Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân thời kỳ 1991-2004...

Tài liệu Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân thời kỳ 1991-2004

.PDF
126
246
79

Mô tả:

Đại học quốc gia Hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ------------------------------------------- Phạm Thị Lương Diệu Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân thời kỳ 1991-2004 Luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử Hà Nội, 2005 Đại học quốc gia hà nội trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ------------------------------------------- Phạm thị lương diệu Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân thời kỳ 1991-2004 Chuyên ngành: Lịch sử đảng cộng sản việt nam Mã số: 5.03.16 Luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Ngô Đăng Tri Hà Nội, 2005 Bảng quy ước các chữ viết tắt trong luận văn 1 CNXH : Chủ nghĩa xã hội 2 XHCN : Xã hội chủ nghĩa 3 KTTN : Kinh tế tư nhân 4 TBTN : Tư bản tư nhân 5 CTCP : Công ty cổ phần 6 CTTNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn 7 KTQD : Kinh tế quốc doanh 8 KTNQD : Kinh tế ngoài quốc doanh 9 USD : Đô la Mỹ 10 Nxb : Nhà xuất bản 11 CTQG : Chính trị Quốc gia Mục lục Trang Mở đầu 2 Chương 1: quan niệm của đảng về kinh tế tư nhân trong những năm 1976-1990 và sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của đảng giai đoạn 1991-1995 9 1.1 Sơ lược quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân những năm 1976-1990 9 1.2 Đảng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 1991-1995 22 Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân trong những năm 1996 – 2004 35 2.1 Đảng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 1996-2000 2.2 Đảng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân trong những năm 2001-2004 Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm 3.1 Nhận xét chung 3.2 Một số kinh nghiệm và kiến nghị 35 49 61 61 76 Kết luận 81 Danh mục tài liệu tham khảo 84 Phụ lục 88 1 Mở đầu 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Dựa trên cơ sở sự hình thành kinh tế tư nhân; căn cứ vào quan điểm của Đảng và kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, trong luận văn này khái niệm “kinh tế tư nhân” được hiểu là loại hình tổ chức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thành phần của kinh tế tư nhân gồm: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ cá nhân gia đình đó, không thuê mướn lao động làm thuê. Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn (do một số tư nhân làm chủ), doanh nghiệp tư nhân (là do một tư nhân làm chủ) và công ty cổ phần được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty. ở các nước theo kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân được coi là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế tư nhân có nhiều tác dụng: tạo ra động lực cho sản xuất kinh doanh; duy trì cạnh tranh giúp nền kinh tế trở nên năng động hơn; đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị trường, góp phần khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lao động xã hội… Kinh tế tư nhân gắn với sở hữu tư nhân nên có thể truyền lại cho thế hệ sau tài sản, kiến thức, kinh nghiệm, từ đó tạo ra động lực phát triển kinh tế không ngừng. Kinh tế tư nhân có vị trí và tác dụng như vậy, nhưng ở nước ta, có lúc do nôn nóng, chúng ta đã vội cải tạo và muốn xoá bỏ nó trong một thời gian 2 ngắn, nên kinh tế tư nhân đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Từ khi có nhận thức mới của Đảng ta về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, thì kinh tế tư nhân đã được thừa nhận, và trên thực tế, thành phần kinh tế này đã có nhiều đóng góp to lớn cho nền kinh tế của đất nước nhất là trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, để kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiều vẫn đề cần tiếp tục được bổ sung, đổi mới. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với thành phần kinh tế này để thấy được sự tồn tại tất yếu của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, nhằm đánh giá đúng vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong cách mạng XHCN, tìm hướng phát triển, khắc phục hạn chế, để kinh tế tư nhân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đang là yêu cầu cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì những ý nghĩa lý luận và thực tiễn nói trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân thời kỳ 1991 - 2004” để làm luận văn tốt nghiệp cao học, Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã trải qua một thời kỳ cải tạo theo hướng xoá bỏ, từ khi có đường lối đổi mới nó lại được phục hồi và đẩy mạnh phát triển. Hình thức kinh doanh của kinh tế tư nhân là phong phú đa dạng, vì vậy cũng có tình trạng tuỳ tiện, khó kiểm soát, khó tổng hợp số liệu. Vì thế, việc nghiên cứu kinh tế tư nhân ở nước ta rất phức tạp và khó khăn nhất là trên góc độ lịch sử Đảng. Dù vậy, cho đến nay, vấn đề kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã thực sự trở thành một đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Từ khi Đảng ta chủ trương chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các nhà nghiên cứu Việt 3 Nam đã rất chú ý đến sự phục hồi và phát triển của thành phần kinh tế tư nhân. Cho tới nay, theo thống kê chưa đầy đủ, đã có hơn 200 đầu sách, bài viết, các đề tài nghiên cứu, hơn 60 văn bản pháp lý và hơn 30 văn kiện của Đảng về kinh tế tư nhân hoặc có liên quan đến thành phần kinh tế tư nhân. Nổi bật nhất là đề tài cấp nhà nước hoàn thành năm 1993: “Phát triển và quản lý kinh tế ngoài quốc doanh” do PGS. TS. Hoàng Kim Giao làm chủ nhiệm. Đề tài tiến hành điều tra trên 100 doanh nghiệp tư nhân tại 16 tỉnh, thành phố khắp cả nước. Với 70 báo cáo và tham luận, 34 chương sách và một số ấn phẩm khác, đề tài đã phác hoạ một bức tranh phong phú về kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam: vừa đa dạng, vừa linh hoạt, vừa tuỳ tiện với các tên gọi khác nhau; lẫn lộn giữa cái đăng ký và cái có thật, giữa tên gọi và thực chất..v..v… rất khó kiểm định. Một thực thể kinh tế được thừa nhận nhưng chưa định hình, nhiều biến động, nhiều thăng trầm. Một số công trình khác có tính thực tiễn cao như: - “Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” do PTS. Nguyễn Hữu Hải chủ biên, đã nghiên cứu vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường, qua đó cho thấy ở Việt Nam các doanh nghiệp tư nhân đa phần ở quy mô vừa và nhỏ. Từ đó tác giả rút ra kết luận: phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp ở Việt Nam và thu hút được nguồn lao động xã hội. - “Về việc phát triển khu vực Kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay” của Trần Thị Hạnh trong luận án tiến sỹ Kinh tế, năm 1994, đã nêu ra được khái niệm về hoạt động kinh doanh tư nhân, các hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh tư nhân, phân tích quá trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam, thực trạng và hạn chế của nó. - “Kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ 1986 đến 1995” của Hồ Sỹ Lộc trong Luận án Phó tiến sỹ khoa học Lịch sử, Hà Nội, 1996 đã khái quát tình hình 4 kinh tế tư nhân qua các giai đoạn: khôi phục và phát triển (1954 - 1957), giai đoạn cải tạo kinh tế tư nhân (1958 - 1985) và kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong quá trình đổi mới (từ 1986 - 1995). - “Kinh tế ngoài quốc doanh, hiện trạng, phương hướng phát triển và giải pháp” của TS. Lê Văn Toàn đăng trên tạp chí Thông tin Kinh tế Kế hoạch năm 1993, đã điều tra hiện trạng và xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực công thương nghiệp. Từ đó, tác giả đưa ra những quan điểm và giải pháp cho sự phát triển thành phần kinh tế này. Ngoài ra còn rất nhiều công trình, bài viết đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau như: Trang trại gia đình - bước phát triển mới của kinh tế hộ nông dân (Nguyễn Đình Điền, Nxb. Nông nghiệp Hà Nội, 2000), Kinh tế ngoài quốc doanh thời mở cửa 1991-1995 (Nxb. Thống kê Hà Nội, 1996), Kinh tế cá thể trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta (Tạp chí hoạt động khoa học, số 6/1993), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân - lý luận và chính sách (TS. Hà Huy Thành chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002), Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay (Nguyễn Hữu Thắng, Luận án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội, 1999), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp (Lê Khắc Triết, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005), Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay (Hồ Văn Vĩnh chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003)… Các công trình nêu trên đã cho thấy hiện trạng sôi động của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. ở từng góc độ, các công trình ấy đã cung cấp những số liệu đáng quan tâm cho các nhà nghiên cứu, có giá trị đối với việc thực hiện luận văn này. Tuy nhiên vẫn chưa có công trình nào khảo sát một cách có hệ thống các chủ trương, chính sách về kinh tế tư nhân của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo phát 5 triển kinh tế tư nhân của Đảng ở Việt Nam dưới góc độ khoa học lịch sử Đảng, nhất là những năm gần đây. Chọn và nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng qua luận văn của mình sẽ phần nào làm rõ thêm vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân từ năm 1991 đến năm 2004 để thấy được sự lãnh đạo của Đảng đối với thành phần kinh tế kinh tế tư nhân. Trên cơ sở đó, luận văn đi tới những nhận định, rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất một số kiến nghị để góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân ở nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được ý tưởng nói trên, nhiệm vụ của luận văn là: - Tìm hiểu và trình bày tiến trình nhận thức, các quan niệm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tư nhân trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà đặc biệt là từ năm 1991 đến năm 2004. - Trình bày những nét cơ bản nhất quá trình vận động, phát triển của kinh tế tư nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1991-2004, những thành tựu và hạn chế của thành phần kinh tế này trong khoảng thời gian trên. - Rút ra những kinh nghiệm chủ yếu về sự lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng trong thời gian qua và nêu lên một vài kiến nghị góp phần nâng cao sự lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân; chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân; sự phát triển của kinh tế tư nhân (với 3 bộ phận kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân) ở nước ta vận hành trong mối liên hệ với các thành phần kinh tế khác dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Phạm vi nghiên cứu: 6 + Về không gian: nghiên cứu sự lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. + Về thời gian: từ năm 1991 đến năm 2004. Chọn mốc bắt đầu nghiên cứu là năm 1991, vì đây là năm có Đại hội Đảng lần VII với chủ trương tiếp tục đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI (trong đó có chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần…), cũng là năm kinh tế tư nhân bắt đầu có chuyển biến mạnh sau kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm (19861990); chọn mốc kết thúc nghiên cứu là năm 2004 bởi đến thời điểm này, nguồn tài liệu chính phục vụ cho công trình đã được thống nhất về ý kiến đánh giá, có tương đối đầy đủ về số liệu thống kê, đây cũng là năm kinh tế tư nhân có những thành tựu to lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng, là năm cơ bản hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005) theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu - Nguồn tư liệu chủ yếu để nghiên cứu đề tài này bao gồm: + Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin liên quan đến sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. + Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về chủ trương, đường lối, chính sách đối với kinh tế tư nhân, nhất là trong những năm 1991-2004, đây là nguồn tư liệu quan trọng nhất. + Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê từ năm 1975 đến 2004. + Các công trình nghiên cứu vấn đề này trên các góc độ khác nhau - Phương pháp thực hiện đề tài này là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như thống kê toán học, lịch đại, đồng đại, so sánh… 6. Đóng góp của luận văn Thực hiện đề tài này có thể có những đóng góp sau: 7 - Làm rõ quá trình phát triển về nhận thức và chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng trong những năm 1991-2004. - Hệ thống hoá tư liệu và nêu lên một cách có hệ thống thực trạng phát triển kinh tế tư nhân theo sự chỉ đạo của Đảng trong những năm 1991-2004. - Đưa ra một số nhận xét khái quát, nêu lên những thành tựu, hạn chế của kinh tế tư nhân từ 1991 đến 2004, rút ra một số kinh nghiệm và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng trong thời gian tới. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có ba chương: Chương 1: Quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân trong những năm 1976-1990 và sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng giai đoạn 1991-1995 Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân trong những năm 1996 -2004 Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu 8 Chương 1 Quan niệm của đảng về kinh tế tư nhân trong những năm 1976-1990 và sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng giai đoạn 1991-1995 1.1 Sơ lược quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân trong những năm 1976–1990 1.1.1 Quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân và tình hình kinh tế tư nhân ở nước ta trong 10 năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (1976–1985) Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam (30/4/1975) và thống nhất Tổ quốc về mặt nhà nước (25/4/1976), Đảng ta lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn cõi Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã nêu bật sự tất yếu và tầm quan trọng của việc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội: “Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một”, vì “Chỉ có CNXH mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động và vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được đảm bảo một cuộc đời văn minh, hạnh phúc… Có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hoá, khoa học tiến tiến, quốc phòng vững mạnh; do đó đảm bảo cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh” [32, 289]. Đại hội đã vạch ra đường lối chung của cách mạng XHCN ở nước ta trong giai đoạn mới là “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá…”, và đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN ở nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ 9 nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa…” Đường lối chung của cách mạng XHCN và đường lối xây dựng kinh tế XHCN ở nước ta trong thời kỳ quá độ do Đại hội IV đề ra dựa trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng XHCN ở miền Bắc (1954 - 1975), đồng thời xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và thế giới trong giai đoạn mới. Trong đó, đặc điểm đất nước vừa trải qua sự tồn tại khá dài hai miền Nam Bắc với hai chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và tâm lý xã hội khác nhau là đặc điểm có tính chất rất đặc biệt ảnh hưởng đến việc hoạch định đường lối và biện pháp cách mạng cụ thể. Thực chất quá trình cách mạng XHCN ở nước ta là quá trình kết hợp giữa cải tạo và xây dựng, vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng cái mới (lực lượng sản xuất mới, cơ sở kinh tế mới, kiến trúc thượng tầng mới, đời sống vật chất mới và đời sống tinh thần, văn hoá mới…) là chủ yếu. Đảng ta chủ trương đến hết năm 1980 thì hoàn thiện về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Cụ thể là, hoàn thành việc cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa thành các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, tức là đưa nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế hai thành phần, gồm kinh tế quốc doanh (nhà nước) và kinh tế tập thể (hợp tác xã). Chủ trương cải tạo chủ nghĩa xã hội trên cả nước thời kỳ này là theo cách thức như ở miền Bắc trước 1975. Miền Bắc đã cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa từ năm 1958, tức là khi vừa kết thúc thời kỳ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Cách thức cải tạo là dùng mệnh lệnh hành chính, buộc tất cả các thành phần kinh tế ngoài hai hình thức trên phải đi vào con đường làm ăn tập thể, sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung - bao cấp, kinh tế tư nhân không được thừa nhận, nó là đối tượng cải tạo và xoá bỏ. Từ năm 1959, miền Bắc đã cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. khu vực kinh tế tư nhân được chuyển dần sang hình thức doanh nghiệp công 10 tư hợp doanh và hợp tác xã. Mục tiêu đã định là xoá bỏ tận gốc chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của thành phần kinh tế này. Các biện pháp cải tạo XHCN như trên cũng được áp dụng đối với kinh tế tư nhân ở miền Nam sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Có một thực tế là việc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp trên cả nước đã diễn ra không được như mong muốn. ở miền Bắc, càng đưa hợp tác xã lên quy mô lớn thì sản xuất nông nghiệp càng sút kém. ở miền Nam, không đưa được nhân dân vào làm ăn tập thể theo kế hoạch, các tập đoàn sản xuất nông nghiệp cũng rời rạc, kém hiệu quả. Hội nghị lần thứ 6 BCHTƯ khoá IV đã họp vào tháng 8 năm 1979 đánh giá về thực trạng đất nước và tập trung bàn về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng, phát triển công nghiệp địa phương, nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm nghiêm trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Hội nghị này đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TƯ Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách nêu ra các nhiệm vụ phải thực hiện từ năm 1979 đến năm 1981… Riêng ở miền Nam, cải tạo nông nghiệp phải đảm bảo đúng các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lơi, chống chủ quan, cưỡng ép; thừa nhận các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, kể cả kinh tế của tư sản được kinh doanh hợp pháp. Tiến tới cải tiến một bước cơ bản các chính sách lưu thông phân phối trong cả nước nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng kết hợp lợi ích tập thể, cá nhân và lợi ích Nhà nước. Hội nghị còn thông qua Nghị quyết 21-NQ/TƯ Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương tạo sự bảo đảm quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của cơ sở, thực hiện chế độ kế hoạch hoá bao cấp và kết hợp kế hoạch hoá với sử dụng quan hệ thị trường, gợi mở việc phát huy hết năng lực chủ động trong sản xuất và kinh doanh. Tinh thần của hai Nghị quyết trong Hội nghị 6 BCHTƯ (khoá IV, 1979) là nhằm tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ chế quản lý kinh tế lúc đó, mở hướng cho sản xuất “bung ra”, kích thích lực lượng sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống xã hội. 11 Kết quả là đến giữa năm 1979, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, xây dựng và dịch vụ quan trọng thành các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh, đồng thời sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở đó theo quy hoạch từng ngành. Tuy nhiên, các Nghị quyết của Đảng ta trong năm 1979 cũng chỉ là các giải pháp tình thế, điều chỉnh được một số khâu quan trọng trong hoạt động kinh tế của đất nước chưa có được một cách cụ thể những cách thức vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nên nền kinh tế quốc dân thời lúc này có mức độ tăng trưởng rất thấp, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phát triển chậm, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong đó có kinh tế tư nhân vẫn được cải tạo theo mệnh lệnh hành chính, do đó cũng không đóng góp được bao nhiêu cho thu nhập xã hội, kết quả là nền kinh tế nước ta bị mất cân đối nghiêm trọng, cung cầu không hợp lý, lạm phát tăng, đời sống nhân dân không được cải thiện, công bằng xã hội bị vi phạm... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) khẳng định tiếp tục đường lối chung của cách mạng XHCN và đường lối xây dựng kinh tế XHCN trong thời kỳ quá độ do Đại hội IV đề ra. Nhưng Đại hội V cũng đã có sự bổ sung điều chỉnh trong đường lối xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ. Từ sau Đại hội V, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển, cụ thể hoá cho từng chặng đường, từng giai đoạn phù hợp với những điều kịên lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân nói riêng tiếp tục được cải tạo một cách triệt để trong kế hoạch 5 năm 1981-1985 với chủ trương cho chặng đường trước mắt (những năm đầu của thập kỷ 80) là: hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Việc xác định thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam trải qua nhiều chặng đường, việc nêu nội dung của chặng đường đầu tiên, và kế hoạch “sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo XHCN nền kinh tế quốc dân” là những chuyển biến về nhận thức lý luận của Đại hội V. Song, Đại hội vẫn chưa thấy 12 được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế hoạch Nhà nước quyết định, chưa có những chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Hội nghị Trung ương 3 khoá V (12/1982) đã xác định phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội và đặt mức phấn đấu cụ thể cho những năm 1983 1985. Nhưng vấn đề làm thế nào để giải phóng sức sản xuất, tận dụng tối đa những đóng góp của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội tiến lên thì Hội nghị vẫn chưa đề cập đến. Hội nghị Trung ương 7 (12/1984) đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu là tập trung cho mặt trận nông nghiệp, coi đó là hàng đầu, nhưng lại chưa chỉ rõ những chính sách thiết thực để tập trung cho nông nghiệp. Những Hội nghị tiếp theo của Trung ương Đảng khoá V đã tập trung tìm nhiều cách để tháo gỡ cho cục diện chung về kinh tế - xã hội những năm cuối của kế hoạch 5 năm (1981-1985) như cải cách về giá - lương - tiền, cải cách về phân phối - lưu thông, thực hiện cơ chế khoán sản phẩm trong nông nghiệp… nhưng đó cũng chỉ là những biện pháp tình thế, có ý nghĩa và hiệu quả ở một mức độ nhất định. Kế hoạch 5 năm (1981-1985), nhân dân ta đã đạt được những thành tựu và tiến bộ quan trọng: trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chặn được đà giảm sút ở những năm 1976-1980, có được hàng trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện và dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thuỷ lợi, giao thông… đặt nền móng cho cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, đại bộ phận nông dân Nam Bộ đi vào con đường làm ăn tập thể thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên đã có nhiều tiến bộ trong việc xây dựng đời sống mới..v..v.. Nhưng, đến hết năm 1985, đất nước vẫn phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hạch 5 năm không đạt được, tài nguyên bị lãng phí, phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở 13 và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Đặc bịêt, việc cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế miền Nam rất chật vật và có một hậu quả kép: bản thân mô hình kế hoạch hoá tập trung không đẩy sự phát triển kinh tế lên được và cơ chế thị trường cũng bị bóp méo. Mười năm (1975-1985) Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng lại đất nước trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã giành được những thành tựu căn bản về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Nhưng cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thể hiện rõ nhất ở chất lượng nhiệm vụ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ kéo dài đến giữa năm 1975 và cuộc chiến tranh vi phạm ngang nhiên chủ quyền lãnh thổ ở biên giới phía Bắc, ở biên giới phía Tây Nam diễn ra (1975-1979) đã gây nên những tổn thất và hậu quả nặng nề trên đất nước ta. Đảng ta phải dồn sức cho chiến tranh, vì sự sống còn của dân tộc. Chặng đầu của thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội cũng chính là bước đi ban đầu. Kinh nghiệm 3 năm khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1956-1958) và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) chưa tích luỹ được bao nhiêu. Không đổ lỗi cho khách quan, nhưng xây dựng lại đất nước theo chủ nghĩa xã hội với hai miền Nam Bắc có những đặc điểm riêng khác biệt, miền Bắc vừa trải qua thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa huy động tối đa cho tiền tuyến và miền Nam vừa thoát khỏi chế độ thực dân mới của Mỹ là một mô hình chưa có tiền lệ. Đất nước giầu tiềm năng, nhân dân sẵn lòng theo Đảng, Đảng không thiếu sự kiên trì và quan tâm, nhưng xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội trong chặng đường mười năm đầu (1975-1985) với bối cảnh trên đòi hỏi phải có một bước đi cụ thể thật khoa học vừa phù hợp với hiện thực cuộc sống vừa chắc chắn và sáng tạo về lý luận. Nhìn lại diễn biến và kết quả của quá trình cách mạng trong mười năm (1975-1985) thấy có vấn đề thuộc đường lối lãnh đạo. Đó là tư tưởng duy ý 14 chí. Tư tưởng này quy định những quan niệm và chủ trương, làm xa rời cách nghĩ biện chứng, vừa không sát thực tiễn, vừa lơi lỏng lý luận. Biểu hiện rõ nhất của tư tưởng duy ý chí trong những năm này là yêu cầu triệt để đối với mục tiêu cách mạng quan hệ sản xuất và thái độ lý tưởng hóa sức mạnh của cơ chế quản lý theo kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Kéo theo nó là một loạt quan niệm không được chặt chẽ và những biện pháp, chủ trương tương ứng còn sai sót. Quan niệm rằng phải xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, vì nó xây dựng trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất, là mầm mống của chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ người bóc lột người. Quan niệm rằng muốn phát triển kinh tế và điều hành việc phân phối sản phẩm trong xã hội được công bằng phải do một kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp. Hai quan niệm bao trùm đời sống chính trị lúc đó dẫn đến kết quả là làm “đẻ non” quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, kéo tụt năng xuất lao động, thu nhập quốc dân, và, tạo ra cho xã hội căn bệnh quen thụ động, ỷ lại, trông chờ, thủ tiêu nhiều tiềm năng, sáng tạo và trách nhiệm công dân của người lao động. Vì duy ý chí mà trở nên phiến diện trong lý luận. Chính các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng “kinh tế tư nhân - với tư cách là những “mảnh” của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa xã hội sẽ còn chung sống với các “mảnh” xã hội chủ nghĩa mới được khai sinh và lớn dần lên trong một xã hội quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cho phép “xã hội chủ nghĩa hoá” toàn bộ các quan hệ sản xuất, thì kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân còn tồn tại và phát triển. Quá trình chuyển hoá nó cũng diễn ra dần dần, thông qua việc cải tạo để cho các “mảnh” tiền xã hội chủ nghĩa ngày càng chứa nhiều yếu tố xã hội chủ nghĩa hơn; chứ không phải thủ tiêu nó thông qua mệnh lệnh hành chính” [45, 174]. Trong thời kỳ quá độ tồn tại nền kinh tế quá độ, đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần. Tính quy luật đó diễn ra trong lịch sử phát triển của các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ 15 nghĩa xã hội. V.I.Lênin còn hướng dẫn: ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có ba thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Cũng chính vì duy ý chí mà sa vào bảo thủ. Chỉ chấp nhận sở hữu toàn dân (nhà nước) và sở hữu tập thể, nên suốt 10 năm, kinh tế tư nhân luôn là đối tượng cải tạo. Nó không được xem xét ngay từ cách đặt vấn đề cũng như trong sự tính đến mối quan hệ với lịch sử, địa lý, con người, tập quán. Các hậu quả không lành mạnh về kinh tế, xã hội trong mười năm (19751985) do những quan niệm chưa thấu đáo dẫn đến những chủ trương, biện pháp sai sót mang tính lịch sử. Bản thân sự tự điều chỉnh và cách mạng trong nhận thức để có một bước đi đúng đắn hơn là một quy luật tất yếu. 1.1.2 Nhận thức mới của Đảng về kinh tế tư nhân và tình hình kinh tế tư nhân ở nước ta trong 5 năm 1986-1990 Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), khu vực kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo XHCN, không được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhưng vì khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể không đủ thoả mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên khu vực kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế, vì vậy vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình (của các hộ cán bộ công nhân viên nhà nước và các hộ xã viên hợp tác xã). Các tổ hợp tác, tổ hợp sản xuất núp bóng doanh nghiệp nhà nước hoặc hợp tác xã (thực chất là những loại hình kinh tế tư nhân khác nhau) để hoạt động vì lợi ích dân sinh. Tuy mức độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế nhưng các hình thức kinh tế tư nhân cũng đã thực sự góp phần tăng thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho một bộ phận lớn cán bộ, công nhân viên, xã viên các hợp tác xã, giảm bớt căng thẳng cho nền kinh tế thời bấy giờ. 16 Một vấn đề đặt ra là cần xem xét lại vị trí, thực chất và mối quan hệ của các thành phần kinh tế này để có những quyết sách phù hợp hơn trong nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (1986) đã ghi vào văn kiện:“Trong nhận thức cũng như trong hoạt động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất”, do đó“đã có những biểu hiện nôn nóng muốn xoá bỏ ngay các thành phần phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư nhân thành quốc doanh” [19, 23]. Có thể nói, tư tưởng đổi mới đã manh nha từ Hội nghị TƯ lần thứ 6 (khoá IV, 1979), khi Đảng ta thấy được những trở ngại, khó khăn, lực cản của cơ chế cũ đối với sự tăng trưởng kinh tế và tới việc nâng cao mức sống của nhân dân. Nhưng lúc đó, chủ yếu mới là đổi mới trong sự kiểm điểm, trong những mong muốn, những bước thử nghiệm vạch lối tìm đường. Đến Đại hội VI của Đảng, việc phát triển kinh tế tư nhân mới chính thức được chấp nhận, và được khuyến khích đầu tư phát triển thông qua các chính sách được ban hành tiếp theo. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời nhìn nhận, đánh giá lại và chấp nhận sự phát triển của kinh tế tư nhân như một tất yếu khách quan, kịp với xu thế chung của khu vực và thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng trí tuệ và quyết tâm của Đại hội VI đã quyết định đổi mới nền kinh tế của đất nước. Công cuộc đổi mới này nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái, bế tắc và khủng hoảng. Thực chất của sự đổi mới kinh tế là chuyển kinh tế từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung của công cuộc đổi mới kinh tế là thừa nhận một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khôi phục và cho phép các thành phần kinh tế phát triển. Đại hội đã chỉ ra sai lầm trong việc xoá bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và các thành phần 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan