BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ XÂY DỰNG
GIÁO TRÌNH
MÔ ĐUN: TRẮC ĐỊA CƠ SỞ 2
NGHỀ: TRẮC ĐỊA CÔNG TRÌNH
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG
Quảng Ninh, năm 2017
1
2
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể
được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và
tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
3
4
BÀI 1. THIẾT KẾ LƯỚI KHỐNG CHẾ MẶT BẰNG CƠ SỞ ĐO VẼ
BÌNH ĐỒ TRÊN BẢN ĐỒ
1. Khái quát về lưới khống chế mặt bằng cơ sở
1.1. Khái niệm
a. Khái niệm
Lưới khống chế mặt bằng là hệ thống các điểm khống chế được rải đều,
đánh dấu mốc vững chắc trên mặt đất, được xác định chính xác tọa độ mặt bằng
(x, y hoặc B, L) và liên kết với nhau tạo thành mạng lưới.
b. Mục đích xây dựng lưới khống chế mặt bằng
Lưới khống chế mặt bằng được xây dựng nhằm làm cơ sở trắc địa về mặt
bằng cho công tác đo vẽ bản đồ, bố trí công trình, v.v...
c. Nguyên tắc xây dựng lưới
Mạng lưới khống chế mặt bằng được xây dựng theo nguyên tắc từ tổng
thể đến cục bộ, từ độ chính xác cao đến độ chính xác thấp.
Đầu tiên, người ta xây dựng mạng lưới khống chế có mật độ thưa và
chính xác cao phủ trùm toàn bộ lãnh thổ. Sau đó chêm dày bằng lưới khống chế
có mật độ điểm lớn hơn và độ chính xác thấp hơn. Lưới cấp thấp nhất có độ
chính xác đáp ứng yêu cầu của công tác trắc địa chi tiết như đo vẽ các loại bản
đồ.
1.2. Phân loại
Tùy theo tiêu chí đưa ra, lưới khống chế mặt bằng có thể được phân thành
các nhóm loại khác nhau. Nhưng chủ yếu lưới được phân loại theo hai tiêu chí:
- Phân loại theo quy mô và độ chính xác
- Phân loại theo phương pháp xây dựng lưới
1.2.1. Phân loại theo quy mô và độ chính xác
Theo quy mô và độ chính xác lưới khống chế mặt bằng được chia làm ba
loại:
- Lưới khống chế mặt bằng Nhà nước
- Lưới khống chế mặt bằng khu vực
- Lưới khống chế đo vẽ
a. Lưới khống chế mặt bằng Nhà nước
Lưới khống chế mặt bằng Nhà nước được xây dựng tuần tự theo bốn cấp
hạng: Hạng I, II, III, IV. Trong đó lưới khống chế mặt bằng hạng I có độ chính
xác cao nhất, phủ trùm toàn quốc. Lưới khống chế mặt bằng hạng II được chêm
dày vào lưới hạng I, sau đó chêm dày thêm lưới hạng III và hạng IV.
5
Ngoài bốn cấp hạng trên, thực tế mạng lưới trắc địa mặt bằng Nhà nước
đã được đo bổ sung một số lưới sau:
- Lưới GPS cạnh ngắn khu vực Minh Hải, Sông Bé, Tây Nguyên
Khu vực Minh Hải, Sông Bé, Tây Nguyên có điều kiện địa hình khó khăn
nên không có điều kiện xây dựng lưới khống chế mặt bằng Nhà nước theo
phương pháp truyền thống. Vì vậy từ năm 1991 đến năm 1993 Cục Đo đạc và
Bản đồ Nhà nước đã áp dụng công nghệ GPS để xây dựng lưới tọa độ cho khu
vực này. Tổng số lượng điểm trong lưới là 117 điểm.
- Lưới GPS cạnh dài trên đất liền và trên biển
Lưới cạnh dài trên biển
Để liên kết được toạ độ trên đất liền và trên biển, năm 1992 Cục Đo đạc
và Bản đồ Nhà nước đã áp dụng công nghệ GPS xây dựng nối các đảo và quần
đảo chủ yếu với hệ thống toạ độ trên đất liền. Lưới gồm 36 điểm, trong đó có 9
điểm thuộc các lưới tam giác, đường chuyền dọc bờ biển.
Lưới cạnh dài trên đất liền
Năm 1993 Liên hiệp Khoa học Sản xuất Trắc địa Bản đồ (thuộc Cục Đo
đạc - Bản đồ) đã đo lưới GPS cạnh dài trên đất liền nối một số điểm trong lưới
tam giác, đường chuyền từ Bắc đến Nam để tăng cường độ chính xác cho lưới
Nhà nước. Lưới này gồm 10 điểm trên lãnh thổ Việt Nam, là các điểm trùng với
lưới mặt đất đã xây dựng.
Cả lưới cạnh dài trên đất liền và trên biển tạo thành một lưới cạnh dài
chung phủ trùm cả nước (cả trên đất liền và trên biển). Lưới này có cạnh ngắn
nhất là 160 km và dài nhất là 1200 km.
- Lưới GPS cấp “0”
Cuối năm 1995 Tổng cục Địa chính đã quyết định sử dụng công nghệ
GPS để xây dựng lưới tọa độ cấp “0” với các mục đích sau:
+ Kiểm tra chất lượng của các lưới hạng I và hạng II đã xây dựng, kết nối
thống nhất và tăng cường độ chính xác cho lưới này.
+ Tạo công cụ nghiên cứu có độ chính xác cao cho các bài toán trắc địa
trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó có việc xác định hệ quy chiếu quốc gia, xây
dung mạng lưới khống chế mặt bằng quốc gia hiện đại, nghiên cứu biến động vỏ
trái đất, nghiên cứu dịch chuyển lục địa.
+ Là phương tiện để đo nối với các lưới tọa độ khu vực và Thế giới, đồng
thời tạo sự đổi mới, phát triển công nghệ xây dựng lưới tọa độ ở Việt nam.
Lưới cấp “0” gồm 68 điểm, trong đó có 56 điểm trùng với điểm tọa độ cũ
và 13 điểm mới. Chiều dài cạnh trung bình là 70 km.
- Mật độ điểm của các cấp hạng
6
Mật độ điểm của lưới hạng I là nhỏ nhất, mật độ điểm của lưới hạng II,
III, IV tăng dần.
Trung bình 500 km2 có một điểm hạng I, 120 km2 có một điểm hạng II, 50
km2 có một điểm hạng III và 10 km2 có một điểm hạng IV. Khu vực quan trọng
có thể tăng mật độ điểm gấp hai lần mật độ trung bình.
- Độ chính xác của các cấp hạng
Ngược lại với mật độ, độ chính xác của lưới hạng I là cao nhất, độ chính
xác của lưới hạng II, III, IV giảm dần.
Lưới trắc địa mặt bằng Việt Nam đảm bảo sai số tương hỗ giữa các điểm
lân cận cùng cấp hạng là 5 6 cm, tương ứng với sai số trung phương tương đối
cạnh hạng I là 1:400 000, cạnh hạng IV là 1:70 000.
b. Lưới khống chế mặt bằng khu vực
- Cấu trúc lưới khống chế mặt bằng khu vực
Lưới khống chế mặt bằng khu vực gồm hai cấp : cấp 1 và cấp 2. Lưới
khống chế trắc địa mặt bằng khu vực thường là dạng lưới tam giác hoặc đường
chuyền chêm dày vào giữa các điểm lưới khống chế mặt bằng Nhà nước.
- Mật độ điểm lưới khống chế mặt bằng khu vực
Mật độ điểm của lưới cấp 1 nhỏ hơn mật độ điểm của lưới cấp 2.
Mật độ điểm của lưới cấp 2 trở lên cần đảm bảo 4 điểm trên 1 km 2 đối với
khu vực xây dựng và 1 điểm trên 1 km2 đối với khu vực chưa xây dựng.
- Độ chính xác lưới khống chế mặt bằng khu vực
Độ chính xác của lưới cấp 1 cao hơn độ chính xác của lưới cấp 2.
Sai số trung phương vị trí điểm khống chế khu vực so với điểm lân cận
không vượt quá 0,1 mm tính theo tỷ lệ bản đồ cần thành lập.
c. Lưới khống chế đo vẽ
lưới khống chế đo vẽ là lưới chêm dày vào mạng lưới khống chế
mặt bằng Nhà nước và lưới khu vực để đảm bảo mật độ điểm phục vụ đo vẽ bản
đồ địa hình. Mật độ điểm và độ chính xác của lưới phụ thuộc vào đặc điểm địa
hình của khu vực đo vẽ, tỷ lệ bản đồ cần đo vẽ.
2. Phân loại theo phương pháp xây dựng lưới
a. Phương pháp tam giác
Trong phương pháp này, các mốc khống chế được chọn và chôn
trên mặt đất, chúng tạo thành các đỉnh của tam giác và liên kết với nhau tạo
thành lưới tam giác (hình 5-1).
I
V
III
B
1
8
2
9
4
13
15
10
17
Sc
5
a
14
7
3
6
11
II
12
16
IV
18
VI
7
Các yếu tố đo trong lưới có thể là góc, hoặc cạnh. Dựa vào chủng loại trị
đo, lưới tam giác đo góc được chia ra làm các loại sau:
Lưới tam giác đo góc: Trị đo trong lưới là tất cả các góc trong tam giác
Lưới tam giác đo cạnh:Trị đo trong lưới là tất cả các cạnh trong tam giác
Lưới tam giác đo góc cạnh: Trị đo trong lưới bao gồm cả góc và cạnh. Có
thể đo tất cả các góc, tất cả các cạnh hoặc đo một số góc và một số cạnh.
b. Phương pháp đường chuyền
Trong phương pháp này, các điểm khống chế được chọn và chôn trên mặt
đất và được liên kết với nhau tạo thành đường gãy khúc (hình5-2).
B
D
I
III
V
a
II
IV
C
Hình 5-2: Sơ đồ lưới đường
chuyền
Trị đo trong lưới là tất cả các cạnh và các góc ngoặt của đường chuyền.
c. Phương pháp kết hợp
Theo phương pháp này, lưới gồm có cả dạng kết cấu tam giác và đường
chuyền.
VI
B
II
VII
a
III
I
V
IV
VIII
C
Hình 5-3: Sơ đồ lưới dạng
hợptrong vùng có địa hình phức tạp.
Loại lưới này thườngkết
dùng
d. Phương pháp trắc địa vệ tinh
Các phương pháp xây dựng lưới khống chế mặt bằng đã nêu trên có các
nhược điểm sau:
8
- Các điểm liền kề nhau tạo thành đồ hình cơ bản phải trực tiếp
hoặc sau khi xây dựng tiêu phải trông thấy nhau (phải thông hướng).
- Do ảnh hưởng của độ cong trái đất và chiết quang nên chiều dài cạnh bị
hạn chế. Hơn nữa cạnh càng dài, tiêu phải càng cao, gây khó khăn tốn kém về
kinh tế. Chính vì vậy lưới tam giác hạng I (lưới bậc cao nhất) thì chiều dài cạnh
trung bình chỉ là 25 km.
- Rất khó khăn khi sử dụng các phương pháp này để liên kết toạ độ trên
đất liền và hải đảo.
- Khó khăn khi thực hiện công tác đo nối lưới quốc gia với hệ thống toạ
độ khu vực và quốc tế để giải quyết các bài toán chung trên toàn cầu.
- Khối lượng công tác đo đạc lớn, cần nhiều nhân lực và bị phụ thuộc
nhiều vào điều kiện thời tiết.
Lưới trắc địa vệ tinh có thể khắc phục được các nhược điểm trên. Hiện
nay, trên thế giới và Việt Nam, lưới trắc địa vệ tinh bằng công nghệ GPS được
dùng phổ biến để xây dựng lưới khống chế mặt bằng. ở Việt Nam từ đầu những
năm 90 của thế kỷ trước, Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước bắt đầu dùng công
nghệ GPS. Cho đến nay, công nghệ GPS đã được dùng để xây dựng lưới cấp cao
hơn hạng I (cấp 0) và đến cả cấp khống chế thấp nhất là lưới đo vẽ. Lưới đã
được dùng để đo nối toạ độ trên đất liền và hải đảo trong lãnh thổ Việt Nam, đo
nối lưới quốc gia với hệ thống toạ độ khu vực và quốc tế.
Trong phương pháp trắc địa vệ tinh, trị đo của lưới có được từ kết quả thu
tín hiệu vệ tinh nhân tạo. Các máy thu đặt tại các điểm khống chế trên mặt đất,
thu tín hiệu truyền về từ vệ tinh để tính ra toạ độ điểm quan sát (đo tuyệt đối)
hoặc hiệu toạ độ giữa hai điểm quan sát (đo tương đối). Như vậy, về lý thuyết,
các điểm khống chế trong lưới trắc địa vệ tinh không cần thông hướng với nhau
mà chỉ cần thông hướng đến bầu trời. Do đó, khoảng cách giữa các điểm không
bị hạn chế, có thể lên đến hàng ngàn km.
Khi thành lập lưới trắc địa vệ tinh có thể thực hiện theo phương án tuần tự
bao gồm tất cả các cấp, hạng hoặc lưới vượt cấp, lưới cùng một cấp hạng.
- Độ chính xác của lưới
Hiện nay, sử dụng công nghệ GPS có thể xác định vị trí các điểm độc lập
với độ chính xác đạt tới milimét, đối với máy GPS cầm tay đạt độ chính xác từ 2
–10 m.
Độ chính xác chiều dài giữa hai điểm lân cận của các cấp lưới GPS được
tính theo công thức 5-1:
= a 2 + (b.10 −6.D) 2
(5-1)
Độ chính xác phương vị của cạnh được tính theo công thức (5-2)
9
m =
Trong đó:
p 2 +
q 2
D2
(5-2)
a - sai số cố định (mm);
b - hệ số sai số tỷ lệ
D - chiều dài cạnh đo (km)
Với máy thu 4600 LS : a = 5 mm; b = 1; p" = 1; q" = 5.
Hoặc : m =
(5-3)
mD
D
-. Các yêu cầu kỹ thuật chủ yếu của các cấp lưới GPS
Các yêu cầu kỹ thuật chủ yếu của các cấp lưới GPS phải phù hợp với qui
định nêu ở bảng 5-1 Chiều dài cạnh ngắn nhất giữa 2 điểm lân cận bằng 1/2 đến
1/3 chiều dài cạnh trung bình; chiều dài cạnh lớn nhất bằng 2 3 lần chiều dài
cạnh trung bình. Khi chiều dài cạnh nhỏ hơn 200 m, sai số trung phương chiều
dài cạnh phải đạt tiêu chuẩn theo bảng 5-1.
Bảng 5-1- Yêu cầu kỹ thuật chủ yếu của lưới GPS được thành lập để phục
vụ đo vẽ bản đồ
Cấp hạng
Chiều dài
cạnh
a
trung bình
(mm)
b(1 x 10-6)
(km)
Sai số trung
phương tương
đối cạnh yếu
nhất
II
9
10
2
1/120 000
III
5
10
5
1/80 000
IV
2
10
10
1/45 000
1
1
10
10
1/20 000
2
<1
15
20
1/10 000
Lưới GPS phải được tạo thành 1 hoặc nhiều vòng đo độc lập hoặc tuyến
phù hợp. Số lượng cạnh trong vòng đo độc lập, tuyến phù hợp trong các cấp lưới
GPS phải tuân theo qui định nêu trong bảng 5-2.
Bảng 5-2- Qui định về số lượng cạnh trong vòng đo độc lập
hoặc tuyến phù hợp đối với các cấp lưới GPS
Cấp hạng
II
III
IV
1
2
Số cạnh trong vòng
6
8
10
10
10
đo độc lập hoặc
tuyến phù hợp
10
Điểm GPS các cấp đều chôn mốc vĩnh cửu, khi chôn mốc đáy hố phải đổ
gạch, sỏi hoặc đổ một lớp bê tông lót. Mốc có thể đúc sẵn bằng bê tông cốt thép
theo quy cách trong quy phạm hiện hành của Nhà nước rồi đem chôn, có thể đúc
ở hiện trường, hoặc có thể lợi dụng nền đá, nền bê tông khoan gắn thêm dấu mốc
ở hiện trường.
Điều quan trọng cần chú ý, đất dùng để chôn mốc GPS phải được sự đồng
ý của cơ quan quản lý, người đang sử dụng đất cần làm thủ tục chuyển quyền sử
dụng đất và làm các thủ tục uỷ quyền bảo quản mốc. Trong các tài liệu phải bàn
giao sau khi chọn điểm chôn mốc, không thể thiếu hồ sơ cho phép sử dụng đất
và giấy bảo quản mốc trắc địa.
-. Hệ thống vệ tinh nhân tạo
Các vệ tinh nhân tạo thường dùng là hệ thống định vị GPS của Mỹ.
Hệ thống cho phép xác định toạ độ của điểm quan sát ở bất kỳ vị trí, vào
bất kỳ thời điểm, trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào ở trên mặt đất, trên biển
cũng như trong không gian. Hệ thống gồm ba đoạn:
- Đoạn không gian
- Đoạn điều khiển
- Đoạn mặt đất
Đoạn không gian: Gồm 24 vệ tinh trong đó có ba vệ tinh dự trữ quay trên
6 mặt phẳng quỹ đạo cách đều nhau, mỗi mặt phẳng có góc nghiêng là 55 0 so
với mặt phẳng quỹ đạo trái đất. Quỹ đạo của vệ tinh hầu như là quỹ đạo tròn và
vệ tinh bay ở độ cao xấp xỉ 20.200 km so với mặt đất. Chu kỳ quay của vệ tinh
là 718 phút. Mỗi vệ tinh được trang bị máy phát tần số chuẩn nguyên tử với độ
ổn định cao cỡ 10-12.
Để giảm ảnh hưởng của tầng điện ly, tín hiệu sử dụng hai sóng tải L 1 và
L2. Các sóng tải được điều biến bởi hai loại mã khác nhau : Code C/A và Code
P. Trong đó Code C/A chỉ điều biến sóng tải L1 và Code P điều biến cả sóng tải
L1 và L2. Ngoài ra, sóng tải L1 và L2 còn được điều biến bởi các thông tin đạo
hàng.
Đoạn điều khiển: Gồm một trạm điều khiển trung tâm đặt tại nước Mỹ và
04 trạm theo dõi được bố trí khá đều trên vành đai xích đạo của trái đất.
Nhiệm vụ của đoạn điều khiển là: Điều khiển toàn bộ hoạt động và chức
năng của vệ tinh trên cơ sở theo dõi tín hiệu truyền về từ vệ tinh. Số liệu quan
sát nhận được từ các trạm theo dõi được truyền về các trạm trung tâm để xử lý
nhằm xác định được ephemerit (bảng giá trị toạ độ của vệ tinh theo thời gian)
chính xác của vệ tinh và số hiệu chỉnh của đồng hồ vệ tinh. Các số liệu này được
chuyển từ trạm trung tâm về trạm theo dõi sau đó truyền tiếp lên các vệ tinh.
Bằng cách đó toạ độ của vệ tinh cũng như đồng hồ luôn được chính xác hoá lại,
ít nhất là ba lần trong một ngày.
11
Đoạn sử dụng: Bao gồm tất cả các khách hàng có máy thu GPS. Các máy
thu GPS có thể là các máy ở dạng đơn chiếc gọn nhẹ, loại bỏ túi hoặc đeo tay
như đồng hồ, có thể là những bộ máy thu gồm nhiều chiếc, cho phép xác định vị
trí tương hỗ giữa các điểm với sai số cỡ cm, thẫm chí đến mm với khoảng cách
vài ba chục, vài ba trăm đến hàng ngàn km.
Các đại lượng đo trong GPS có thể là:
- Khoảng cách giả theo tín hiệu code
Vệ tinh phát đi tín hiệu code tựa ngẫu nhiên dạng a, tín hiệu này được
phát tới máy thu. Trong máy thu đồng thời cũng tạo ra tín hiệu hoàn toàn giống
như tín hiệu a của vệ tinh. Bằng cách so sánh tín hiệu thu được từ vệ tinh và tín
hiệu do chính máy thu tạo ra sẽ xác định được khoảng thời gian lan truyền tín
hiệu từ vệ tinh đến máy thu và từ đó tính ra được khoảng cách từ vệ tinh đến
máy thu:
R = c.t
(5-4)
Trong đó: R là khoảng cách từ vệ tinh đến máy thu;
t là khoảng thời gian lan truyền tín hiệu từ vệ tinh đến
máy thu;
c là vận tốc truyền sóng.
Do sự không đồng bộ của đồng hồ trên vệ tinh và máy thu, do ảnh
hưởng của môi trường lan truyền tín hiệu nên khoảng cách thu được R không
phải là khoảng cách chính xác mà chỉ là khoảng cách giả từ vệ tinh đến máy thu.
Độ chính xác định vị của trị đo này không cao và ít được dùng trong định
vị trắc địa.
- Pha sóng tải
Việc đo khoảng cách giả theo tín hiệu code chỉ cho phép xác định được
khoảng cách từ vệ tinh đến máy thu với sai số lý thuyết là 30m. Để đạt độ chính
xác cao hơn ta dùng đại lượng đo khác là đo pha sóng tải. Thực chất là đo hiệu
số giữa pha của sóng tải do máy thu nhận được từ vệ tinh và pha của tín hiệu do
chính máy thu tạo ra.
=
Trong đó:
2
( R − N + ct )
(5-5)
là bước sóng của tín hiệu;
R là khoảng cách từ vệ tinh đến máy thu.
Nếu sử dụng sóng tải L1 thì ta có thể đo được khoảng cách từ vệ tinh đến
máy thu với độ chính xác đến cm, thậm chí mm. Sóng tải L 2 cho độ chính xác
thấp hơn nhiều nhưng tác dụng của nó là cùng với sóng tải L1 là giảm ảnh hưởng
của tầng điện ly.
- Tần số Doppler: Đo giá trị trôi tần giữa tín hiệu thu và tín hiệu phát.
12
Hiện nay, ngoài hệ thống định vị GPS còn có hệ thống GOLASS của Nga
và hệ thông GALILEO của Châu Âu. Một số loại máy thu cho phép thu được cả
hai loại tín hiệu GPS và GOLASS.
13
CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LƯỚI KHỐNG CHẾ MẶT
BẰNG PHỤC VỤ ĐO VẼ BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH
1. Mật độ điểm khống chế mặt bằng
1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến mật độ điểm khống chế mặt bằng
a. Khái niệm về mật độ điểm khống chế mặt bằng
Mật độ điểm khống chế mặt bằng là số lượng điểm khống chế mặt
bằng trên một đơn vị diện tích.
Việc xác định mật độ điểm khống chế mặt bằng trong công tác đo
vẽ bản đồ là rất quan trọng. Mật độ điểm khống chế mặt bằng phải được tính
toán phù hợp, đảm bảo cả về mặt kinh tế và kỹ thuật.
Nếu mật độ điểm khống chế quá thấp sẽ không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Ví dụ: Khi số lượng điểm khống chế quá thưa, sẽ không đảm bảo cho việc
đo vẽ hết các chi tiết địa vật, địa hình tại những nơi bị che khuất; hoặc mặc dù
đo vẽ hết được các chi tiết địa hình địa vật nhưng không đảm bảo được độ chính
xác vì khoảng cách từ điểm khống chế (điểm đứng máy) đến điểm chi tiết cần đo
vẽ quá xa.
Ngược lại với trường hợp trên, nếu mật độ điểm khống chế quá cao sẽ
không đảm bảo tính kinh tế. Vì chi phí xây dựng lưới khống chế sẽ tăng theo số
lượng điểm.
Vì vậy để đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật và kinh tế trong công tác đo vẽ
bản đồ cần thiết phải xác định được mật độ điểm khống chế mặt bằng phù hợp.
Trên cơ sở đó, kết hợp diện tích khu đo ta có thể xác định được tổng số điểm
khống chế cần xây dựng theo công thức:
N = F .M
Trong đó:
(5-6)
M là mật độ điểm khống chế;
F là diện tích khu đo;
N là tổng số điểm cần xây dựng trên khu đo.
b. Cơ sở lựa chọn mật độ điểm khống chế
Về mặt định tính, mật độ điểm khống chế phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó cơ bản gồm có bốn yếu tố sau:
- Phương pháp đo vẽ bản đồ địa hình
- Đặc điểm địa hình địa vật của khu vực cần đo vẽ
- Tỷ lệ bản đồ cần đo vẽ
- Phương pháp thành lập lưới khống chế
*. Phương pháp đo vẽ bản đồ địa hình
14
Hai phương pháp cơ bản để thành lập bản đồ địa hình là phương pháp đo
trực tiếp trên thực địa và phương pháp đo ảnh.
Phương pháp đo trực tiếp trên thực địa là phương pháp dùng các
loại máy kinh vĩ, toàn đạc điện tử hoặc các máy GPS (đo động) để xác định vị trí
tương hỗ của các điểm chi tiết địa hình, địa vật so với điểm khống chế.
Phương pháp đo ảnh sử dụng các ảnh chụp từ máy bay, từ vệ tinh
hoặc từ các trạm chụp trên mặt đất để thành lập bản đồ địa hình. Trong đo ảnh
thường sử dụng hai công nghệ cơ bản là đo ảnh lập thể, đo ảnh phối hợp với đo
trực tiếp ngoài trời. Đo ảnh lập thể dùng ảnh hàng không, ảnh vệ tinh xác lập các
mô hình lập thể của mặt đất trên các máy đo ảnh, từ đó đo vẽ dáng đất kết hợp
với kỹ thuật đoán đọc ảnh để đo vẽ địa vật trên máy và cuối cùng là đo vẽ bổ
sung và kiểm tra thực địa.Công nghệ đo chụp phối hợp thường sử dụng bình đồ
ảnh hoặc ảnh đơn để đo vẽ. Các yếu tố địa vật được xác định thông qua việc
đoán đọc và điều vẽ ảnh ngoài trời, còn địa hình được đo vẽ trực tiếp bằng máy
kinh vĩ, máy toàn đạc hoặc máy GPS.
Với cùng một khu đo, mật độ điểm khống chế mặt bằng trong hai phương
pháp trên là khác nhau. Khi đo vẽ bản đồ địa hình bằng ảnh, phần lớn các điểm
khống chế được xây dựng bằng kỹ thuật tăng dày theo phương pháp tam giác
ảnh không gian. Các điểm này được gọi là các điểm khống chế nội nghiệp
(không cần đo vẽ trên thực địa để xác định tọa độ). Mỗi tấm ảnh hoặc mô hình
lập thể chỉ cần tối thiểu 5 điểm khống chế ảnh biết tọa độ và độ cao theo hệ tọa
độ mặt đất. Các điểm này được gọi là các điểm khống chế ngoại nghiệp, đóng
vai trò như các điểm gốc hạng cao khi xây dựng một lưới khống chế cấp thấp
hơn, phục vụ cho việc đo nối các khối tam giác ảnh nên có thể xây dựng lưới
khống chế mặt bằng có mật độ nhỏ.
Khi đo vẽ bản đồ theo phương pháp đo vẽ trực tiếp ngoài thực địa,
tất cả các điểm khống chế đều cần phải đo vẽ trên thực địa để xác định tọa độ, vì
vậy mật độ điểm khống chế địa hình lớn hơn phương pháp đo vẽ bản đồ bằng
ảnh.
*. Đặc điểm địa hình, địa vật của khu vực cần đo vẽ
Đặc điểm địa hình, địa vật của khu đo quyết định đến mật độ điểm khống
chế. Thật vậy, nếu khu đo thoáng đãng, bằng phẳng, tầm nhìn thông tốt thì mật
độ điểm khống chế nhỏ. Ngược lại, nếu khu đo có địa hình phức tạp như: độ dốc
lớn, bị chia cắt nhiều, có nhiều cây cối và địa vật che khuất làm hạn chế tầm
nhìn thông thì mật độ điểm khống chế phải lớn mới có thể đo vẽ hết địa vật, địa
hình.
*. Tỷ lệ bản đồ cần đo vẽ
Bản đồ tỷ lệ càng lớn, yêu cầu về mức độ chi tiết và độ chính xác
của bản đồ càng cao vì vậy mật độ điểm khống chế phải càng lớn.
15
Ví dụ : Với cùng một khu vực đo vẽ, cùng một phương pháp đo vẽ,
mật độ điểm khống chế phục vụ cho đo vẽ bản đồ tỷ lệ 1/500 sẽ lớn hơn tỷ lệ
1/1000.
*. Phương pháp thành lập lưới
khống chế
Mật độ điểm khống chế phụ
thuộc vào phương pháp thành lập lưới. Ví
dụ nếu thành lập lưới theo phương pháp
tam giác thì mật độ điểm khống chế sẽ lớn
hơn phương pháp đường chuyền.
a
s/2
s/2
B
D
K
1.2. Phương pháp xác định diện tích
khống chế của một điểm
Để xác định mật độ điểm
khống chế cần phải biết được diện tích
khống chế của một điểm.
C
Hình 5-4: Diện tích khống chế của điểm A
Yêu cầu của lưới khống chế là các điểm khống chế phải được phân
bố rải đều trên toàn bộ khu đo. Trong thực tế, khái niệm đều chỉ mang tính
tương đối. Nhưng để có cơ sở tính toán chúng ta tạm giả thiết lưới được phân bố
rải đều một cách lý tưởng, các điểm khống chế nằm ở đỉnh các tam giác đều.
Khoảng cách giữa các điểm khống chế bằng nhau và bằng S (xem hình 5-4).
Nếu coi diện tích khống chế điểm A (phạm vi máy đặt tại A có thể
quét đến để đo vẽ chi tiết địa hình, địa vật) được xác định bởi vòng tròn
bán kính R=S/2 thì còn thừa các điểm nằm ngoài các vòng tròn (phần gạch chéo
trong hình 5-4).
Vì vậy để đảm bảo đo vẽ hết được địa hình, địa vật , khu vực khống chế
thực tế của điểm A phải là lục giác đều cạnh D =AK= S 3 ( hình5-4).
Diện tích của lục giác đều sẽ là:
1 S S
3 2
P = 6
=
S
2 3 2 2
(5-7)
Như vậy, trong trường hợp các điểm khống chế phân bố rải đều lý tưởng,
nếu biết được khoảng cách S giữa hai điểm khống chế (chiều dài cạnh tam giác
đều) chúng ta sẽ tính được diện tích khống chế của một điểm theo công thức (57).
Trong thực tế, điểm khống chế không phân bố rải đều lý tưởng, vì vậy S
trong công thức (5-7) sẽ được xem là khoảng cách trung bình giữa các điểm
khống chế.
1.3. Mật độ điểm khống chế mặt bằng
Mật độ điểm khống chế mặt bằng được tính theo công thức :
16
M =
Trong đó :
F1
P
(5-8)
F1 là 1 đơn vị diện tích;
P là diện tích khống chế của một điểm.
Số lượng điểm khống chế trên khu đo (N) được tính theo công thức:
N = F .M
(5-9)
Trong đó: F là diện tích khu đo
Ví dụ1: Tính tổng số lượng điểm khống chế cần xây dựng, biết diện tích
khu đo là 200 ha, mật độ điểm khống chế là 1 điểm/ ha.
Giải: áp dụng công thức (5-9), số lượng điểm khống chế cần xây dựng là:
N = 200 x 1 = 200 điểm
Ví dụ 2: Tính tổng số lượng điểm khống chế cần xây dựng, biết diện tích
khu đo là 200 ha, mật độ điểm khống chế là 17 điểm/ km2.
Giải: Diện tích khu đo tính theo đơn vị km2 là:
200 ha = 2 000 000 m2 = 2 km2
áp dụng công thức (5-9), ta có số lượng điểm khống chế cần xây dựng là:
N = 2 x 17 = 34 điểm
Số lượng điểm khống chế trên khu đo (N) cũng được tính công thức:
N=
F
P
(5-10)
Ví dụ 3 : Tính tổng số lượng điểm khống chế cần xây dựng, biết diện tích
khu đo là 500 ha, diện tích khống chế của một điểm là 6 ha.
Giải: áp dụng công thức (5-10), số lượng điểm khống chế cần xây dựng
là:
N=
F 500
=
63 điểm
P
8
Ví dụ 4 : Tính tổng số lượng điểm khống chế cần xây dựng, biết diện tích
khu đo là 2 km2, diện tích khống chế của một điểm là 6 ha.
Giải: Diện tích khu đo tính theo đơn vị km2 là:
2 km2 = 2 000 000 m2 = 200 ha
áp dụng công thức (5-10), ta có số lượng điểm khống chế cần xây dựng là:
17
N=
F 200
=
33 điểm
P
6
Số lượng điểm khống chế cần xây dựng trên khu đo phụ thuộc vào hai
thành phần:
- Diện tích khu đo F
- Diện tích khống chế của một điểm
Diện tích khu đo là một thông số đã biết, nhiệm vụ còn lại là chúng ta
phải xác định được diện tích khống chế của một điểm P, đồng nghĩa với việc
phải xác định được khoảng cách giữa các điểm khống chế S.
* Khoảng cách giữa các điểm khống chế S
Khi đo vẽ bản đồ địa hình theo phương pháp toàn đạc, vị trí các điểm chi
tiết địa hình địa vật được xác định bởi kết quả đo tọa độ cực (góc cực và cạnh
cực D).
m
d
Nội dung phương pháp B
toàn đạc được mô tả như hình
dv
K
m K'
5-5. Trong đó, A và B là hai
điểm khống chế đã biết tọa độ
và độ cao, K là điểm chi tiết.
D m
Để xác định vị trí điểm K, đặt
máy kinh vĩ hoặc máy toàn đạc
điện tử ở A, định hướng về B,
đo góc bằng , khoảng cách
nằm ngang D và độ chênh cao
a
h. Sai số đo góc (m) và sai
Hình 5-5: Đồ hình của phương pháp toàn dạc
số đo chiều dài D (mD) cùng
ảnh hưởng đến độ chính xác vị trí điểm K.
Độ chính xác bản đồ địa hình được đặc trưng bởi sai số trung
phương vị trí mặt bằng và độ cao của điểm chi tiết địa vật và địa hình so với
điểm khống chế trắc địa gần nhất. Trong các quy phạm thường quy định sai số
trung bình vị trí điểm địa vật rõ nét là = 0.5 mm trên bản đồ. Trong trường hợp
này sai số trung phương vị trí điểm địa vật sẽ là:
5
5
mdv = = 0,5 = 0,625 mm
4
4
Sai số vị trí điểm chi tiết trên bản đồ do các nguồn sau gây ra:
- Sai số số liệu gốc (mg)
- Sai số đo điểm chi tiết (mđo)
- Sai số vẽ điểm chi tiết (mvẽ)
2
2
mdo
= m g2 + mdo
+ mve2
(5-11)
18
Nếu bỏ qua sai số số liệu gốc, coi sai số đo và sai số vẽ điểm chi tiết ảnh
hưởng ngang nhau đến độ chính xác vị trí điểm trên bản đồ thì sai số đo điểm
chi tiết sẽ là:
mdo =
mdv
2
= 0,44 mm
Sai số đo điểm chi tiết bao gồm hai thành phần : Sai số đo góc m và sai
số đo cạnh mD. Vì vậy ta có:
2
mdo
= m2 +
mD2
(5-12)
D2
2
Nếu coi sai số đo góc và đo dài ảnh hưởng ngang nhau đến sai số tổng
hợp , thì sai số đo chiều dài sẽ là:
mD =
mdo
2
=
0,44
2
= 0,31
Đây là sai số đo dài cho phép trên bản đồ. Sai số đo dài cho phép
trên thực địa tương ứng sẽ là:
mD = 0,31M
(5-13)
Từ sai số đo dài cho phép, ta sẽ tính được khoảng cách cho phép từ máy tới
mia.
áp dụng công thức tính sai số trung phương tương đối đo dài:
(5-14)
mD 1
=
D T
Trong đó: D là khoảng cách cho phép từ máy đến mia;
1
là sai số trung
T
phương tương đối đo dài, đại lượng này phụ thuộc vào chất lượng máy, thiết bị đo dài.
Ví dụ 5: Đo dài bằng máy thị cự thì
1
1
T 300
Như vậy, từ điều kiện:
m D 0,31 .M
Suy ra:
D = m D T 0,31 .M .T
(5-15)
(5-16)
Ví dụ 6 : Bản đồ cần đo vẽ có tỷ lệ 1/2000. Khoảng cách D được đo bằng
dây thị cự trong máy quang học với sai số trung phương tương đối
1
1
.
=
T 300
Khoảng cách cho phép từ máy tới mia khi đó sẽ là:
D 0,31MT = 0.31 2000 300 ( mm) = 186 m
Tóm lại, với mỗi loại tỷ lệ bản đồ và các loại thiết bị đo dùng đo vẽ bản
đồ, ta sẽ có hai thông số tương ứng là mẫu số tỷ lệ bản đồ M và sai số trung
19
phương tương đối
1
, từ đó sẽ xác định được khoảng cách cho phép từ máy tới
T
điểm chi tiết D theo công thức (5-16). Khoảng cách cho phép giữa hai điểm
khống chế (hai điểm trạm đo) khi đó sẽ là:
(5-17)
S= D 3
Từ khoảng cách S giữa hai điểm khống chế ta sẽ xác định được diện tích
khống chế của một điểm P theo công thức (5-7). Trên cơ sở đó tính được tổng số
điểm khống chế cần xây dựng trên khu đo theo công thức (5-10).
Trên cơ sở lý thuyết này, quy phạm [1] đã đưa ra quy định khoảng cách
cho phép từ máy đến điểm chi tiết tương ứng cho từng loại tỷ lệ bản đồ cần đo
vẽ.
Sau đây là một vài số liệu trích ra từ quy phạm:
Bảng 5-3 – Khoảng cách cho phép từ máy đến điểm chi tiết
Tỉ lệ bản đồ
Khoảng cách đo chi tiết D( m)
1:5000
150
1:2000
100
1:1000
80
1:500
60
Ví dụ 7: Tính tổng số điểm khống chế cần xây dựng trong các trường hợp
được cho trong bảng 5-4.
Bảng 5-4 – Bảng số liệu tính tổng số điểm khống chế cần xây dựng
Tỉ lệ bản
đồ
Khoảng cách đo
Diện tích một
chi tiết D ( m)
tờ bản đồ (ha)
1:5000
150
500
1:2000
100
125
1:1000
80
31
1:500
60
7,5
Giải:
Bảng 5-5 – Bảng kết quả tính tổng số điểm khống chế cần xây dựng
Tỉ lệ Khoảng cách
bản đồ đo chi tiết D
( m)
Cạnh lưới
khống chế
S (m)
Diện tích Kc Diện tích Số điểm
của một
một tờ bản N= F/P
điểm ( ha)
đồ (ha)
1:5000
150
260
5,85
500
80
1:2000
100
170
2,50
125
50
20
- Xem thêm -