Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Con người phản kháng trong sáng tác của albert camus nhìn từ tâm thức hiện sinh...

Tài liệu Con người phản kháng trong sáng tác của albert camus nhìn từ tâm thức hiện sinh

.PDF
117
245
72

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 VŨ THỊ THANH HUYỀN CON NGƢỜI PHẢN KHÁNG TRONG SÁNG TÁC CỦA ALBERT CAMUS NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN SINH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM HÀ NỘI, 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 VŨ THỊ THANH HUYỀN CON NGƢỜI PHẢN KHÁNG TRONG SÁNG TÁC CỦA ALBERT CAMUS NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN SINH Chuyên ngành: Lý luận Văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trƣơng Đăng Dung HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS. Trương Đăng Dung - người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo ở Viện Văn học, các thầy cô giáo trong Tổ Lý luận văn học - Khoa Ngữ Văn và Phòng Sau đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian tôi học tập tại đây để hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả Vũ Thị Thanh Huyền LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả Vũ Thị Thanh Huyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài. ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề. .............................................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................. 10 4. Đối tượng và phạm vi nghên cứu. ............................................................... 11 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 12 6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 12 NỘI DUNG Chƣơng 1 : KHÁI LƢỢC VỀ TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC HIỆN SINH ............................................................................................................... 13 1.1. Khái lƣợc về triết học hiện sinh. ........................................................... 13 1.1.1. Sự hình thành và phát triển của triết học hiện sinh .......................... 13 1.1.2. Những triết gia hiện sinh tiêu biểu ..................................................... 17 1.1.3. Những vấn đề chủ yếu trong triết học hiện sinh ................................ 26 1.2. Khái lƣợc về văn học hiện sinh ............................................................. 32 1.2.1. Sự hình thành và phát triển của văn học hiện sinh ........................... 32 1.2.2. Các tác gia văn học hiện sinh tiêu biểu ............................................. 37 1.2.3. Những luận đề tiêu biểu trong văn học hiện sinh .............................. 41 1.2.4. Albert Camus đại diện tiêu biểu của văn học hiện sinh..................... 47 Chƣơng 2: CON NGƢỜI PHẢN KHÁNG TRONG THẾ GIỚI PHI LÝ QUA SÁNG TÁC CỦA ALBERT CAMUS ......................................... 51 2.1. Thế giới phi lý trong sáng tác của A.Camus ........................................ 51 2.1.1. Vấn đề phi lý trong văn học ................................................................. 51 2.1.2. Phi lý như là vấn đề cốt lõi trong thế giới nghệ thuật của A.Camus .......................................................................................................... 61 2.2. Con ngƣời phản kháng trong thế giới phi lý ....................................... 67 2.2.1. Sơ lược về hình tượng con người phản kháng trong lịch sử văn học ...... 67 2.2.2. Con người phản kháng trong thế giới phi lý của Camus................... 71 2.2.2.1. Quay lưng như là hình thức của sự phản kháng. ............................... 72 2.2.2.2. Tha hóa như là hình thức của sự phản kháng.................................... 77 2.2.2.3. Dấn thân như là hình thức của sự phản kháng .................................. 82 Chƣơng 2: CÁC THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CON NGƢỜI PHẢN KHÁNG .............................................................................. 89 3.1. Nghệ thuật thể hiện hành vi nhân vật. ................................................. 89 3.2. Nghệ thuật kể chuyện........................................................................... 100 KẾT LUẬN .................................................................................................. 103 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Có thể thấy rằng, sự khủng hoảng trầm trọng của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ở cuối thế kỉ XIX và đặc biệt là sự tàn phá nặng nề từ hai cuộc đại chiến vào đầu thế kỉ XX đã đẩy con người tới sự khủng hoảng trong đời sống tinh thần. Tất cả những thay đổi đó đã kéo theo sự vận động của tư duy triết học. Nếu trước đó triết học tự nhiên “lên ngôi” thì giờ đây thứ triết học này không còn “chỗ đứng” trong cái thế giới đầy biến đổi đó. Trong cái thế giới ấy, triết học về con người đã ra đời. Khác với triết học tự nhiên triết học nhân sinh luôn đặt con người làm đối tượng nghiên cứu, tập trung vào bản thể luận, đi tìm câu trả lời con người là ai? Và đi tìm ý nghĩa đời sống của con người. Với những ưu thế đó, triết học nhân sinh đã đáp ứng được những nhu cầu nội tại của con người trong thời đại mới và nó hấp dẫn nhiều người còn đang “ngơ ngác” trong cái thế giới đầy “thương tích”. Tiêu biểu cho dòng triết học về con người phải kể đến trào lưu triết học hiện sinh - triết học về nỗi lo tồn tại của con người. Ở châu Âu, nhất là Pháp, trước đó “đã trải qua những năm sinh hoạt triết học trầm trầm và buồn tẻ”. Triết học hiện sinh xuất hiện giống như “một tiếng sấm vang động cả trời đất, lay động xã hội phương Tây” một cách mới mẻ chưa từng thấy. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời đã làm cho con người trở về với đúng ý nghĩa của nó, con người được đặt lên trên làm chủ thế giới tự nhiên. Cũng trong tiến trình chung của châu Âu, ở Pháp chủ nghĩa hiện sinh ngày càng ảnh hưởng sâu rộng và trở thành một thứ triết học cốt lõi ảnh hưởng đến nhiều đội ngũ những nhà hoạt động nghệ thuật văn chương. 1.2. Nói đến phong trào hiện sinh ở Pháp phải kể đến A. Camus, cùng với Jeau- Paul Sartre là hai người thầy tư tưởng lớn đi tiên phong trong phong trào triết học hiện sinh. Ở A. Camus, con người triết gia hòa vào con người 2 nhà văn, ông sáng tác bằng tất cả tâm huyết và hơn hết bằng cả những kinh nghiệm sống thật của bản thân mình. Tư tưởng hiện sinh thấm nhuần trong “những đứa con tinh thần”. Qua những tác phẩm ấy, tác giả đặt ra nhiều vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Nó là tiếng nói khắc khoải của nhà văn về một thế giới đầy phi lí, về thân phận con người cô đơn hay hơn hết đó là những con người luôn mang trong mình tư tưởng phản kháng. Những vấn đề này được ông gửi gắm vào những hình tượng nhân vật nghệ thuật. Qua đó thôi thúc bạn đọc phát hiện, tìm tòi, suy ngẫm bản chất thực sự của thế giới con người. Tư tưởng phản kháng là sắc thái đáng chú ý trong triết học hiện sinh của A. Camus. Yếu tố phản kháng có nhiều ý nghĩ và không hề đơn giản. Phản kháng mở đầu bằng sự chấp nhận hiện sinh như nó tồn tại, tức là chấp nhận sự phi lí hay sau đó nó thách thức cuộc sống phi lý. Quan niệm về con người phản kháng thấm nhuần trong sáng tác của A.Camus, nó giúp nhà văn tìm ra hành động để chống lại cái thế giới phi lý. Con người phản kháng là một trong những nội dung quan trọng trong triết học hiện sinh vì thế nó cũng là vấn đề mà các triết gia quan tâm nhưng có lẽ với Camus, ông là người thể hiện vấn đề này trong sáng tác một cách sâu sắc nhất. Sáng tác của A.Camus để lại không nhiều nhưng sức sống và sự ảnh hưởng của chúng còn rất mạnh mẽ. Khi nào con người vẫn đối diện với thế giới phi lý và còn băn khoăn về thân phận của mình, thì đọc A.Camus người ta vẫn cảm nhận được thái độ của nhà văn trước thân phận con người. Với việc lựa chọn đề tài “Con người phản kháng trong sáng tác của Albert Camus nhìn từ tâm thức hiện sinh”, chúng tôi muốn góp phần làm rõ thêm quan niệm về con người phản kháng được soi chiếu từ tâm thức hiện sinh trong những sáng tác của A.Camus. Qua đó chúng ta thấy được thân phận thực sự của con người, của thế giới đầy phi lý mà nhà văn cảm nhận 3 đồng thời khẳng định tài năng độc đáo của Albert Camus trong dòng văn học hiện sinh. 2. Lịch sử vấn đề Là một trong những nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh, ngay khi tác phẩm đầu tiên của A. Camus được công bố đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu. Vì vậy, các bài nghiên cứu về ông rất phong phú và đa dạng nhưng chúng tôi chỉ điểm qua những công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung trên mà chúng tôi có dịp tham khảo. 2.1. Nghiên cứu A.Camus trên thế giới Ngay khi bước chân lên văn đàn, A.Camus đã được đánh giá cao bởi những vấn đề mà ông đã đưa ra trong tác phẩm. Jean. Paul Sartre, nhà văn, nhà triết gia hiện sinh tiêu biểu ngay khi tiểu thuyết Kẻ xa lạ và Thần thoại Sisyphe được công bố (6/1942), ông đã cắt nghĩa “Kẻ xa lạ”, đăng trên tạp chí Cahier. Thông qua bài viết này, “Kẻ xa lạ” đã được dư luận đánh giá là cuốn tiểu thuyết viết hay nhất từ thời đình chiến. Ông cũng nêu ra những nhận định sâu sắc về A.Camus. Theo ông “phi lý trong sáng tác của A.Camus vừa là một tình trạng sự vật,vừa là ý thức sáng suốt của một số người trong tình trạng đó”, nhưng“ nó không phải là đối tượng của một khái niệm đơn giản: nó được chiếu sáng bởi một sự bừng tỉnh đầy luyến tiếc”[13, tr.90]. Theo Sartre “Kẻ xa lạ” là một tác phẩm cổ điển, một tác phẩm viết cho sự phi lý và chống lại sự phi lý “Khi đọc cuốn sách người ta không có cảm giác cùng hiện hữu với cuốn tiểu thuyết mà như chìm trong một điệu hát buồn tẻ, một khúc hát bằng giọng mũi của người Ả Rập. Người ta có thể tin rằng cuốn sách giống như một trong những điệu nhạc mà Couteline nói đến, nó đi mất và không bao giờ trở lại và nó dừng lại bất thình lình mà người ta không hiểu tại sao.”[13,tr.206]. Đó là những lời nhận xét hết sức sâu sắc dành cho A. Camus bởi những gì ông viết ra đó là cả một quá trình chiêm nghiệm đầy tâm huyết 4 về con người trước cái thế giới phi lý và đầy xa lạ. Khác với Kafka, một con người luôn khắc khoải lo âu, tìm kiếm lý giải thế giới đầy phi lý. Nhưng A.Camus “ông hoàn toàn bình thản giữa những hỗn độn, sự mù quáng bướng bỉnh của một tự nhiên là chỗ dựa cho nó, đảm bảo cho nó, sự bất hợp lý của nó, cho là một nghịch âm, người phi lý là người yêu một cái gì mang giá trị nhân bản, anh ta chỉ biết những điều tốt đẹp của thế giới này” [13, tr.198]. Thế giới phi lý là một trong những vấn đề cốt lõi xuyên suốt toàn bộ sáng tác của A.Camus. Tư tưởng này bắt gặp sự đồng cảm của rất nhiều người, đặc biệt là giới tri thức sau đế chiến hai, khi con người vẫn còn bàng hoàng, hoảng sợ, chưa thể thoát khỏi nỗi ám ảnh kinh hoàng do chiến tranh gây ra tất cả nó như một cơn “đại hồng thủy” kéo đến tiêu diệt con người. Chính vì thế ở Nhật Bản, đất nước phải gánh chịu thảm họa khủng khiếp của chiến tranh, người ta đã dành cho A. Camus “một mối tình cảm tròn trịa họ hướng về A.Camus như hướng vể một làn ánh sáng đẹp nhất của trời tây”[4, tr.204]. Cũng nói về cái phi lý trong sáng tác của A.Camus, nhà phê bình người Pháp Alain Robbe- Grillet, đã cho rằng: “sự phi lý là vực thẳm không vượt qua được sự tồn tại giữa con người và thế giới, giữa các khát vọng tinh thần của con người và sự bất lực của thế giới trong việc thỏa mãn chúng. Cái phi lý không ở trong con người, cũng như trong các sự vật mà ở trong việc không có khả năng thiết lập giữa chúng một mối quan hệ nào khác ngoài cái xa lạ”[1, tr.94-95]. Ông nhận thấy rằng cái phi lý “luôn kéo theo thất vọng, sự rút lui, sự nổi loạn” và chính nó là “hình thức của chủ nghĩa nhân văn mang tính bi kịch” [1,tr.95-96]. Trong tinh thần đó, một số nhà phê bình phương Tây đã đề cập đến chủ nghĩa nhân văn của A.Camus và họ cho rằng chủ nghĩa nhân văn của A.Camus đó là chủ nghĩa nhân văn kiểu Địa Trung Hải điều đó có nghĩa là “nó muốn vượt qua mâu thuẫn giữa trí tuệ và tự nhiên một cách nhịp nhàng”. 5 Theo họ, A.Camus có “một thái độ vừa khước từ vừa chấp nhận, một nghệ thuật vừa khẳng định vủa phủ định”[10, tr.119]. Tuy sự nghiệp văn học của A. Camus không đồ sộ, gia tài của ông để lại có thể không quá nhiều nhưng những tác phẩm đó đã được đánh giá rất cao và được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Riêng về cuốn “Kẻ xa lạ”- cuốn tiểu thuyết chỉ hơn một trăm trang nhưng số trang viết về nó là con số hàng chục nghìn. Không chỉ tiểu thuyết mà tiểu luận của ông cũng tốn biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu. Chính vì những gì ông để lại lớn lao như vậy cho nên năm 1957 ông được tặng giải thưởng Nobel văn học. Xứng đáng là một trong những cây đại thụ của nền văn học hiện sinh chủ nghĩa. 2.2. Nghiên cứu Albert Camus ở Việt Nam Với tư cách là một trong những nhà văn tiêu biểu mang đậm dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh, A. Camus được nghiên cứu ở nước ta từ những năm 60 của thế kỉ XX trên cả hai miền. Tuy nhiên do bối cảnh lịch sử, yêu cầu chính trị của hai miền khác nhau cho nên sự ảnh hưởng của ông nói riêng và chủ nghĩa hiện sinh nói chung có sự đánh giá khác nhau giữa hai miền Nam Bắc. Chủ nghĩa hiện sinh được nghiên cứu đầu tiên ở miền Nam, vào những năm đầu thập niên 60 ngay sau cuộc đảo chính. Ngay sau khi bước chân sang một “quê hương mới” nó đã thu hút một bộ phận tri thức ở đây. Để đáp ứng niềm say mê của bạn đọc đối với chủ nghĩa hiện sinh những tờ tạp chí như: Bách khoa, Sáng tạo, Văn... đã cho đăng khá nhiều bài viết, tác phẩm dịch về triết học và văn học cùng với những tác giả của nó như Jeau- Paul Sartre, Franz Kafka, Ablert Camus,... bên cạnh đó, các tác giả xuất sắc nghiên cứu về trào lưu chủ nghĩa hiện sinh cũng xuất hiện cùng với những bài viết, đánh giá, phê bình như: Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lý Chách Trung, Trần Thiên Đạo, Hoàng Trinh, Nguyễn Trọng Văn, Huỳnh Phan Anh, Bùi Ngọc Duy, Huỳnh Như Phương, ... 6 Sự du nhập của chủ nghĩa hiện sinh vào nước ta đã ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của phần lớn tầng lớp tri thức. Từ sự gặp gỡ này, một bộ phận thanh niên trí thức đã lựa chọn cho mình con đường tham gia vào phong trào bảo vệ dân tộc. Phong trào yêu nước của học sinh, sinh viên, tri thức trong các đô thị miền Nam được sự cổ vũ rất lớn bởi tư tưởng dấn thân và hành động của Startre và tư tưởng phản kháng, nổi loạn trong sáng tác của A.Camus. Chủ nghĩa hiện sinh đến với nước ta là một “cơ duyên” của lịch sử. Nó đã đến trong bối cảnh đất nước hay cụ thể là ở miền Nam đang trong giai đoạn bi đát nhất của lịch sử, khi con người đang khao khát tự do và quyền sống, luôn suy tư về thân phận làm người. Năm 1960, nhà phê bình Thạch Chương đã trình bày và phê bình hai quan niệm nổi loạn của A. Camus, ông công nhận sự nổi loạn về bằng lòng sống không cần thượng đế dẫn dắt nhưng tố cáo thái độ ôn hòa của A. Camus. Theo ông, “cái thái độ ôn hòa của A. Camus thực sự rất mơ hồ và đôi khi không thể thực hiện được. Mơ hồ bởi nó không xác định đâu là giới hạn: thế nào là ôn hòa? Là tuyệt đối không xát nhân, hay chỉ giết có chừng mực. Nên tuyệt đối không giết thì làm thế nào để bảo vệ được con người vô tội khi hắn cũng sắp bị giết? Nếu không thì độ bao nhiêu nhân mạng là có chừng mực?”[3]. Trong cuốn sách “Phương Tây văn học và con người”, tác giả Hoàng Trinh cũng đã đưa ra nhận xét về cuốn “Con người nổi loạn” của A.Camus như sau: “Trong Con người nổi loạn, người đọc quả thật là được dẫn vào một thế giới đầy xung khí của sự “ nổi loạn”. Lịch sử của con người, theo Camus là lịch sử của một sự nổi loạn thường xuyên, từ đời này qua kiếp khác, cho đến mãi mãi sau này. Căn nguyên và cơ sở của sự nổi loạn đó là: bản chất con người, bản chất “ sinh tồn” là nổi loạn và con người nổi loạn là vì nó tìm mãi không đâu ra chân lý. Vậy lẽ sống của con người là nổi loạn: “Ta nổi loạn thế là chúng ta tồn tại” [55]. 7 Thi sĩ Bùi Giáng người đã dịch nhiều tác phẩm của A. Camus cũng ghi nhận một vài lời về nhà văn. Ông cho rằng: văn Camus chứa chất nhiều dư vang u uẩn. Mỗi lời, mỗi câu là một tiếng kêu của thế kỉ bị tử thương. Như vậy, trong quá trình du nhập, chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một trào lưu ảnh hưởng sâu rộng đến tầng lớp tri thức ở miền Nam. Nó đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, thôi thúc họ hành động tìm về đúng nghĩa với con người. Còn ở miền Bắc do hoàn cảnh lịch sử, sự nghiên cứu về Albert Camus chia thành hai giai đoạn trước 1986 và sau 1986. Trước năm 1986 sự tiếp xúc với những tác giả tác phẩm theo chủ nghĩa hiện sinh rất hạn chế. Albert Camus và những nhà chủ nghĩa hiện sinh, chủ yếu được giới thiệu trong các chuyên luận dùng trong các trường học, dưới góc nhìn cực đoan. Đưa ra để phê phán chứ chưa được nhìn một cách toàn diện giống như ở miền Nam. Điều này được thể hiện rõ nhất trong công trình “Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (1978)” của tác giả Đỗ Đức Hiểu. Nhưng nếu xem xét một cách toàn diện thì chúng ta có thể thấy rằng, những nhận định của các công trình trên nếu bỏ đi phần phê phán phía sau thì nó sẽ trở thành những tư liệu tham khảo, những gợi ý giá trị cho những nhà nghiên cứu muốn tiếp tục đào sâu vấn đề này. Bởi vì trước khi “phê phán” người viết phải nêu ra những đặc điểm, nội dung chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh. Như vậy dù phê phán nhưng những công trình đó có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam. Trong công trình nghiên cứu, Đỗ Đức Hiểu thừa nhận vài trò người tiền bối của F.Kafka với văn học hiện sinh, bởi vì “ mối quan hệ giữa tiểu thuyết của Kafka và tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh là không thể chối cãi”[10]. Với A. Camus, Đỗ Đức Hiểu cũng nêu ra những đóng góp nổi bật của A.Camus trong nền văn học hiện sinh, ông cho rằng vấn đề phi lý, vấn đề phản kháng 8 (nổi loạn) đây là hai nội dung đáng chú ý nhất trong chủ nghĩa hiện sinh của A.Camus “nó đứng ở bên kia của chủ nghĩa phát xít, nó không đồng tình với bất công tội ác, với chiến tranh phi nghĩa, với khủng bố dã man”[10]. “A. Camus phản kháng bạo lực phi nghĩa mà ông gọi là lich sử phi lý tính, song đồng thời ông cũng cự tuyệt bạo lực chính nghĩa mà ông gọi là lịch sử lý tính, và ông đánh giá ngang bằng hai thứ bạo lực ấy, sai lầm nghiêm trọng của A. Camus là ở chỗ đấy. Ông tìm đến con đường ôn hòa nhiều khi có nghĩa là thỏa hiệp với kẻ thù của loài người”[13, tr.119-120]. Từ sau 1986 đến nay do sự đổi mới tư duy trong văn học đã đem đến một tinh thần mới trong nhận thức và tầm đón đợi mới của bạn đọc. Tất cả những hiện tượng trước đó được coi là không phù hợp với bấy giờ đã được nhìn nhận lại một cách chính xác. Tất cả những hiện tượng và trào lưu văn học du nhập vào nước ta đã có cái nhìn mới mẻ và toàn diện hơn. Chính vì vậy sự tiếp cận, đánh giá vai trò của Camus cũng như trào lưu chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp được đánh giá lại và trả đúng ý nghĩa, giá trị của nó. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhạy cảm đưa ra những vấn đề đã bị che khuất từ trước đó, trên cơ sở đó đánh giá lại những đóng góp to lớn của A.Camus và chủ nghĩa hiện sinh cho nền văn học thế giới. Một loạt những nhà nghiên cứu, phê bình như : Đặng Anh Đào, Trương Đăng Dung, Nguyễn Văn Dân, Phùng Văn Tấn, ... đã có những bài chuyên luận sâu sắc và đa chiều có ý nghĩa như sự “phát hiện lại” những giá trị nghệ thuật từng bị khuất lấp. Nhìn chung so với Kafka tình hình nghiên cứu về A. Camus ở Việt Nam có phần hạn hẹp hơn, song trong vai trò của một nhà văn hiện sinh tiêu biểu ông cũng được quan tâm. Các nhà nghiên cứu chú ý đến việc lựa chọn hình thức thể hiện trong những sáng của ông. Vì tự bản thân sự lựa chọn ấy đã tạo nên “hiệu ứng” nghệ thuật, tự nó nói lên thông điệp của các nhà văn. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào nhận định rằng “cách tân và truyền thống không 9 loại trừ nhau trong một tác phẩm. A. Camus được xem như người kế thừa văn chương giáo huấn của một số tác giả Pháp truyền thống vừa là một trong nhưng người in dấu của nền văn nghệ tiên phong Pháp thế kỉ XX”[7]. Gần đây tác giả Nguyễn Văn Dân đã tập hợp những bài chuyên luận của mình về văn học phi lý để xuất bản thành bản khảo luận có tên là Văn học phi lý. Trong khảo luận, tác giả quan tâm những đóng góp về mặt tư tưởng nội dung của Kafka và Camus trong tương quan so sánh hai tác giả này về vấn đề phi lý. Và xem những tư tưởng này của hai nhà văn tiểu biểu cho dòng văn học phi lý và là bước đệm tiêu biểu cho sự phát triển của dòng văn học này. Trong công trình “Văn học phương tây”, tác giả Hoàng Nhân đã bàn về A.Camus, ông cho rằng “A. Camus đã thể hiện nỗi lo âu, sự sợ hãi của thân phận con người trước bao nhiêu biến động và tai ương trong nửa đầu thế kỉ XX ở phương Tây. Ông không bàn đến vấn đề siêu hình phức tạp như thực tế và hư vô, tồn tại và bản thể,… mà chỉ nói về ý nghĩa của hiện sinh và thân phận của con người”[11, tr.737]. Mặc dù các nhà nghiên cứu có những ý kiến tranh luận khác nhau chưa đi đến thống nhất, nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều đưa ra cách hiểu về hiện tượng “người phi lý”trên tinh thần mới mẻ nhất. Qua đó thấy được quan niệm nghệ thuật về con người của A.Camus. Như vậy, qua việc nghiên cứu tập hợp nhưng ý kiến bàn về chủ nghĩa hiện sinh và vấn đề con người phản kháng trong sáng tác của A. Camus chúng tôi thấy rằng: - Hầu hết các tác giả, các nhà nghiên cứu đã phát hiện và khẳng định, những phạm trù trung tâm trong tư tưởng hiện sinh của A. Camus là vấn đề phi lý và vấn đề phản kháng. Hai tư tưởng này được xét từ phương diện đạo đức quy về tích cực hay tiêu cực để giải thích cho những tư tưởng triết học. - Nhiều nhà phê bình, lý luận nghiên cứu xem A. Camus là một triết gia hiện sinh và tác phẩm của ông được xem như con thuyền chở tư tưởng triết học. 10 - Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã có những bài đánh giá và phân tích sâu sắc về những đóng góp trong tư tưởng hiện sinh của A. Camus, những vấn đề thân phận con người và nhất là con người trong đương đại ngày hôm nay. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, trên thế giới cũng như ở Việt Nam có rất nhiều công trình nghiên cứu, những bài đánh giá về Albert Camus nhưng cho đến nay chưa có công trình hay đề tài nào đi sâu vào vấn đề con người phản kháng trong sáng tác của Camus. Vì vậy chúng tôi lựa chọn đề tài này, người viết mong muốn góp phần nhỏ vào “cuộc hành trình tìm kiếm” một người nghệ sĩ tài ba và những đóng góp to lớn của người nghệ sĩ đó cho nền văn học hiện sinh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích, làm sáng tỏ những biểu hiện con người phản kháng trong quan niệm nghệ thuật của Camus nhìn từ lý thuyết hiện sinh, qua đó thấy được những quan niệm mới mẻ, sâu sắc của Camus về con người trước thân phận của chính mình. Con người phản kháng trước thế giới phi lý như thế nào, nó làm gì để khẳng định chính mình, để trở về với đúng ý nghĩa làm người của mình. Song song với việc khai thác làm rõ chúng tôi cũng đặt ra mục đích tìm hiểu vai trò của nghệ thuật trong việc thể hiện con người phản kháng nhìn từ tâm thức hiện sinh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt được mục đích đã nêu ở trên, chúng tôi đã đề ra cho luận văn những nhiệm vụ chính. - Đi sâu vào sáng tác của A. Camus qua sự phân tích, so sánh, khái quát để qua đó thấy được những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh và những đóng góp của Camus trong lịch sử văn học thế giới. 11 - Tìm hiểu sơ lược về triết học và văn hoc hiện sinh. - Tìm hiểu những biểu hiện cụ thể của con người phản kháng nhìn từ tâm thức hiện sinh. Tìm hiểu những thủ pháp nghệ thuật biểu hiện con người phản kháng - nhìn từ tâm thức hiện sinh. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu con người phản kháng và vai trò của nghệ thuật trong việc biểu hiện con người phản kháng trong những sáng tác của A. Camus nhìn từ tâm thức hiện sinh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Mặc dù sáng tác của Camus rất phong phú và đa dạng ở nhiều thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến kịch hay tiểu luận nhưng do giới hạn của nội dung luận văn cho nên chúng tôi chỉ nghiên cứu ở một vài tác phẩm tiêu biểu đáp ứng yêu cầu đề tài của luận văn. Dịch hạch (Tiểu thuyết, Nguyễn Trọng Địch dịch), NXB Văn Học, H; 2002. - Kẻ xa lạ (Tiểu thuyết, Nguyễn Văn Dân dịch), in trong Văn học phi lý; NXB Văn hóa thông tin, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H, 2002. - Thần thoại Sisyphe (Tiểu luận, Trương Thị Hoàng Yến – Phong Sa dịch), NXB Trẻ, 2014 - Caligula (Kịch, Lê Khắc Thành dịch), NXB Sân khấu, H, 2006. - Ngộ nhận (Kịch, Bùi Giáng dịch), NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2006. - Người nổi loạn (Tiểu luận, Bùi Giáng dịch), in trong Sương tì ải, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2007. - Sa đọa (Tiểu thuyết,Trần Thiên Đạo dịch), 1995, NXB Văn học, H. 12 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp loại hình. - Phương pháp phân tích - tổng hợp. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp hệ thống. 6. Đóng góp của luận văn Tìm hiểu con người phản kháng trong các sáng tác của A.Camus, luận văn muốn cố gắng khám phá những đóng góp của A.Camus về thân phận con người cho nền văn học hiện đại nói chung và cho dòng văn học hiện sinh nói riêng. Qua đó khẳng định những yếu tố độc đáo trong sáng tác của Albert Camus so với các nhà văn cùng thời, đồng thời đề tài cũng có thể góp một phần nhỏ vào kho tư liệu tham khảo vốn rất phong phú về sáng tác của nhà văn A. Camus trên thì đàn văn học thế giới. 13 Chƣơng 1 KHÁI LƢỢC VỀ TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC HIỆN SINH Thế kỉ XX đã chứng kiến những cuộc phiêu lưu vĩ đại của nhân loài “đã từng quay cuồng qua bao điên đảo vọng tưởng và cũng từng nhìn nhận ra những sự thật thâm nghiêm”. Lịch sử đã ghi nhận những cuộc trở mình vĩ đại cả về khoa học lẫn văn hóa. Điều đáng ghi nhận trong thế kỉ này phải kể đến sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh là một sự khám phá mới về triết học của thế kỉ XX. Nó đã tạo nên cả một phong trào rộng lớn và sôi nổi trong giới văn học. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, từ cổ tới kim người ta thấy “triết học đã xuống đường”. Ngay sau khi ra đời, triết học hiện sinh đã lan tỏa từ văn học cho đến đời sống của con người đặc biệt là giới trẻ. Nó như một “liều thuốc” cảnh tỉnh, đánh thức con người sau những năm dài quên lãng. 1.1. Khái lƣợc về triết học hiện sinh 1.1.1. Sự hình thành và phát triển của triết học hiện sinh Chủ nghĩa hiện sinh với tư cách là trào lưu văn hóa triết học xuất hiện đầu tiên ở Đức sau thế chiến I và ngay sau đó, nó trở thành một làn sóng mới nổi lên ở Pháp sau thế chiến II. Triết học hiện sinh ra đời trong lúc cả Châu Âu đang trong giai đoạn “nước sôi lửa bỏng”, con người đang loay hoay không lối thoát, tâm trạng lo âu bi quan, nổi loạn bao trùm lên toàn xã hội. Theo Jacques Colette, thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” được dùng đầu tiên trong một cuốn sách ở Italy vào những năm 30 của thế kỉ XX. Nhưng nó chỉ thực sự trở thành phổ biến từ năm 1944 trong một cuộc luận chiến ở Pháp. Khi mới ra đời, triết học hiện sinh còn khiến nhiều người hoài nghi, bởi họ chưa phân biệt được ranh giới giữa triết học hiện sinh, văn học hiện sinh với lối sống hiện sinh. Chính những quan điểm sai lầm như vậy đã khiến nhiều 14 người có ác cảm với nó, coi nó là triết lý của những kẻ chỉ muốn sống cho riêng mình, theo bản năng của chính bản thân mình. Vậy tại sao thứ triết học này lại được gọi là triết học hiện sinh? Để trả lời câu hỏi đó chúng ta hãy trở về quá khứ, lục lại lịch sử về triết học từ xa xưa đến nay. Trong suốt chiều dài lịch sử của triết học nhân loài, chúng ta đã trải qua những thời kì khác nhau của triết học. Từ triết học cổ truyền điển hình là Platon, Aristote đến Kant hay đến Hegel. Đối với họ, triết học chỉ là triết học phóng thể, thay vì giúp con người nghĩ về bản thân và định mệnh của mình, triết học khuyến khích con người quên mình để mãi tìm hiểu lẽ huyền vi của tạo hóa. Mục đích của thứ triết học này là tìm ra căn nguyên của vũ trụ. Con người bị coi là một trong số hàng vạn vật. Trong tương quan với thế giới tự nhiên, con người vô cùng nhỏ bé, bị vũ trụ lấn át, con người bị lãng quên. Nhưng đến với triết học hiện sinh con người đã trở về với chính mình, là chủ thể của thế giới. Triết học hiện sinh xuất hiện giống như một tiếng súng phản ứng của con người chống lại sự thái quá của triết học cổ truyền. Nó đả kích triết học cổ truyền đã lãng quên cuộc sống của con người để chú tâm triết lý về thiên nhiên, vũ trụ. Triết học hiện sinh đã giúp con người tìm lại chính bản thân mình. Nó không lấy cuộc sống nói chung mà lấy cuộc sống của chính con người làm vấn đề đầu tiên. Nó trả lời câu hỏi của bản thân con người, ý nghĩa của cuộc sống, cái chết. Triết học hiện sinh vừa là sự kế tục vừa là sự phủ định những thành tựu trước đó. Có thể thấy rằng, ngay từ thời cổ đại tư duy hiện sinh đã có những biểu hiện ban đầu, tiêu biểu phải kể đến là Socrate (470-399 TCN). Ông đã không chủ trương xây dựng một vũ trụ luận như các triết gia trước và cùng thời, vì theo ông, loài người phải để cho thần thánh nhiệm vụ chú ý tới vũ trụ ngoại tại, còn con người phải chú ý tới những gì liên quan trực tiếp, liên hệ với mình “hãy biết mình”. Còn trong Kinh thánh Adam và Eva cùng ăn trái
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất