Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng nhà nước pháp quyền cộng hòa dân chủ nhân dân lào của dân, do dân và vì...

Tài liệu Xây dựng nhà nước pháp quyền cộng hòa dân chủ nhân dân lào của dân, do dân và vì dân

.PDF
173
236
54

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VANHSENG KEOBOUNPHANH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2016 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VANHSENG KEOBOUNPHANH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 62 38 01 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. LÊ MINH TÂM HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả luận án Vanhseng KEO BOUN PHANH MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN 2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền và khái niệm nhà nước pháp quyền 2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 2.3. Tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN về xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân 2.4. Bản chất và những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân 2.5. Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân 2.6. Một số kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam có thể nghiên cứu, vận dụng vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN LÀO VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN 3.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào qua các thời kỳ 3.2. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 4.1. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân 4.2. Những giải pháp cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 6 6 21 29 31 31 44 55 62 77 83 94 94 104 125 125 132 151 156 157 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân KTTT : Kinh tế thị trường NDCM : Nhân dân cách mạng NNPQ : Nhà nước pháp quyền XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đảng nhân dân cách mạng (NDCM) Lào rất chú trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới, làm cho Nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đáp ứng các yêu cầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ). Xây dựng NNPQ là đòi hỏi cấp thiết khách quan, là nhiệm vụ chiến lược, chỉ có NNPQ mới có khả năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội một cách hiệu quả, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội đất nước, góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, kế thừa và tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của thế giới. Xây dựng NNPQ sẽ thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội, cải cách hành chính, tăng cường hiệu lực của hệ thống chính trị, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, tạo khuôn khổ pháp lý cho nền KTTT và đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện các thể chế của xã hội công dân. Sau Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ V (1991), Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào ra đời. Đây là một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của nước CHDCND Lào. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất, thể chế hóa đường lối do Đảng NDCM Lào đề ra trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Hiến pháp 1991 là cơ sở pháp lý căn bản để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng NNPQ và nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở CHDCND Lào. Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ VIII (2006) đã khẳng định nhiệm vụ của Nhà nước CHDCND Lào là tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng xây dựng NNPQ CHDCND Lào “Phát huy nhà nước dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào” [103, tr.59]. Vấn đề xây dựng NNPQ trong điều kiện ở CHDCND Lào hiện nay là hết sức mới mẻ, còn gặp nhiều khó khăn thử thách, là công việc lâu dài, phức tạp và hệ trọng, đòi hỏi nhiều giải pháp các yếu tố liên quan đến điều kiện chính trị, kinh tế - 2 xã hội, truyền thống lịch sự, văn hóa, tâm lý dân tộc, nhu cầu xã hội, quan hệ quốc tế. Việc xác định các giải pháp xây dựng NNPQ phải gắn được lý luận với thực tiễn, các giải pháp được nêu ra cần phải phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước của CHDCND Lào và xu hướng phát triển của khu vực và thế giới hiện nay. Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện NNPQ CHDCND Lào đã trở thành một trong những nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước Lào nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn để xây dựng cơ sở khoa học cho việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, giải pháp, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước Lào. Trong thời gian vừa qua, ở CHDCND Lào đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền, tuy nhiên qua nghiên cứu và tổng hợp các công trình nghiên cứu khoa học, tạp chí đã được công bố trong nước có thể khẳng định, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân ở cấp độ một luận án tiến sĩ luật học. Để góp phần vào việc giải quyết nhiệm vụ quan trọng này, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích những giá trị có tính phổ biến và những yếu tố hợp lý của NNPQ có thể vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào; xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. Nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận án gồm: - Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về NNPQ và thực tiễn xây dựng NNPQ ở một số nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam để xác định những giá trị có tính phổ biến, những yếu tố hợp lý và những kinh nghiệm có thể tiếp thu và vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. - Làm rõ một số tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN và của Đảng NDCM Lào về xây dựng NNPQ; phân tích đặc điểm, điều kiện và các 3 yếu tố đặc thù có tác động và ảnh hưởng đến quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở đó xác định bản chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. - Phân tích khái quát quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước CHDCND Lào và quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân, khẳng định những kết quả, thành tựu đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, khó khăn và những yêu cầu đặt ra trong quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là những vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền, những giá trị có tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền, kinh nghiệm và bài học về xây dựng Nhà nước pháp quyền của một số nước nhất là của Việt Nam có thể vận dụng cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; những tư tưởng của Hồ Chí Minh, của Kay-són PHÔM-VI-HÁN; các chủ trương, quan điểm của Đảng NDCM Lào, chính sách, pháp luật của Nhà nước CHDCND Lào về xây dựng NNPQ; các kết quả nghiên cứu khoa học, tổng kết, đánh giá thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào đã được công bố trong những năm gần đây. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ luật học thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau: Về cơ sở lý luận, luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu lý luận cơ bản về Nhà nước pháp quyền, nghiên cứu một cách khái quát lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm Nhà nước pháp quyền, chú trọng phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh và của Kay-són PHÔM-VI-HÁN về Nhà nước pháp quyền; tập trung phân tích và làm rõ bản chất, đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân; điều kiện, hoàn cảnh, các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. 4 Về thực tiễn, luận án nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước CHDCND Lào và quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân; nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tập trung phân tích những vấn đề còn tồn tại, bất cập để tìm ra những nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Kay-són PHÔM-VI-HÁN, quan điểm của Đảng NDCM Lào về Nhà nước và pháp luật nói chung và về NNPQ CHDCND Lào nói riêng. - Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm: Phương pháp logich - lịch sử được sử dụng cho việc nghiên cứu một số nội dung của Chương 1, 2 và 3; phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh được sử dụng cho quá trình nghiên cứu của tất cả các chương; phương pháp phân tích tài liệu, phân tích thực tiễn và xã hội học được sử dụng để nghiên cứu một số nội dung của Chương 1,2 và 3; phương pháp tiếp cận hệ thống, kết hợp lý luận và thực tiễn được sử dung trong Chương 2, 3 và 4. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả luận án cũng chú trọng sử dụng kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp của luật học với triết học và chính trị học. 5. Những đóng góp mới của luận án - Luận án nghiên cứu xác định những giá trị lý luận có tính phổ biến về NNPQ có thể tiếp thu và vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. - Luận án góp phần làm rõ quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng NDCM Lào và Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về xây dựng NNPQ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân - Phân tích, đánh giá một cách tương đối có hệ thống toàn diện thực trạng và những ưu điểm và hạn chế tồn tại trong việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. 5 - Luận án đề xuất một số quan điểm và các giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Với kết quả của luận án đạt được, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề liên quan đến việc xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào. 7. Kết luận của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 13 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về các vấn đề cụ thể trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Xây dựng NNPQ đang trở thành một xu thế khách quan tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Ở nhiều nước ở phương Tây và phương Đông đã có những công trình nghiên cứu về NNPQ được tiến hành trên nhiều góc độ khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu sau đây: - C.Mác, Ph.Ăngghen, Góp phần phê phán triết học pháp quyền [35, tr.2021]. Trong quá trình phê phán học thuyết của Hêghen, C.Mác cho rằng không phải nhà nước sinh ra xã hội, mà chính gia đình và xã hội dân sự là những tiền đề của nhà nước, chính chúng mới là yếu tố thực sự tích cực. Cho nên việc nghiên cứu nhà nước phải dựa vào phân tích xã hội công dân. Đó là kết quả của quá trình tiếp thu có phê phán của C.Mác với tư tưởng về Triết học pháp quyền của Hêghen, phủ nhận quan điểm có tính tiêu cực đối với công cuộc đấu tránh giải phóng con người và xã hội loài người. Hệ thống lý luận này đã từng đóng vai trò quan trọng, tạo động lực mạnh mẽ, trang bị nền tảng lý luận cho các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người trên toàn thế giới. - Albert Ven Diecy (1885), “Introduction to the study of the law of the Constitution” (Giới thiệu về các nghiên cứu về luật hiến pháp) [92, tr.16-17]. Dicey là người Vương quốc Anh đầu tiên sử dụng khái niệm pháp quyền (rule of law) một cách rộng rãi. Học thuyết của ông có ảnh hưởng hết sức sâu rộng trong giới thẩm phán và luật sư theo hệ thống luật án lệ (common law). Nội dung chính của học thuyết pháp quyền do Dicey khởi xướng nhấn mạnh một số khía cạnh sau: + Sự ngự trị tuyệt đối của pháp luật như là sự hạn chế ảnh hưởng của việc sử dụng quyền lực một cách tùy tiện. Yêu cầu đầu tiên và chủ yếu đối với chế độ pháp quyền là không có chuyên quyền và tùy tiện trong lĩnh vực Luật Hình sự và tự do cá nhân; 7 + Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai được đứng trên pháp luật, tất cả mọi người không phụ thuộc vào đẳng cấp và các điều kiện khác đều là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Yêu cầu này cũng đòi hỏi các viên chức chính phủ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với việc gây ra thiệt hại như bất kỳ cá nhân nào trong xã hội; + Các nguyên tắc trong hiến pháp không phải là nguồn gốc mà là kết quả của những quyền của cá nhân. - Dr. Prof. Richard H. Fallon (1997), “The rule of law” as a concept in Constitutional discourse (Các quy định của pháp quyền là một khái niệm trong ngôn ngữ Hiến pháp) [92, tr.31-32]. Ông cho rằng sự phát triển của học thuyết pháp quyền đã làm cho các yếu tố cơ bản của pháp quyền ngày càng được mở rộng, giúp cho học thuyết pháp quyền thích ứng và đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Dưới ánh sáng pháp quyền, pháp luật chỉ là pháp luật thực sự khi đáp ứng được chức năng cơ bản của nó là hướng dẫn hành vi con người. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các học thuyết pháp quyền hiện đại, ông khẳng định pháp quyền được công nhận khi có đủ các yếu tố như: Khả năng của các quy tắc pháp lý, chuẩn mực, nguyên tắc trong việc hướng dẫn người dân thực hiện công việc của họ. Mọi người phải có thể hiểu pháp luật và tuân thủ chúng; tính hiệu lực của pháp luật, pháp luật phải thực sự hướng dẫn dân chúng; tính ổn định, để giúp các cá nhân triển khai các kế hoạch và phối hợp hành động trong tương lai, pháp luật cần phải có sự ổn định hợp lý; tính tối cao của pháp luật, pháp luật cần phải chi phối mọi công chức, thẩm phán và người dân bình thường; những thiết chế để thực thi một nền công lý không thiên vị với những thủ tục xét xử công bằng. Để đạt được yêu cầu này, pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Pháp luật phải mang tính tổng quát; pháp luật phải được công bố công khai, không được giữ bí mật; pháp luật không được hồi tố; pháp luật phải rõ ràng; pháp luật phải hài hòa, không được mâu thuẫn; pháp luật không được đưa ra những điều khoản không thực hiện được; pháp luật phải mang tính ổn định; pháp luật phải được áp dụng một cách nhất quán. - Josel Thesing biên tập (2002), Nhà nước pháp quyền, gồm một số tiểu luận của các học giả nước ngoài [24]. Nghiên cứu của các tác giả tập trung giải quyết 8 nhiều vấn đề liên quan đến các giá trị của Nhà nước pháp quyền và chế độ pháp trị như: nhà nước tồn tại để đem lại lợi ích cho công dân của mình; chế độ pháp trị là một sự bảo vệ dân chủ và quyền con người, ở đó có sự ràng buộc của pháp luật và công lý với quyền lực nhà nước, sự kiểm soát quyền lực nhà nước bằng phân định quyền lực, đề cao dân chủ và quyền tài phán hiến pháp. Đặc biệt các nghiên cứu còn quan tâm làm rõ các điều kiện tiên quyết, cũng như các khó khăn thách thức đề thực thi chế độ pháp trị. Ngoài ra còn có nhiều bài viết về Nhà nước pháp quyền của tác giả nước ngoài ở phương Tây như: David Kairys (2003), Researching for Rule of Law, Suffolk University Law Review (Nghiên cứu Nhà nước pháp quyền, tạp chí ĐH Suffolk); John K.M Ohnesorge (2007), The Rule of Law, University of Wisconsin law school (viết về Nhà nước pháp quyền với đặc trưng cơ bản); Mathias Koeter: Rechtssaat and Rechsstaatlichkeit in Germany, Research Papers Series: Understandings of the Rule of Law in various Legal Orders of the World, 2010, ISSN 2192 - 6905 (Tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền trong các trật tự pháp lý khác nhau của thế giới)… Cũng như ở Việt Nam, trong những năm gần đây cũng có nhiều cuốn sách, luận án, luận văn và bài báo đăng trên tạp chí nghiên cứu về NNPQ, điển hình như: Về sách, luận án đã tham khảo nhiều sách chuyên khảo, tham khảo về NNPQ đã được công bố trong đó có một số sách tiêu biểu như: - Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn [63]. Mục tiêu và nhiệm vụ của cuốn sách này là xây dựng cơ sở lý luận về NNPQ XHCN, đưa ra những luận điểm khoa học có tính hệ thống về NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. Trên cơ sở nghiên cứu của đề tài, các tác giả đã đề cập đến học thuyết NNPQ, sự vận dụng và những đặc trưng của học thuyết NNPQ trong lịch sử phương Tây và phương Đông, đồng thời đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về NNPQ của dân, do dân, vì dân là cơ sở tư tưởng rất quan trọng định hướng quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam. NNPQ không phải là sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa mà có thể được xây dựng trong xã hội XHCN; NNPQ XHCN 9 khác với NNPQ tư sản ở mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ; sự khác nhau đó được quy định bởi cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chế độ XHCN. Với bản chất của nhà nước XHCN Việt Nam, tác giả khái quát và trình bày rõ khái niệm, đặc trưng cơ bản và chức năng của NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân, đồng thời nghiên cứu các yếu tố quy định, chi phối quá trình xây dựng NNPQ ở Việt Nam. Trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, các tác giả đã kiến nghị những vấn đề cụ thể về những phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Để xây dựng NNPQ XHCN, cần tiếp tục nghiên cứu những vấn đề mới về lý luận trong quá trình chuyển đổi của đất nước và của các yếu tố quốc tế. Tiến hành đổi mới tiếp tục hệ thống chính trị, tăng cường sự lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, cải cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức tốt việc thi hành pháp luật. Xây dựng cơ chế phản biện xã hội và giám sát xã hội, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho xã hội dân sự hoạt động bình thường và lành mạnh. - Đạo Trí Úc (2007): Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [84]. Tác giả đã tiếp cận dưới góc độ phân tích của khoa học pháp lý, trên cơ sở khái quát về mô hình thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới, nêu bật sự khác biệt và tính phổ quát về NNPQ. Trong đó phân tích chỉ rõ NNPQ là yêu cầu, giá trị cơ bản của chế độ dân chủ, tạo nên sự đồng thuận xã hội. Với bản chất nhà nước XHCN Việt Nam, tác giả khái quát và nêu rõ những đặc trưng của NNPQ dân chủ XHCN. Đồng thời, với việc nghiên cứu phân tích thực trạng tổ chức và phương thức hoạt động của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, từ đó đề xuất mô hình tổng thể hoạt động của các thiết chế trong NNPQ XHCN Việt Nam. Mặt khác, tác giả đề xuất mô hình tổng thể các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ XHCN, cụ thể trực tiếp đề xuất, xây dựng mô hình kiểm tra, giám sát bên ngoài bộ máy nhà nước bao gồm: Kiểm tra Đảng, giám sát của MTTQ, các đoàn thể nhân dân, thanh tra nhân dân, cá nhân, công dân đối với hoạt động bộ máy nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Tạ Xuân Đại (2004): Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, [10]. Tác giả 10 đã nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả đã đưa ra nhiều luận cứ khoa học về xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam không hề mâu thuẫn với sự lãnh đạo của một Đảng cầm quyền. Sự lãnh đạo của Đảng Công sản Việt Nam là điều kiện để xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng nhà nước và thực hiện quyền giám sát đối với mọi tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, kể cả tổ chức Đảng. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là xây dựng, bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đó cũng chính là bản chất và yêu cầu của việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong công trình nghiên cứu khoa học này, tác giả đã đề cập đến 6 vấn đề có tính tổng thể. Phần thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Phần thứ hai, đối mới tổ chức và hoạt động của quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần thứ tư, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần thứ năm, xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần thứ sáu, đề xuất, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt trong công trình nghiên cứu khoa học này, tác giả đã đưa ra cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, sau khi phân tích những thành tựu nổi bật tác giả cũng chỉ ra những bất cập, hạn chế của các cấp ủy trong thời gian qua, đồng thời, đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 11 - Trần Ngọc Đường, Ngô Đức Mạnh (2008): Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, [19]. Trên cơ sở phân tích các yêu cầu về chủ quyền tối cao của nhân dân, tính tối cao của pháp luật, các tác giả đưa ra mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ để nâng cao chất lượng hoạt động, tính đại diện nhân dân của Quốc hội, tính trách nhiệm cao của Chính phủ làm cơ sở cho một nhà nước phục vụ nhân dân. - Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [69]. Với công trình nghiên cứu này, tác giả đề cập tới lịch sử NNPQ, khai thác một cách triệt để, đầy đủ những giá trị tư tưởng của loài người đã được các nhà tư tưởng ở mọi thời đại viết về NNPQ; nêu ra một số quan điểm về NNPQ; khái quát lại những giá trị phổ biến của tư tưởng NNPQ trong sự phát triển của xã hội; làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời đã chỉ rõ thực tiễn tổ chức nhà nước theo hướng NNPQ hiện nay trên thế giới về phân quyền hoặc phân công và phối hợp quyền lực như ở Mỹ, ở Cộng hòa Liên bang Nga. Trên phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả đã trình bày một số quan điểm và nội dung cơ bản xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời tác giả đề cập đến một số nhiệm vụ cấp bách trước mắt: đổi mới, kiện toàn bộ máy đảng; đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội; đội ngũ CBCC được xây dựng trong sạch, có năng lực, gần dân và vì dân. - Lê Văn Quang, Văn Đức Thành (2006), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay [62]. Các tác giả làm rõ khái niệm định chế xã hội và các đặc trưng của NNPQ trong vai trò là một định chế xã hội đặc biệt. Vai trò của các định chế xã hội trong xây dựng NNPQ. Từ đó, phân tích vao trò của NNPQ với các định chế xã hội và các vấn đề rút ra từ thực tiễn các mối quan hệ. Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện NNPQ và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay. 12 - Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [85]. Trong cuốn sách này các tác giả đã nghiên cứu về đặc trưng của NNPQ Việt Nam, trên cơ sở phân tích, xác định, khẳng định giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực Nhà nước là tất yếu, bởi lẽ quyền lực Nhà nước do con người cụ thể thực thi, trong bản thân con người bao giờ cũng có chứng bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền có thể dẫn đến việc áp dụng sai pháp luật mặc dù pháp luật vốn là công bằng và hợp lý. Vì vậy, nhằm bảo đảm quyền lực Nhà nước vận hành đúng quỹ đạo bản chất Nhà nước XHCN Việt Nam, phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với việc thực thi quyền lực Nhà nước. Để thực hiện quyền giám sát ấy, phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới chức năng của NNPQ, xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền, hiện thực hóa dân chủ trên cơ sở mở rộng xã hội dân sự ở Việt Nam, cải cách tư pháp bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Công trình nghiên cứu với nhiều tác giả tham gia, do đó, mỗi tác giả nghiên cứu dưới một chuyên đề cụ thể, nên tính hệ thống chưa toàn diện. Nhưng công trình là cơ sở khoa học cho nghiên cứu sinh tham khảo, tiếp thu rất bổ ích. - Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Lý luận và thực tiễn [36]. Tác giả tập trung nghiên cứu phân tích làm rõ cơ sở lý luận, những đặc trưng cơ bản của NNPQ XHCN; trong đó, khái quát có hệ thống những quan điểm, tư tưởng về NNPQ trong lịch sử nhân loại, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật kiểu mới. Sau khi phân tích lập luận về nhà nước và pháp luật kiểu mới, tác giả đã đi sâu phân tích trên cơ sở khoa học và luận giải về bản chất giai cấp nhà nước kiểu mới là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đó là một nhà nước XHNC trong sạch; ngăn chặn loại trừ được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiên cực khác trong bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước kiểu mới, đồng thời nhà nước kiểu mới phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ 13 công chức nhà nước. Cuốc sách đã tập trung hệ thống về quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về NNPQ kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập và Nhà nước Việt Nam giành được chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong phần tiếp theo, tác giả đã đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế tồn tại trong thực tiễn xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam trong những năm qua. Trên cơ sở tổng kết đánh giá một cách khoa học toàn diện, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước Việt Nam. - Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [20]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đề cấp đến 3 vấn đề có tính tổng thể. Phần thứ nhất, cơ sở lý luận về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong các kiểu nhà nước. Trong phần này tác giả nêu ra quan điểm về quyền lực; phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử và phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản, sau đó, tác giả đã phân tích, lý giải tính tất yếu khách quan, bản chất và đặc điểm phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phần thứ hai, tác giả đã phân tích phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam qua các thời kỳ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong phần cuối, tác giả đã đưa ra và phân tích phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nươc trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài các sách tham khảo nêu trên, còn có nhiều tác giả viết về xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam như: cuốn sách, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, do Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa; cuốn sách, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, do Nguyễn Trọng Thó; sách chuyên khảo, Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo quan điểm Mácxít, do Trương Quốc Chính… 14 Về luận án, luận văn và các bài báo đăng trên tạp chí về Nhà nước pháp quyền: - Trần Thị Ánh Tuyết (2000), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội [81]. Tác giả đã trình bảy về quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng về Nhà nước pháp quyền và các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền; trong chương tiếp tác giả lý giải, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong phần cuối luận văn đã đề xuất những phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Đào Ngọc Tuấn (2002), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [80]. Nội dung luận án tác giả đã chủ yếu nghiên cứu lôgic của sự hình thành và phát triển khái niệm NNPQ, chỉ ra các tiêu chí phổ biến của NNPQ; Phân tích các điều kiện đặc thù của đất nước và ảnh hưởng của chúng đối với việc tiếp thu những giá trị phổ biến của NNPQ. Luận án nêu bật việc vận dụng nhuần nhuyễn giữa tính phổ biến và tính đặc thù, làm cho những giá trị phổ biến trở nên tương thích với trình độ phát triển của đất nước, cũng như đáp ứng được tôn chỉ, mục đích của Đảng là điều kiện tiên quyết trong quá trình xây dựng NNPQ Việt Nam. Ngoài ra tác giả đã nêu ra khi phân tích khái niệm NNPQ cần phải quán triệt tính lịch sử của nó, do đó việc khảo sát sự vận động của khái niệm này qua các nấc thang phát triển: quá khứ - hiện tại - tương lai là một nhu cầu tất yếu. Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi và khó khăn do các đặc thù đem lại, luận án đã đề xuất một số đề xuất có tính nguyên tắc đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu nhà nước của chúng ta theo hướng NNPQ, trong đó nguyên tắc Đảng lãnh đạo là nguyên tắc giữ vai trò quyết định trong quá trình xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay. - Nguyễn Thanh Bình (2004), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền từ sự hình thành xã hội công dân”, tạp chí Cộng sản (17) [1, tr.33-36]. Tác giả đã nêu ra về khái niệm xã hội công dân và mối quan hệ giữa xã hội công dân với nhà nước trong xây dựng NNPQ ở Việt Nam. 15 1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến Nhà nước pháp quyền Hiện nay, ở nhiều nước đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề xây dựng NNPQ tiêu biểu và đa dạng như sau: - Cuốn sách: Bàn về tinh thần pháp luật, của Montesquieu (2004), do dịch giả Hoàng Thanh Đạm dịch [49]. Theo tác giả, sau khi được ủy quyền, quyền lực nhà nước có xu hướng bị lạm dụng, tách rời chủ thể của nó. Vì vậy, quyền lực nhà nước cần phải được kiểm soát bằng cách dùng quyền lực để chế ước quyền lực theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Tức là quyền lực nhà nước phải được phân chia cho các cơ quan nhà nước theo chức năng của nó là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, các cơ quan nhà nước hoạt động trong cơ chế kiểm chế, đối trọng lẫn nhau, để không cơ quan nào nắm trọn quyền lực nhà nước và không cơ quan nào nằm ngoài sự kiểm soát từ cơ quan nhà nước khác. - Cuốn sách: Bàn về khế ước xã hội, của Jean - Jacques Rousseau (2006), do dịch giả Hoàng Thanh Đạm dịch [23]. Theo tác giả, quyền lực của cá nhân là bất khả nhượng, chỉ có thể ủy quyền hoặc bị thoán quyền. Nhà nước được thành lập trên cơ sở sự đồng thuận xã hội, mỗi cá nhân tự nguyện chuyển giao một phần quyền lực của mình cho nhà nước trên cơ sở khế ước xã hội, Như vậy, chủ quyền nhân dân là tối cao và là sự đóng góp chủ quyền từ mỗi cá nhân, quyền lực nhà nước là quyền lực ủy quyền. - Cuốn sách: Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội, của N.M. Voskresenskaia và N.B. Davletshina (2008) [50], do dịch giả Phạm Nguyễn Tường. Tác giả đã đề cập đến các vấn đề quan trọng của một xã hội dân chủ như: khái niệm dân chủ, xã hội và các giá trị dân chủ, quyền con người, bầu cử, Đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội khác. Ngoài ra, có thể kể đến Nancy L.Rosenblum, Robert C.post về: Civil Society and Government (Xã hội dân dự và nhà nước); Jonh Stuart Mill về: Bàn về tự do, dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch; David Chandler về: Civil Socialty in Asia (Xã hội dân sự ở Châu Á); Jiunn Rong and Wel Chen Chang, The Changing landscape of Modern Constitutionnalism: Transitionnal Perspective (Bổi cảnh thay đổi của Chủ nghĩa hợp hiến hiện đại: Quan điểm và sự thay đổi).
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất