HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THUẦN
V¡N HãA VIÖT NAM
TRONG GI¶NG D¹Y M¤N TIÕNG VIÖT
CHO HäC VI£N N¦íC NGOµI ë NHµ TR¦êNG QU¢N §éI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THUẦN
V¡N HãA VIÖT NAM
TRONG GI¶NG D¹Y M¤N TIÕNG VIÖT
CHO HäC VI£N N¦íC NGOµI ë NHµ TR¦êNG QU¢N §éI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1.
PGS. TS. NGUYỄN DUY BẮC
2.
PGS. TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Thuần
3.2.
N
ộ
i
d
u
n
g
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam
1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong ngôn
ngữ và trong tiếng Việt giảng dạy cho người nước ngoài
1.3. Những kết quả đã đạt được và khoảng trống trong nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VĂN
HÓA VIỆT NAM TRONG MÔN TIẾNG VIỆT CHO HỌC
VIÊN NƯỚC NGOÀI Ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Cơ sở thực tiễn
Chương 3: NỘI DUNG GIẢNG DẠY, TIẾP NHẬN VÀ TRẢI
NGHIỆM BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG
MÔN TIẾNG VIỆT Ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN
NAY
3.1. Bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện trong các giáo trình tiếng
Việt sử
dụng ở nhà trường quân đội
v
a
̀
p
h
ư
ơ
n
g
p
h
á
p
g
iảng dạy bản sắc văn hóa Việt Nam qua môn Tiếng Việt cho học
viên nước ngoài ở nhà trường quân đội hiện nay
3.3. Việc tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa qua môn Tiếng
Việt của
Tran
g
học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội hiện nay
1
Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC TRUYỀN TẢI
BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG GIẢNG DẠY
MÔN TIẾNG VIỆT CHO HỌC VIÊN NƯỚC NGOÀI Ở
NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
4.1. Về bản sắc văn hóa Việt Nam trong giáo trình
4.2. Về bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy
4.3. Về tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa Việt Nam của
học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội
11
11
17
27
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
34
34
64
72
72
83
97
110
110
120
134
146
150
151
160
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Khảo sát chủ đề văn hóa Việt Nam trong bài đọc trong giáo
73
trình tiếng Việt cơ sở
Bảng 3.2. Khảo sát chủ điểm giao tiếp trong bài đọc trong giáo trình
75
tiếng Việt cơ sở
Bảng 3.3. Khảo sát cụm từ cố định trong giáo trình tiếng Việt cơ sở
79
Bảng 3.4. Khảo sát mục tiêu truyền tải nội dung văn hóa trong các giáo
160
trình giảng dạy tiếng Việt trong quân đội (thời gian từ năm
2008 đến năm 2018)
Bảng 4. Triển khai hoạt động lớp học hướng đến phát triển năng lực
giao tiếp đa văn hóa
163
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HVNN:
Học viên nước ngoài
MTQS:
Môi trường quân sự
NCS :
Nghiên cứu sinh
NTQĐ:
Nhà trường quân đội
Nxb :
Nhà xuất bản
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển với
những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau đều tạo ra nền văn hóa mang đặc
trưng của quốc gia, dân tộc ấy. Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, người
Việt đã sáng tạo ra một nền văn hóa có bản sắc không lẫn với văn hóa của các
dân tộc khác trên thế giới. Văn hóa Việt Nam được lưu truyền trong các thế hệ
cộng đồng người Việt và cộng đồng dân tộc, quốc gia khác bằng tiếng Việt.
Theo quan điểm của Deborah Peck (1998): “Không có giảng dạy văn hóa
thì việc giảng dạy ngôn ngữ là không chính xác, không đầy đủ và nặng nề”
[81].
Một người nước ngoài dù nắm rất chắc ngữ pháp và có vốn từ phong phú
nhưng thiếu hiểu biết về văn hóa thì khi giao tiếp bằng tiếng Việt cũng chỉ dừng ở
mức độ biết diễn đạt ý nghĩ của mình một cách vụng về bằng cách áp đặt những quy
tắc của tiếng mẹ đẻ. Văn hóa định hình quan điểm, cách nhìn và chi phối sinh hoạt,
ứng xử, giao tiếp của mỗi người, đồng thời cũng là những chuẩn mực để đánh giá bản
thân và người khác sống có phù hợp với văn hóa của cộng
đồng không? Và ngôn ngữ là yếu tố tiêu biểu nhất trong bất kỳ nền văn hóa
nào. Với mọi ngôn ngữ, việc sử dụng lời nói hay văn bản cũng là để truyền tải
một thông điệp văn hóa được hiểu theo ý nghĩa của người thực hành nó. Vì
thế, văn hóa Việt Nam được truyền dạy một cách tự nhiên thông qua quá trình
dạy và học ngôn ngữ sẽ giúp người nước ngoài sử dụng thành thạo tiếng Việt
trong bối cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, chuẩn mực trong nguyên tắc ứng xử của một nền văn hóa này
lại không phải là chuẩn mực của một nền văn hóa khác, các quan điểm được một
cộng đồng chấp nhận có thể không được đồng thuận ở một cộng đồng khác.
Người nước ngoài đến Việt Nam học tiếng Việt thời gian đầu thường ngạc nhiên
và bối rối trước những câu hỏi như: “Anh có gia đình chưa?”, “Anh đi
2
đâu đấy?”, “Anh bao nhiêu tuổi?”... Sự khác biệt về văn hóa khiến họ có
những đánh giá và cảm xúc khác nhau trước ngôn ngữ và môi trường văn hóa
mới. Chỉ những hiểu biết sâu sắc về văn hóa mới có thể giúp học viên nước
ngoài (HVNN) có điểm nhìn văn hóa từ bên trong, cho họ thấy sự tương đồng
và khác biệt trong môi trường đa văn hóa để từ đó có sự đồng cảm, yêu mến
và tôn trọng nền văn hóa họ đang theo học. “Văn hóa trong việc học ngôn ngữ
không phải là một kỹ năng thứ năm không cần thiết, gắn tạm vào việc dạy nói,
nghe, đọc và viết. Nó luôn luôn nằm trong nền tảng, ngay từ những ngày đầu,
sẵn sàng gây bối rối người giỏi ngôn ngữ vào lúc bất ngờ nhất, cho thấy hạn
chế về năng lực giao tiếp của họ, thách thức khả năng hiểu thế giới xung
quanh của họ” [80, tr.1].
Và như thế, văn hóa là phần không thể thiếu trong năng lực giao tiếp
ngôn ngữ và cũng chính là trọng tâm của giảng dạy tiếng Việt.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc giới thiệu văn
hóa trong ngôn ngữ là cơ hội để chúng ta quảng bá văn hóa Việt Nam phục vụ
công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng. Trước đây, việc
dạy tiếng Việt ở nhà trường quân đội (NTQĐ) chỉ tập trung chủ yếu cho học viên
Lào và Campuchia trong điều kiện giảng dạy còn nhiều hạn chế thì ngày nay, đã
có khoảng 30 nước cử quân nhân sang Việt Nam học tập theo hình thức hiệp
định và đối đẳng. Số lượng học viên tăng hàng năm đòi hỏi phải có chiến lược
giới thiệu văn hóa một cách chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, văn hóa trong giảng
dạy ngôn ngữ không chỉ là vấn đề nội sinh xuất phát từ mối quan hệ hữu cơ giữa
ngôn ngữ và văn hóa mà còn là đòi hỏi khách quan xuất phát từ nhu cầu và sự
chủ động, tích cực của người học. Những HVNN đến Việt Nam học tập với mục
đích tìm hiểu, cảm nhận, trải nghiệm giá trị, chuẩn mực của văn hóa Việt Nam
để vận dụng những kiến thức và tình cảm văn hóa vào việc thi hành chính sách
ngoại giao của đất nước mà họ đại diện với Đảng, Nhà nước
3
và Quân đội Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh những mục tiêu chung cần có cái
nhìn đặc thù với đối tượng là HVNN trong nhà trường quân đội.
Nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng
Việt trong đào tạo đối ngoại, những năm qua, các NTQĐ đang từng bước mở
rộng đối tượng và nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Nhưng văn hóa là một phạm trù rộng lớn, việc định hướng nội dung văn hóa
trong giảng dạy tiếng Việt vẫn chưa được thống nhất trong đội ngũ giảng viên và
trong các trường. Giáo trình, tài liệu giảng dạy tiếng Việt trong NTQĐ hiện nay
chưa mang tính đặc thù dành cho đối tượng đào tạo; các phương pháp giảng dạy
hiện đại chưa được cập nhật. Nhu cầu được tiếp nhận, trải nghiệm văn hóa Việt
Nam trong môi trường quân sự (MTQS) của HVNN chưa được đáp ứng một
cách tổng thể và thống nhất. Các hoạt động trải nghiệm và thực hành văn hóa
chưa đi vào chiều sâu, chưa được nhìn nhận và đầu tư thích đáng...
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu cơ bản, hệ thống về
“Văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài
ở
nhà trường quân đội” dưới góc nhìn Văn hóa học là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
2.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là thông qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt để bàn về bản
sắc văn hóa Việt Nam trong giáo trình, nội dung giảng dạy, tiếp nhận và trải
nghiệm hướng đến việc nâng cao hiệu quả truyền tải văn hóa Việt Nam cho
HVNN ở nhà trường quân đội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-
Nhận diện vấn đề văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt
cho HVNN ở NTQĐ, đó là bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện ở các chủ điểm văn
hóa và giao tiếp ngôn ngữ trong giảng dạy tiếng Việt.
4
-
Chỉ ra những biểu hiện của bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy
môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài.
-
Làm rõ thực trạng vấn đề bản sắc văn hóa Việt Nam trong giáo trình,
giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ hiện nay.
-
Bàn luận những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
bản sắc văn hóa Việt Nam cho HVNN một cách hiệu quả trong môi trường giao
tiếp đa văn hóa ở NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, có thể xác định đối tượng nghiên
cứu của luận án là bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt
cho HVNN ở NTQĐ hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-
Nội dung: Văn hóa Việt Nam là một phạm trù rộng lớn bao gồm nhiều
lĩnh vực, bản thân khái niệm văn hóa cũng mang tính động, phụ thuộc vào góc nhìn
của lĩnh vực nghiên cứu. Vì vậy, trong khuôn khổ của một luận án, nghiên cứu sinh
(NCS) đã giới hạn phạm vi nghiên cứu là bản sắc văn hóa Việt Nam. Việc giới hạn
phạm vi nghiên cứu xuất phát từ lý do lựa chọn đề tài, văn hóa Việt Nam trong giảng
dạy ngôn ngữ là những yếu tố phản ánh quan điểm và tư duy của dân tộc Việt Nam
trong so sánh sự tương đồng và khác biệt với dân tộc khác; từ nội dung văn hóa Việt
Nam trong chương trình đào tạo; từ đối tượng nghiên cứu; từ thực tế kinh nghiệm
giảng dạy, từ trải nghiệm của NCS khi khảo sát ở các NTQĐ. Như vậy, việc giới hạn
nội dung văn hóa Việt Nam trong phạm vi bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy
môn Tiếng Việt cho người nước ngoài là có cơ sở và phù hợp với mục đích và nhiệm
vụ nghiên cứu.
-
Không gian: Các học viện, nhà trường trong quân đội có nhiệm vụ đào
tạo tiếng Việt và chuyên ngành quân sự cho HVNN: Đoàn 871 (Long Biên, Hà
5
Nội), Học viện Khoa học quân sự (Hoài Đức, Hà Nội), Trường Sĩ quan Kỹ
thuật quân sự Vinhempich (Trường Đại học Trần Đại Nghĩa; Gò Vấp, Thành
phố Hồ Chí Minh), Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Trường Đại học Trần Quốc
Tuấn; Sơn Tây, Hà Nội) và Trường Sĩ quan Lục quân 2 (Trường Đại học
Nguyễn Huệ; Biên Hòa, Đồng Nai).
-
Thời gian: 10 năm (từ 2008 đến 2018). Đây là khoảng thời gian việc
giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ở NTQĐ trở thành nhiệm vụ chính trị
trung tâm của đào tạo đối ngoại quốc phòng. Văn hóa Việt Nam nói chung
và bản sắc văn hóa Việt Nam nói riêng được đặt ra như một yêu cầu khách
quan và chủ quan trong giảng dạy tiếng Việt cho đối tượng sẽ là “đại sứ” đưa
văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Đó cũng là khoảng thời gian cần thiết để
nhìn lại chất lượng những giáo trình đã được lựa chọn, những phương pháp
truyền tải cần được đổi mới để từ đó bàn luận những vấn đề hướng đến nâng
cao chất lượng giảng dạy văn hóa Việt Nam cho HVNN ở NTQĐ hiện nay.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và bản
sắc văn hóa dân tộc để giới thuyết khái niệm, khảo sát bản chất của văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở nhà trường quân đội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
-
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nghiên cứu văn hóa trong giảng
dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở NTQĐ liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối
tượng. Vì vậy NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành nhằm tiếp cận ở các
góc nhìn văn hóa học, ngôn ngữ học, phương pháp dạy học để giải quyết vấn đề bản
sắc văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
6
-
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu thứ cấp: Luận án tập trung
nghiên cứu, phân tích các nguồn tài liệu, các kết quả nghiên cứu đã được công bố về
bản sắc văn hóa Việt Nam, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, các chỉ thị, nghị
quyết, các kết quả điều tra, nghiên cứu về văn hóa trong môn Tiếng Việt cho HVNN ở
NTQĐ từ năm 2008 đến nay; tiếp thu những kinh nghiệm, nhận diện những bất cập từ
đó tổng hợp, khái quát hóa, đưa ra những nhận định có tính khoa học về văn hóa Việt
Nam trong giảng dạy tiếng Việt cho HVNN
ở
-
NTQĐ hiện nay.
Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp này giúp tìm hiểu nhận
thức về bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa trong ngôn ngữ và biểu hiện của nó trong
môn Tiếng Việt đồng thời chỉ ra nội dung cốt lõi của văn hóa Việt Nam trong môn
Tiếng Việt giảng dạy cho HVNN ở nhà trường quân đội.
-
Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Luận án sử dụng phương pháp này
giúp nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ một cách toàn
diện, trong mối tương quan với mục tiêu, chương trình đào tạo, giáo trình,
giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm của HVNN, từ đó đưa ra những bàn luận
nhằm nâng cao chất lượng truyền tải văn hóa Việt Nam trong NTQĐ hiện nay.
-
Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này giúp tham khảo ý kiến
của các chuyên gia có trình độ, những kinh nghiệm thực tế và trải nghiệm là cơ sở
làm rõ hơn phạm vi nghiên cứu, bàn luận những yếu tố đảm bảo và quyết định
trong việc nâng cao chất lượng truyền tải bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng
dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
-
Phương pháp điền dã: Sử dụng phương pháp này để có được những dữ
liệu trung thực, khách quan qua quan sát thực tế, ghi âm, ghi hình thực tiễn văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ; qua đó nhận thức sâu
sắc, đầy đủ hơn về bản sắc văn hóa trong môn Tiếng Việt và đưa ra những nhận xét,
đánh giá mang tính khách quan, khoa học, có sức thuyết phục.
7
Trong quá trình điền dã, quan sát và tham dự trực tiếp vào quá trình
giảng dạy trong 5 học viện, nhà trường được giao nhiệm vụ hợp tác đào tạo
HVNN ở miền Bắc và miền Nam, NCS đã tiến hành 6 cuộc phỏng vấn (3
cuộc với 6 giảng viên và 3 cuộc với 12 học viên) nhằm xác định mục đích cốt
lõi của văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ; đánh giá
bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ
một cách chân thực và khách quan; những mong muốn chủ quan và kết quả
khách quan… Kết quả điều tra là cơ sở xác định nội dung cốt lõi của văn hóa
Việt Nam trong môn Tiếng Việt là bản sắc văn hóa. Đó cũng là cơ sở khoa
học để bàn luận về yếu tố đảm bảo và yếu tố quyết định nâng cao hiệu quả
bản sắc văn hóa trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
-
Phương pháp điều tra xã hội học: Để xác định bản sắc văn hóa Việt
Nam đã được giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm trong NTQĐ như thế nào thì
việc trưng cầu đánh giá của hai đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình dạy, học
là giảng viên và học viên về bản sắc văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở
NTQĐ là rất quan trọng. Do vậy, NCS xây dựng nội dung chi tiết cho việc điều tra
xã hội học như sau:
Về thành phần điều tra
Cán bộ, giảng viên tham gia khảo sát có 50 người. Trong đó theo cấp bậc
có 20% (10/50) viên chức quốc phòng; 28% (14/50) từ thiếu úy đến đại úy, 46%
(23/50) là thiếu tá và trung tá, 6% (3/50) là thượng tá và đại tá. Theo trình độ học
vấn có 26% (13/50) trình độ đại học, 72% (26/50) trình độ thạc sĩ và 2% (1/50)
trình độ tiến sĩ. Theo ngành đào tạo có 80% (40/50) được đào tạo chuyên ngành
văn học và ngôn ngữ học, 20% (10/50) được đào tạo chuyên ngành ngoại ngữ.
Theo thâm niên giảng dạy có 76% (38/50) từ 10 năm trở lên. Thành phần tham
gia điều tra là các giảng viên đủ kinh nghiệm dạy học, có chuyên môn phù hợp
với giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường quân đội.
8
Học viên tham gia khảo sát với số lượng là 300 người. Có 50% (150/300)
đang học trình độ cơ sở 1 năm; 50% (150/300) đang học chuyên ngành từ năm
thứ hai trở lên. Các học viên đã và đang học gần hết một năm học trở lên, sử
dụng khá thành thạo tiếng Việt, có thể giao tiếp với người bản ngữ.
Các giảng viên và học viên tham gia điều tra xã hội học ở 5 trung tâm
đào tạo HVNN trong NTQĐ. Đó là: Đoàn 871, Học viện Khoa học quân sự,
Trường Sĩ quan Kỹ thuật quân sự Vinhempich, Trường Sĩ quan Lục quân 1,
Trường Sĩ quan Lục quân 2.
Về phương thức tiến hành tổ chức khảo sát
-
Về mục đích: khảo sát bản sắc văn hóa Việt Nam trong hệ thống bài
đọc, các chủ điểm giao tiếp, các từ cố định và thành ngữ trong giáo trình tiếng
Việt; tập trung đánh giá thực trạng nội dung, tiếp nhận, trải nghiệm, thực hành
văn hóa Việt Nam; từ đó bàn luận về các yếu tố đảm bảo và quyết định chất
lượng văn hóa trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
-
Về thời gian và quy mô: điều tra xã hội học được tiến hành từ tháng 6
năm 2017 đến tháng 6 năm 2018; trong đó tiến hành điều tra xã hội học 50
cán bộ, giảng viên và 300 học viên ở 5 học viện, nhà trường trên cơ sở phiếu
điều tra được thiết kế, xây dựng theo mục đích nghiên cứu.
-
Về phương pháp và kỹ thuật điều tra: Để đạt được mục đích nghiên
cứu, NCS đã sử dụng 50 phiếu hỏi anket cho giảng viên (trong tổng số 57
giảng viên của các trường khảo sát) và 300 phiếu hỏi anket cho học viên để
đánh giá tình hình thực tế văn hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải
nghiệm ở NTQĐ hiện nay.
Về tiêu chí khảo sát
Nghiên cứu sinh tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng từng yếu tố trong
giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm văn hóa Việt Nam trên các phương diện:
khảo sát giáo trình; điều tra xã hội học nội dung, phương pháp giảng dạy đối
9
với người dạy và tiếp nhận, trải nghiệm đối với người học, đánh giá trung
thực và khách quan văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt ở
NTQĐ hiện nay. Cụ thể như sau:
-
Khảo sát 12 giáo trình được sử dụng trong các NTQĐ trong 10 năm trở lại
đây (từ 2008 đến 2018), đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố thực có và
những yếu tố cần có để đảm bảo nhu cầu giảng dạy, tiếp nhận bản sắc văn hóa
Việt Nam trong NTQĐ hiện nay.
-
Khảo sát nội dung, phương pháp giảng dạy văn hóa Việt Nam để tìm
hiểu thực trạng và những nhu cầu trong NTQĐ hiện nay.
-
Khảo sát việc tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa Việt Nam của
HVNN trong NTQĐ hiện nay để đánh giá thực trạng và những yêu cầu từ tình
hình thực tế của đối tượng người học môn Tiếng Việt khá đặc thù trong nhà
trường quân đội.
Kết quả định lượng trong khảo sát là cơ sở đưa ra những kết luận thực
tiễn góp phần xác định nội dung văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt là
bản sắc văn hóa, những điều kiện đảm bảo và quyết định để nâng cao bản sắc
văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt. Sau khi tổng hợp kết quả từ khảo sát
giáo trình và thu thập ý kiến của đối tượng khảo sát, các số liệu được xử lý và
cho ra kết quả định lượng phục vụ mục đích nghiên cứu. Đây là nguồn thông
tin cung cấp luận cứ cho hầu hết các phân tích và lập luận trong luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
-
Về tư liệu: Luận án có những đóng góp trong sưu tầm, thẩm định khối
tư liệu, tài liệu về bản sắc văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ, văn hóa
và ngôn ngữ trong giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
-
Về nội dung, hàm lượng khoa học cũng như phương pháp, luận án là
công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn
Tiếng Việt ở NTQĐ. Luận án có ý nghĩa tạo ra hướng nghiên cứu liên
10
ngành văn hóa, ngôn ngữ và phương pháp giảng dạy dưới góc nhìn văn hóa
học mới cả về học thuật lẫn phương pháp; đóng góp cho cách tiếp cận bản sắc
văn hóa trong ngôn ngữ giảng dạy cho HVNN. Đối với mục tiêu làm đậm bản
sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở NTQĐ,
các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có tác dụng làm rõ nội dung, cách tiếp
cận phương pháp giảng dạy hiện đại, cách thức tổ chức thực hành và trải
nghiệm văn hóa trong MTQS hướng đến đối tượng HVNN sử dụng tiếng Việt
trong công tác đối ngoại quân sự và hợp tác quốc phòng với Quân đội, Đảng
và Nhà nước Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án
được chia thành 4 chương, 11 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu văn hóa Việt Nam
trong môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội.
Chương 3: Nội dung giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn
hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở nhà trường quân đội hiện nay.
Chương 4. Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền tải bản sắc văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà
trường quân đội hiện nay.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIÊT
̣ NAM
Hơn một thế kỷ nay, Văn hóa học đã trở thành một ngành khoa học có đối
tượng và chức năng riêng được các nhà nghiên cứu ở các nước Anh (Edward
Burnett Tylor, 1897), Nga (Nikolay Yakovlevich Danilevsky, 1880), Đức
(Wilhelm Ostwald, 1909), Mỹ (Leslie Alvin White, 1949) và các nhà khoa học
ở
Ở
nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm.
Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu thường lấy “Việt Nam văn hóa sử
cương” [2] của tác giả Đào Duy Anh làm mốc cho việc nghiên cứu văn hóa. Đặc
biệt từ tháng 4 năm 1943, Hội Văn hóa cứu quốc ra đời đã tập hợp được hầu hết
các trí thức tiêu biểu của đất nước cho công cuộc xây dựng và phát triển một nền
văn hóa dân tộc và cách mạng.
Văn hóa đã được nhiều tổ chức, nhiều nhà nghiên cứu bàn đến trực tiếp, tạo
ra không khí học thuật sôi nổi trong các công trình như: “Bản sắc văn hóa Việt
Nam” của Phan Ngọc [41], “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần
Ngọc Thêm [61], “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm” của Trần Quốc
Vượng [77], “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc” của Nguyễn Khoa Điềm [19]… những năm cuối thế kỷ XX.
Các công trình nghiên cứu cho thấy, văn hóa trở thành một khoa học
thực sự, nội hàm của khái niệm bao quát một phạm vi rất rộng lớn và phụ
thuộc vào đối tượng và mục tiêu của nhà nghiên cứu.
Trong số những tác giả bàn về văn hóa và bản sắc văn hóa, nhà nghiên
cứu Lê Quang Thiêm là người bàn nhiều đến phương pháp luận. Trong công
trình “Văn hóa văn minh và yếu tố truyền thống văn hóa Hàn” [63], ông đã đi
từ định vị bản sắc văn hóa để nêu lên các bình diện của bản sắc văn hóa dân
12
tộc. Lê Quang Thiêm đã phân biệt 3 thuật ngữ: bản sắc dân tộc, bản sắc văn
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc và ông đi đến kết luận: “Bản sắc văn hóa là hệ
thống giá trị sáng tạo đặc trưng, tinh túy nhất, đặc sắc nhất của nền văn hóa
tương ứng hay nói cách khác, bản sắc văn hóa là những giá trị sáng tạo đặc
trưng nhất, tiêu biểu nhất, lâu bền nhất của văn hóa” [63, tr.149].
Trên cơ sở đó, ông xác định các đường hướng chung cho việc tìm hiểu
bản sắc văn hóa Việt Nam. Ông cho rằng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là
bản sắc văn hóa của quốc gia đa dân tộc, tiếp biến nhuần nhuyễn những yếu tố
văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, Âu Mỹ, hòa đồng với tự nhiên, làng bản, đất
nước. Một bản sắc văn hóa đa dạng, đa sắc màu, cởi mở, tiếp xúc, tiếp biến.
Theo ông, bản sắc văn hóa Việt Nam cũng còn biểu hiện ở một số hằng số tự
nhiên. Đó là sự kiên trì, bản lĩnh bám trụ, trách nhiệm đối với dân tộc và cộng
đồng của chủ thể sáng tạo.
Từ góc độ lịch sử để nghiên cứu văn hóa, có thể khẳng định những nghiên
cứu của Trần Quốc Vượng đã thu được nhiều thành công. Với công trình “Văn
hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm” [77], tác giả đặt văn hóa Việt Nam trong bối
cảnh Đông Nam Á và Đông Á. Trong khi một số nhà nghiên cứu trên thế giới
phủ nhận sự hiện hữu của văn hóa Việt Nam, coi Việt Nam là một Trung Hoa
thu nhỏ, xếp tiếng Việt vào nhóm Hán - Tạng thì những nghiên cứu về văn hóa
của Trần Quốc Vượng đã có tính cách mạng đối với văn hóa Việt Nam: “Văn
hóa Việt Nam, văn minh sông Hồng và văn hóa Trung Quốc, văn minh Hoàng
Hà, khác nhau từ căn bản, từ cội nguồn” [77, tr.35]. Ông bàn về bản sắc văn hóa
Việt Nam từ nhiều góc nhìn khi có cơ hội. Tuy nhiên những nghiên cứu về bản
sắc văn hóa của Trần Quốc Vượng thiên về những gợi mở về phương pháp luận
và các hướng tiếp cận cho các nhà nghiên cứu.
Không đi sâu vào những vấn đề có tính lịch đại, nhưng những kết quả
nghiên cứu bản sắc văn hóa ở phương diện đồng đại của các tác giả Huỳnh Khái
13
Vinh, Hồ Sĩ Vịnh, Nguyễn Khoa Điềm, Đặng Đức Siêu... đã để lại những đóng
góp có giá trị. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để
nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tác giả Hồ Sĩ Vịnh (1999) trong công trình “Văn
hóa văn học, một hướng tiếp cận mới” cho rằng: “Bản sắc dân tộc là một tổng
hòa những đặc điểm của một dân tộc trên nhiều mặt: lịch sử, địa lý, truyền thống,
tâm lý… đã tạo nên diện mạo và dáng vóc riêng của dân tộc đó” [75, tr.71]. Bên
cạnh đó, ông cũng phân biệt hai thuật ngữ bản sắc dân tộc và bản sắc dân tộc
trong văn hóa. Ông coi văn hóa là “gương mặt của dân tộc” và “bản sắc dân tộc
trong văn hóa có mặt tích cực cũng như mặt phiến diện, mặt tươi sáng và mặt
phức tạp do hoàn cảnh xã hội, chiều dày lịch sử, môi trường địa lý, truyền thống
và tâm lý của cộng đồng trên mảnh đất lâu đời đó tạo nên” [75, tr.72]. Cũng
trong công trình nghiên cứu “Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa” (Hồ Sĩ Vịnh
chủ biên), Quang Đạm, tác giả bài viết “Thử miêu tả bản sắc dân tộc, bản sắc
văn hóa Việt Nam” nhận xét: “Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển
chuyển, linh hoạt những đặc điểm của dân tộc, tạo nên diện mạo và hình dạng
riêng của dân tộc ấy không thể đồng nhất với dân tộc khác trong cộng đồng khu
vực hay cộng đồng loài người” [45, tr.15].
Đứng ở góc độ khoa học chính trị, công trình tập thể “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [19] do nhà nghiên
cứu Nguyễn Khoa Điềm chủ biên rất cần được lưu ý vì tính chất phổ quát của nó.
Từ quan điểm của Đảng về văn hóa, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề
bản sắc văn hóa với phương châm bảo vệ quyền lợi chính trị của quốc gia, dân
tộc. Văn hóa và bản sắc văn hóa được đặt ra trong mối liên hệ nhiều chiều có
tính biện chứng. Trong quá trình nghiên cứu năm giai đoạn phát triển của văn
hóa, các tác giả đã khái quát năm đặc điểm của văn hóa Việt Nam và khẳng định
bản sắc văn hóa dân tộc được xác định là sự tổng hòa của các khuynh hướng cơ
bản trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc; có mối liên hệ
14
thường xuyên và định hướng của cái riêng (văn hóa dân tộc) với cái chung
(văn hóa khu vực, văn hóa nhân loại); liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững với
lịch sử dân tộc. Những lý giải như vậy có ý nghĩa gợi mở các hướng nghiên
cứu truyền tải và giao lưu văn hóa.
Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là bàn luận của các nhà văn
hóa mà còn là vấn đề của Đảng, vấn đề của cả dân tộc. Trên cơ sở các kết luận
của các nhà khoa học tâm huyết với nền văn hóa dân tộc, kết luận của các hội
nghị khoa học về văn hóa Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã tổng kết và đưa vào Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5
(Khóa VIII) nội dung bản sắc văn hóa Việt Nam:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự
tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm
nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [16].
Ở
cách tiếp cận văn hóa dưới góc độ triết học, các nhà nghiên cứu
Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý trong công trình “Tìm hiểu giá
trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[11]
đã đưa ra một cách nhìn mới về bản sắc văn hóa. Trong phần xác định các
giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, các nhà triết học đã thống nhất với nhiều
nhà văn hóa lịch sử trong việc khẳng định hằng số văn hóa được bản sắc hóa dựa trên
cơ sở tập hợp các yếu tố: địa - văn hóa nhiệt đới, gió mùa bán đảo; cư dân sống thành
làng xã làm ruộng, làm vườn, có thiết chế gia đình huyết tộc như nhiều cư dân Nam
Á. Các tác giả đã khẳng định những đặc điểm về địa
- Xem thêm -