SKTT. Trong số những nghiên cứu đã được biết đến, cần kể đến một nghiên cứu tại trường học thanh thiếu niên của Đức trong độ tuổi từ 12-17 tuổi chỉ ra có 18,2% những người bị rối loạn lo âu có thể chẩn đoán và chiếm 23% những người bị rối loạn trầm cảm đã từng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần [22]. Một nghiên cứu khác được thực hiện trên hơn 11.000 vị thành niên từ 15 đến 16 tuổi ở trường học của Na Uy cho thấy, chỉ có 34% những người có mức độ của các triệu chứng trầm cảm và lo âu đã tìm kiếm sự giúp đỡ chuyên nghiệp 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan