BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH
XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÂN NGÀNH CÁC CÔNG
TY NIÊM YẾT PHỤC VỤ CHO SỰ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH
XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÂN NGÀNH CÁC CÔNG
TY NIÊM YẾT PHỤC VỤ CHO SỰ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành : KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. THÂN THỊ THU THỦY
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÂN NGÀNH KINH TẾ
1
1.1 Những vấn đề cơ bản về phân ngành kinh tế
1
1.1.1 Khái niệm phân ngành kinh tế
1
1..12 Sự cần thiết phải phân ngành kinh tế
1
1.1.3 Nguyên tắc xây dựng hệ thống phân ngành kinh tế
2
1.1.4 Ý nghĩa của việc phân ngành trên thị trường chứng khoán
3
1.2 Một số tiêu chuẩn phân ngành trên thế giới
3
1.2.1 Tiêu chuẩn phân ngành ISIC
4
1.2.2 Tiêu chuẩn phân ngành NAICS
5
1.2.3 Tiêu chuẩn phân ngành GICS
6
1.2.4 Tiêu chuẩn phân ngành ICB
7
1.3 Tiêu chuẩn phân ngành kinh tế của Việt Nam
8
1.4 Giới thiệu chi tiết tiêu chuẩn phân ngành ICB
10
Kết luận chương 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÂN NGÀNH CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
23
24
2.1 Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
24
2.2 Thực trạng phân ngành các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
28
2.2.1 Hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam
27
2.2.2 Thực trạng phân ngành các công ty niêm yết tại các CTCK Việt Nam
31
2.2.2.1. Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC)
32
2.2.2.2 Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam (BSC)
34
2.2.2.3 Công ty cổ phần chứng khoán FPT (FPTS)
35
2.2.2.4. Công ty Cổ phần Chứng khoán Quốc tế Việt Nam (VIS)
38
2.2.2.5 Công ty chứng khoán VNDirect
39
2.2.2.6 Công ty Cổ phần chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh (HSC)
40
2.2.2.7 Công ty Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SBS)
41
2.3 Đánh giá thực trạng phân ngành các công ty niêm yết tại các CTCK Việt Nam
44
2.3.1 Kết quả đạt được của việc phân ngành tại các CTCK Việt Nam
44
2.3.2 Những tồn tại trong hoạt động phân ngành tại các CTCK Việt Nam
44
2.3.2.1 Chưa sử dụng thống nhất tiêu chuẩn phân ngành
45
2.3.2.2 Cách sắp xếp,phân loại các công ty niêm yết vào từng ngành còn nhiều bất cập
46
2.3.2.3 Chưa thống nhất phương pháp xác định các tỷ số bình quân ngành
46
2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại
47
2.3.3.1 Các công ty niêm yết chưa công bố đủ thông tin
47
2.3.3.2 Khó phân ngành đối với các công ty kinh doanh đa ngành
48
2.3.3.3 Chưa có tổ chức chuyên công bố thông tin chính thức
50
Kết luận chương 2
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÂN NGÀNH CÁC CÔNG TY NIÊM
YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
51
53
3.1 Phương pháp xây dựng hệ thống phân ngành các công ty niêm yết
53
3.2 Đề xuất xây dựng hệ thống phân ngành các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
54
3.2.1 Ngành dầu khí
54
3.2.2 Ngành vật liệu cơ bản
55
3.2.3 Ngành công nghiệp
58
3.2.4 Ngành hàng tiêu dùng
66
3.2.5 Ngành y tế
70
3.2.6 Ngành dịch vụ tiêu dùng
71
3.2.7 Ngành viễn thông
73
3.2.8 Ngành tiện ích công cộng
73
3.2.9 Ngành tài chính
74
3.2.10 Ngành công nghệ thông tin
79
3.3 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động phân ngành trên TTCK Việt Nam
3.3.1 Hoàn thiện văn bản pháp luật về công khai hóa thông tin đối với các công
ty niêm yết
82
82
3.3.2 Cần phải có cơ quan quản lý nhà nước đưa ra hệ thống phân ngành chuẩn,
áp dụng thống nhất trên toàn bộ TTCK
84
3.3.3 Các CTCK cần áp dụng một tiêu chuẩn phân ngành thống nhất
85
3.3.4 Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa các DNNN, đặc biệt
là các doanh nghiệp đầu ngành.
85
Kết luận chương 3
88
Kết luận
89
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Xây dựng hệ thống phân ngành các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là công trình nghiên cứu riêng của tôi được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Thân Thị Thu Thủy. Luận văn là kết
quả của việc nghiên cứu độc lập, không sao chép trái phép toàn bộ hay một phần công
trình của bất cứ ai khác. Các số liệu trong luận văn do tác giả thu thập từ các nguồn
khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo.
TP HCM, ngày 26 tháng 07 năm 2010
Tác giả luận văn
Đặng Thị Quỳnh Anh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CK
: Chứng khoán
CTCP
: Công ty cổ phần.
CTCK
: Công ty chứng khoán
HOSE
: Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
HNX
: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
NHNN
: Ngân hàng Nhà nước
SGDCK
: Sở giao dịch chứng khoán.
TPHCM
: Thành phố Hồ Chí Minh.
TTCK
: Thị trường chứng khoán.
TTGDCK
: Trung tâm giao dịch chứng khoán.
UBCKNN
: Ủy ban chứng khoán nhà nước.
UPCOM
: Thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm
yết
VN-Index
: Chỉ số trung bình giá chứng khoán trên thị trường Việt Nam
bao gồm các cổ phiếu niêm yết tại SGDCK TP.HCM
HNX Index
: Chỉ số trung bình giá chứng bao gồm các cổ phiếu niêm yết tại
SGDCK Hà Nội
ROA
: Return on Assets - tỷ suất lợi nhuận trên tài sản
ROE
: Return on Equity - tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
EPS
: Earning per share – thu nhập trên mỗi cổ phần
P/E
: Price/Earning per share – chỉ số giá trên thu nhập mỗi cổ phần
P/B
: Price/Book value – chỉ số giá trên giá trị sổ sách
Mã chứng khoán : Được viết tắt theo quy ước tại HOSE và HNX
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU
Đồ thị
Đồ thị 2.1: Số lượng các CTCK trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009
Bảng biểu
Bảng 2.1: Số liệu cơ bản về TTCK Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009
Bảng 2.2: Cấu trúc phân ngành của BVSC
Bảng 2.3: Tổng hợp các công ty theo từng ngành của FPTS
Bảng 2.4: So sánh số liệu bình quân ngành vật liệu cơ bản
Bảng 3.1: Phân ngành các công ty ngành dầu khí
Bảng 3.2: Phân ngành các công ty ngành hóa chất
Bảng 3.3: Phân ngành các công ty ngành tài nguyên
Bảng 3.4: Phân ngành các công ty ngành vật liệu xây dựng
Bảng 3.5: Phân ngành các công ty - ngành xây dựng công nghiệp
Bảng 3.6: Phân ngành các công ty– ngành thiết bị điện & điện tử
Bảng 3.7: Phân ngành các công ty– ngành cơ khí
Bảng 3.8: Phân ngành các công ty - ngành vận tải
Bảng 3.9: Phân ngành các công ty – ngành dịch vụ công nghiệp
Bảng 3.10: Phân ngành các công ty – ngành ô tô và phụ tùng ô tô
Bảng 3.11: Phân ngành các công ty – ngành thực phẩm
Bảng 3.12: phân ngành các công ty – ngành đồ uống
Bảng 3.13: phân ngành các công ty - ngành sản xuất hàng tiêu dùng
Bảng 3.14: Phân ngành các công ty – ngành dược phẩm và công nghệ sinh học
Bảng 3.15: Phân ngành các công ty – ngành bán lẻ
Bảng 3.16: Phân ngành các công ty – ngành truyền thông
Bảng 3.17: Phân ngành các công ty – ngành du lịch & giải trí
Bảng 3.18: Phân ngành các công ty – ngành viễn thông
Bảng 3.19: Phân ngành các công ty – ngành tiện ích công cộng
Bảng 3.20: Phân ngành các công ty – ngành ngân hàng
Bảng 3.21: Phân ngành các công ty - ngành bảo hiểm
Bảng 3.22: Phân ngành các công ty – ngành bất động sản
Bảng 3.23: Phân ngành các công ty – ngành dịch vụ tài chính
Bảng 3.24: Phân ngành các công ty – quỹ đầu tư
Bảng 3.25: Phân ngành các công ty - ngành công nghệ thông tin
Bảng 3.26: Tổng hợp các ngành
LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua gần 10 năm hoạt động với qui mô ngày
càng gia tăng về số lượng công ty niêm yết và giá trị vốn hóa thị trường. Từ 2 loại cổ
phiếu ban đầu vào tháng 7/2000 thì đến cuối năm 2009 toàn thị trường đã có 454 cổ
phiếu, 573 loại trái phiếu với tổng giá trị vốn hóa thị trường chiếm xấp xỉ 40% GDP.
Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng TTCK ngày càng chứng tỏ vai trò là một
kênh huy động vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Nhờ có TTCK mà một lượng lớn
vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội được đầu tư vào các doanh
nghiệp.
Số lượng công ty niêm yết ngày càng gia tăng đã đem lại sự lựa chọn phong phú cho
nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Tuy nhiên, đầu tư vào công ty nào, ngành nghề nào
để nhằm đạt được tỷ suất sinh lợi mong muốn trong bối cảnh nền kinh tế trong nước
đang chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là vấn đề quan tâm của
các nhà đầu tư hiện nay.
Thông thường, việc phân tích để ra quyết định đầu tư được thực hiện theo thứ tự từ phân
tích vĩ mô nền kinh tế đến phân tích ngành và cuối cùng là phân tích công ty. Trong đó,
phân tích ngành giúp đưa ra định hướng đầu tư tùy thuộc vào bối cảnh của nền kinh tế từ
đó lựa chọn được công ty tốt nhất trong ngành đó. Tuy nhiên, tự bản thân các nhà đầu tư
kể cả các nhà đầu tư có tổ chức khó có thể tự thực hiện việc phân loại các công ty theo
ngành, tính toán các chỉ số bình quân ngành… mà cần có sự trợ giúp từ các định chế tài
chính trên thị trường, đặc biệt là các công ty chứng khoán và các công ty tư vấn đầu tư
tài chính.
Tại TTCK Việt Nam hiện nay, việc phân loại các công ty theo ngành, xây dựng các tỷ
số bình quân ngành do các công ty chứng khoán và các công ty tư vấn đầu tư tài chính
tự thực hiện theo quan điểm riêng của từng công ty. Điều này không những gây khó
khăn cho các nhà đầu tư khi tham khảo những thông tin này mà còn cho cả chính bản
thân các công ty được xếp loại khó có thể so sánh với các công ty khác trong ngành vì
một công ty có thể được phân loại vào các ngành khác nhau.
Đồng thời, với cách sắp xếp thứ tự các công ty niêm yết hiện nay tại hai Sở Giao
Dịch Chứng Khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh theo thứ tự a,b,c mà không
sắp xếp theo ngành cũng gây ra những khó khăn nhất định cho các nhà đầu tư,
chuyên gia phân tích cũng như các cơ quan quản lý. Nhu cầu sắp xếp các công ty
niêm yết theo từng nhóm ngành cụ thể là nhu cầu chính đáng và hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được như vậy cần có một cơ quan có thẩm quyền đưa ra
các tiêu chuẩn phân loại ngành cụ thể thống nhất áp dụng cho toàn bộ thị trường.
Từ thực trạng trên, luận văn với đề tài “ Xây dựng hệ thống phân ngành các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” được thực hiện nhằm nghiên cứu hệ
thống phân ngành phù hợp có thể ứng dụng để xây dựng một hệ thống phân ngành
thống nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở lý luận về phân ngành, giới thiệu một số tiêu chuẩn phân ngành
phổ biến trên thế giới và lựa chọn tiêu chuẩn phù hợp với TTCK Việt Nam
Phân tích thực trạng về hoạt động phân ngành các công ty niêm yết tại các công ty
chứng khoán Việt Nam.
Vận dụng tiêu chuẩn phân ngành được lựa chọn để xây dựng hệ thống phân ngành
thống nhất áp dụng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CÚU
Đối tượng nghiên cứu:
Các công ty niêm yết cổ phiếu và hệ thống các chỉ số tài chính dùng để đo lường hiệu
quả hoạt động của các công ty niêm yết, các ngành trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Việc phân ngành chỉ được thực hiện đối với các công ty có cổ phiếu được niêm yết trên
HOSE và HNX, không tính đến các công ty niêm yết cổ phiếu trên UPCOM.
Số lượng các công ty niêm yết, VN-Index, báo cáo cáo tài chính của các công ty được
cập nhật đến ngày 31/12/2009.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp thống kê số lượng các công ty niêm yết theo
từng ngành, các tỷ số tài chính của từng công ty và từng ngành. Với số liệu được sử
dụng là số liệu thứ cấp do các công ty chứng khoán cung cấp. Ngoài ra, phương pháp
mô tả được sử dụng nhằm làm rõ đặc điểm của hoạt động phân ngành của từng công ty
chứng khoán. Luận văn còn sử dụng phương pháp định lượng để xác định các tỷ số
bình quân ngành, giá trị vốn hóa thị trường của từng công ty niêm yết, từng ngành.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về phân ngành kinh tế
Chương 2: Thực trạng phân ngành các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Chương 3: Xây dựng hệ thống phân ngành các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
6. HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA ĐỀ TÀI
Trong tương lai, nếu thông tin về tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty cổ
phần được công bố minh bạch, rõ ràng, đáng tin cậy và kịp thời thì có thể xây dựng hệ
thống phân ngành cho toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, dựa vào các dữ liệu đó có thể
xây dựng hệ thống các tỷ số tài chính bình quân cho từng ngành. Các tỷ số này được sử
dụng làm tham chiếu cho ngân hàng trong phân tích tín dụng, hoặc làm tham chiếu cho
các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán hay giúp các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc phân tích đánh giá ngành. Tuy nhiên, để làm được điều này không những
đòi hỏi rất nhiều công sức của các nhà nghiên cứu, các nhà phân tích tài chính chuyên
nghiệp mà còn cần có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
như: Bộ tài chính, Tổng cục thống kê, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Các sở giao dịch
chứng khoán.
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ PHÂN NGÀNH KINH TẾ
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN NGÀNH KINH TẾ
1.1.1 Khái niệm phân ngành kinh tế
Hoạt động kinh tế nói chung được xếp vào bốn khu vực của nền kinh tế bao gồm:
• Khu vực sản xuất sơ khai gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, khai
mỏ và khai khoáng.
• Khu vực công nghiệp và xây dựng.
• Khu vực dịch vụ bao gồm: giao thông, tài chính, ăn uống, du lịch, giải trí…
• Khu vực tri thức được tách ra từ một số ngành trong khu vực dịch vụ gồm:
giáo dục, nghiên cứu và phát triển, thông tin, tư vấn.
Ngành kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế chuyên tạo ra hàng hóa và dịch vụ.
Hệ thống ngành kinh tế là bảng phân loại các hoạt động kinh tế, nhằm sắp xếp các hoạt
động kinh tế giống nhau theo những tiêu chí nhất định vào cùng một ngành. Thông qua
hệ thống này có thể thấy được cơ cấu của nền kinh tế.
Phân ngành kinh tế là hoạt động sắp xếp, phân loại các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thành một hệ thống nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích và đánh giá hoạt
động của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
1.1.2 Sự cần thiết phải phân ngành kinh tế
Hoạt động phân ngành trong nền kinh tế đóng vai trò quan trọng đối với nhiều chủ
thể. Việc phân ngành giúp chính phủ xác định được các nguồn thu chủ yếu của quốc
gia từ những ngành nào để từ đó có chiến lược đầu tư trong tương lai. Đồng thời nó
cũng giúp chính phủ xác định lĩnh vực chi ngân sách bao gồm cả chi thường xuyên và
chi đầu tư cho những ngành trọng điểm.
2
Đối với các tổ chức tín dụng trước khi đưa ra quyết định cho vay cũng cần thực
hiện phân tích các ngành trong nền kinh tế, hiểu được chu kỳ kinh doanh, đặc điểm của
từng ngành từ đó đưa ra chính sách đầu tư hiệu quả. Để thực hiện được điều này trước
hết cần phải có một hệ thống phân ngành chuẩn với bộ số liệu đầy đủ về toàn bộ tình
hình kinh doanh, tình hình tài chính của từng ngành.
Đối với các nhà đầu tư chứng khoán, kể cả nhà đầu tư cá nhân hay nhà đầu tư có tổ
chức thì việc lựa chọn ngành để đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công hay thất
bại. Trong từng bối cảnh của nền kinh tế sẽ có những ngành tăng trưởng và hoạt động
kinh doanh tốt. Chẳng hạn, trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng không phải ngành
nào cũng kinh doanh thua lỗ như ngành bán lẻ thực phẩm, đồ gia dụng; hoặc trong giai
đoạn kinh tế tăng trưởng sẽ có những ngành phát triển với tốc độ nhanh hơn bình quân
của toàn thị trường như ngành thép, tài chính…
1.1.3. Nguyên tắc xây dựng hệ thống phân ngành kinh tế
Các nguyên tắc xây dựng hệ thống ngành kinh tế gồm:
• Hệ thống ngành kinh tế là bảng phân loại các hoạt động kinh tế;
• Cách thức tiếp cận các ngành thực hiện theo nguyên tắc từ trên xuống (cấp I
- cấp II - cấp III - cấp IV-cấp V);
• Các hoạt động kinh tế được xếp vào cùng ngành phải giống nhau ít nhất một
trong 3 tiêu chí: nguồn đầu vào, qui trình và đặc điểm đầu ra;
• Giá trị tăng thêm vẫn là tiêu chí chính sử dụng để xác định hoạt động chính
của một đơn vị thực hiện nhiều hoạt động
• Tính so sánh, có thể sử dụng để so sánh giữa hệ thống ngành của một quốc
gia và phân ngành của thế giới.
• Tính thích hợp, phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế từng quốc gia,
đặc biệt trong việc thu thập số liệu theo từng ngành trong hệ thống ngành
kinh tế.
3
1.1.4 Ý nghĩa của việc phân ngành trên thị trường chứng khoán
Hoạt động phân ngành các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán có ý nghĩa
quan trọng trong định hướng chiến lược đầu tư và thống nhất thông tin trên TTCK. Từ
việc sắp xếp, phân loại các công ty niêm yết vào từng ngành cụ thể, xây dựng số liệu
bình quân ngành thống nhất góp phần cung cấp thông tin đáng tin cậy cho các nhà đầu
tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân trên thị trường. Ngoài ra, các sở giao dịch chứng
khoán có thể áp dụng kết quả phân ngành để hiển thị mã cổ phiếu trong các phiên giao
dịch theo từng ngành giúp các nhà đầu tư dễ dàng theo dõi, so sánh diễn biến giá của
các cổ phiếu trong ngành, từ đó có thể so sánh và lựa chọn đầu tư vào cổ phiếu tốt nhất
trong ngành đó.
Việc so sánh chỉ số giữa các nhóm ngành khác nhau là một trong những tiền đề để lựa
chọn danh mục đầu tư theo ngành tùy theo mức độ mạo hiểm của mỗi nhà đầu tư và
diễn biến thị trường. Ngoài ra, không phải tất cả các ngành đều chịu tác động như nhau
từ các yếu tố vĩ mô, có ngành nghề chịu ảnh hưởng rất lớn nhưng có những ngành mức
độ ảnh hưởng từ các tác động vĩ mô không đáng kể. Vì vậy, cần có sự phân ngành để
hiểu hơn về doanh nghiệp và có cơ sở lựa chọn giúp nhà đầu tư ra quyết định tốt hơn,
tránh đánh đồng doanh nghiệp kinh doanh tốt với doanh nghiệp kinh doanh tồi, ngành
đang ở trong giai đoạn phát triển và ngành đang ở trong giai đoạn suy thoái.
Để thực hiện phân ngành các công ty niêm yết cần phải lựa chọn một tiêu chuẩn phân
ngành nhất định thỏa mãn các điều kiện dễ hiểu, cấu trúc rõ ràng đơn giản và áp dụng
phổ biến ở hầu hết các TTCK lớn trên thế giới.
1.2 MỘT SỐ TIÊU CHUẨN PHÂN NGÀNH TRÊN THẾ GIỚI
Hiện nay, việc phân ngành ở các quốc gia trên thế giới được thực hiện dựa trên một
số tiêu chuẩn phân ngành do các tổ chức có uy tín xây dựng. Tùy vào mục đích và yêu
cầu sử dụng của hệ thống ngành các tiêu chuẩn phân ngành phù hợp sẽ được sử dụng.
Chẳng hạn, đối với chính phủ khi phân ngành của nền kinh tế cần có một bộ tiêu chuẩn
ngành rất chi tiết, bao gồm tất cả các ngành. Đối với các nhà đầu tư chứng khoán trên
thị trường tài chính quốc tế khi phân tích ngành thường dựa trên bộ số liệu và chuẩn
phân ngành do các tổ chức có uy tín, chuyên hoạt động trong ngành kinh doanh chứng
khoán xây dựng.
4
Các tiêu chuẩn phân ngành phổ biến hiện nay gồm: tiêu chuẩn phân ngành ISIC
(International Standard Classification of All Economic Activities) do Liên Hợp Quốc
xây dựng; hệ thống NAICS (The North American Industry Classification System) của
Mỹ; tiêu chuẩn ICB (Industry Classification Benchmark) do FTSE Group và DowJones
xây dựng; GICS (Global Industry Classification Standard) do Morgan Stanley và
Standard & Poor's xây dựng.
1.2.1 Tiêu chuẩn phân ngành ISIC
ISIC (International Standard Industrial Classification of All Economic Activities) là
tiêu chuẩn phân ngành do Liên hợp quốc xây dựng từ năm 1948. Tính đến thời điểm
cuối năm 2009, ISIC được sửa đổi, bổ sung 4 lần và lần gần nhất là năm 2008. Mục
đích của việc xây dựng ISIC nhằm cung cấp một hệ thống phân loại các ngành sản xuất
phục vụ cho việc thu thập và báo cáo các số liệu thống kê về tình hình kinh tế của một
quốc gia. Đồng thời ISIC còn là công cụ quan trọng giúp so sánh số liệu thống kê về
tình hình kinh tế giữa các quốc gia khác nhau trên phạm vi toàn thế giới.
Nguyên tắc phân ngành của ISIC căn cứ vào các tiêu chí: nguyên vật liệu đầu vào,
đặc điểm sản phẩm đầu ra, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và cách sử dụng sản
phẩm đầu ra.
Cấu trúc phân ngành của ISIC gồm 21 khu vực được mã hóa bằng chữ cái từ A đến U.
Trong mỗi khu vực có ngành cấp 1 được đánh số từ 01 đến 99; ngành cấp 2 có hai chữ
số đầu thuộc ngành cấp 1, chữ số thứ ba từ 1 đến 9. Tương tự ngành cấp 4 có bốn chữ số,
trong đó 3 chữ số đầu thuộc ngành cấp 2, chữ số thứ tư từ 1 đến 9 (Phụ lục 1.1).
Tiêu chuẩn phân ngành ISIC hiện nay được hầu hết các quốc gia trên thế giới vận
dụng để xây dựng hệ thống phân ngành của riêng mình đáp ứng yêu cầu về quản lý
thu chi ngân sách nhà nước, đánh giá hoạt động các ngành kinh tế, quản lý hành
chính quốc gia…
Tiêu chuẩn phân ngành ISIC có số lượng ngành rất lớn và chi tiết. Đồng thời, ISIC
thực hiện phân ngành cả lĩnh vực chính thức và phi chính thức của nền kinh tế như hoạt
động của những người lao động tự do, buôn bán rong hoặc giúp việc trong các hộ gia đình.
5
Cách phân loại như vậy rất có ý nghĩa đối với hoạt động quản lý nhà nước nhằm xem xét
mức độ đóng góp của từng khu vực và có chính sách an sinh xã hội phù hợp.
Tuy nhiên, khi áp dụng tiêu chuẩn ISIC tại các quốc gia đang phát triển còn có một số
khó khăn. Thứ nhất là sự khó hiểu trong lời chú giải bởi vì có nhiều giải thích không đủ
cho tất cả chi tiết của các hoạt động. Thứ hai là khó khăn cho việc phân loại các hoạt động
mới xảy ra từ nền kinh tế như:toàn cầu hoá, quản lý kinh doanh, kỹ thuật và hợp đồng phụ,
v.v.. Ngoài ra định nghĩa phân loại các hoạt động còn chưa rõ ràng, có nhiều định nghĩa và
nguyên tắc phức tạp.
1.2.2 Tiêu chuẩn phân ngành NAICS
NAICS 2007 (The North American Industry Classification System) do Tổng cục thống
kê Mỹ xây dựng, được áp dụng tại các nước Bắc Mỹ và đuợc thiết kế phù hợp với Hệ
thống của Liên hợp quốc về Phân ngành chuẩn quốc tế (ISIC).
Đây là một cấu trúc có thứ bậc cho phép đánh mã code linh hoạt với hệ thống phân
6 cấp cùng việc đánh mã số tương ứng. NAICS 2007 thể hiện hầu hết các lĩnh vực,
các ngành từ lớn đến nhỏ, từ bao quát đến chi tiết trên thế giới (Phụ lục 1.2). Đồng
thời, đây là một hệ thống phân ngành mở, cho phép thêm tiếp những ngành phát
triển trong tương lai.
NAICS 2007 được sắp xếp theo thứ tự từ sản xuất nông nghiệp và khai khoáng, trên
quan điểm cho rằng các ngành nghề nông – lâm – ngư nghiệp truyền thống và khai
khoáng sẵn có, được sự hỗ trợ của ngành xây dựng, và tiện ích cộng đồng như điện,
khí, nước, … NAICS bước chuyển tiếp sang ngành sản xuất, chế biến để cho ra những
mặt hàng, sản phẩm tinh chế, có thêm giá trị gia tăng … Thương mại đóng vai trò phân
phối sản phẩm hàng hóa tới tay người tiêu dùng, giúp việc trao đổi hàng hóa được diễn
ra thuận tiện. Trong quá trình tái sản xuất, các ngành dịch vụ về vận tải, thông tin, ngân
hàng, tài chính, …phát huy tác dụng hỗ trợ. Có thể nói việc phân định ngành theo thứ
tự trước – sau như trên đóng vai trò như một “Chuỗi Giá Trị” từ khâu đầu đến khâu kết
thúc. Do đó, hệ thống này phù hợp với yêu cầu phân ngành ở cấp độ quản lý vĩ mô nền
kinh tế của nhà nước.
6
Tuy nhiên hệ thống phân ngành NAICS 2007 có đến 6 cấp phân ngành, với một hệ
thống mã ngành lớn và chi tiết nên khó áp dụng để phân ngành các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán. Đồng thời, với hệ thống phân ngành phức tạp của NAICS
2007 làm cho các nhà đầu tư không am hiểu nhiều về thống kê cũng rất khó theo dõi và
vận dụng trong quá trình đưa ra các quyết định đầu tư của mình.
1.2.3 Tiêu chuẩn phân ngành GICS
GICS (Global Industry Classification Standard) là hệ thống tiêu chuẩn phân ngành
được phát triển bởi Morgan Stanley Capital International (MSCI) và Standard and
Poor’s (S&P) vào năm 1999. GICS được đưa ra nhằm thiết lập một tiêu chuẩn chung
cho việc phân loại các công ty vào các ngành và nhóm ngành có liên quan với nhau.
GICS được xây dựng theo các tiêu chí: toàn cầu, chính xác, linh hoạt và phát triển. Cấu
trúc phân ngành của GICS bao gồm 10 nhóm ngành chính, 23 ngành cấp 1, 59 ngành
cấp 2 và 122 ngành cấp 3 (phụ lục 1.3)
10 nhóm ngành chính của GICS bao gồm:
•
Năng lượng (10) bao gồm các công ty thăm dò, khai thác, chế biến, vận tải ...
các sản phẩm dầu khí, than đá, nhiên liệu chất đốt.
•
Nguyên vật liệu (15) đây là một nhóm ngành rộng bao gồm các công ty hoá
chất, vật liệu xây dựng, kính, giấy, lâm sản; các công ty khai mỏ và luyện kim;
các công ty sản xuất các sản phẩm bao bì đóng gói (gồm cả bao bì giấy, kim
loại, thuỷ tinh).
•
Công nghiệp (20) gồm các công ty chế tạo các loại máy móc công nghiệp, thiết
bị điên; công nghiệp quốc phòng, xây dựng, giao thông vận tải cùng các dịch vụ
liên quan.
•
Hàng tiêu dùng không thiết yếu (25) gồm những nhóm hàng tiêu dùng nhạy cảm
với chu kì của nền kinh tế như: xe hơi, hàng gia dụng lâu bền (đồ điện tử gia
dụng), hàng may mặc và các thiết bị giải trí, giáo dục. Nhóm dịch vụ bao gồm
khách sạn, nhà hàng, trung tâm giải trí, truyền thông.
7
•
Hàng tiêu dùng thiết yếu (30) gồm các công ty sản xuất và phân phối lương
thực, thực phẩm, nước giải khát, thuốc lá và các sản phẩm gia dụng không lâu
bền, các vật dụng cá nhân; các siêu thị, trung tâm bán lẻ thực phẩm và thuốc.
•
Chăm sóc sức khoẻ (35) gồm các công ty cung cấp các dịch vụ, thiết bị chăm
sóc sức khoẻ và các công ty nghiên cứu, phát triển sản xuất dược phẩm và các
sản phẩm công nghệ sinh học.
•
Tài chính (40) gồm các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư tài chính
và bất động sản, các công ty cung cấp các dịch vụ tài chính khác.
•
Công nghệ thông tin (45) gồm các công ty nghiên cứu và sản xuất phần mềm
cùng các dịch vụ liên quan và các công ty sản xuất các thiết bị công nghệ phần
cứng, sản xuất chất bán dẫn và thiết bị bán dẫn.
•
Dịch vụ viễn thông (50) gồm các công ty cung cấp các dịch vụ viễn thông như:
dịch vụ viễn thông cố định, không dây, băng thông rộng...
Dịch vụ Điện nước (55) gồm các công ty sản xuất và phân phối điện năng, các
công ty quản lý hệ thống nước, gas sinh hoạt.
Hệ thống cơ sở dữ liệu của GICS gồm 37.000 công ty trên thế giới
•
Về cơ bản GICS giống với tiêu chuẩn phân ngành ICB do Dow Jones và FTSE xây
dựng. Tuy nhiên, hệ thống dữ liệu của GICS chưa bao quát, chủ yếu được sử dụng ở
một số thị trường chứng khoán châu Á và không được biết đến rộng rãi, phổ biến như
tiêu chuẩn ICB.
1.2.4 Tiêu chuẩn phân ngành ICB
ICB (Industry Classification Benchmark) được xây dựng bởi Dow Jones Indexes và
FTSE với hệ thống dữ liệu gồm hơn 60.000 công ty và 65.000 chứng khoán trên toàn
thế giới được lấy từ hệ thống dữ liệu của Dow Jones và FTSE, chiếm hơn 65% tổng
giá trị vốn hóa thị trường toàn thế giới.
Dow Jones Indexes là một bộ phận của Dow Jones & Company, một công ty con
của tập đoàn News Corporation. Dow Jones là nhà cung cấp thông tin và các dịch vụ
thông tin hàng đầu trên thế giới với các tạp chí được xuất bản như Wall Street Journal,
- Xem thêm -