ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------
NGUYỄN THỊ THUỶ
CHỐNG GIAN LẬN THƢƠNG MẠI QUA GIÁ TRONG
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 05
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Tiến sĩ Phạm Quang Vinh
Hà Nội – Năm 2008
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay ở nƣớc ta thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đã và đang là một nguồn thu quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn của Ngân sách
nhà nƣớc, là phƣơng tiện vật chất để nhà nƣớc hoạt động và thực hiện chức
năng quản lý của mình. Trong những năm qua chính sách và cơ chế quản lý
thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và đạt đƣợc
những kết quả quan trọng cả về yêu cầu thu ngân sách và điều tiết quản lý vĩ
mô trong quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã
hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ
phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập.
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan, quan
trọng trong thế giới ngày nay khi làn sóng toàn cầu hoá đang diễn ra vô cùng
mạnh mẽ. Nếu nhƣ toàn cầu hoá luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực thì hội
nhập kinh tế luôn mang theo mình những cơ hội, thách thức và đe doạ. Điều
này đặt ra cho các nƣớc phải thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh
chính sách theo hƣớng mở cửa, thực hiện hội nhập với khu vực và trên thế
giới để không bị gạt ra bên lề của sự phát triển. Một trong những biểu hiện
của hội nhập kinh tế là quá trình tự do hoá thƣơng mại và thực hiện cải cách
toàn diện theo hƣớng mở cửa thị trƣờng.
Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập kinh tế, nhất là trong khuôn khổ
Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hoa Kỳ, các cam kết của Việt
Nam với APEC, AFTA và gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới, Việt Nam
đã có những bƣớc đi quan trọng nhằm triển khai áp dụng Hiệp định trị giá Hải
quan theo GATT/WTO. Ngày 6/6/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định
60/2002/NĐ-CP quy định việc xác định trị giá tính thuế theo nguyên tắc của
Hiệp định thực hiện Điều VII Hiệp định chung về thuế quan thƣơng mại (gọi
tắt Hiệp định trị giá GATT). Trên cơ sở đó, ngày 8/12/2003 Bộ Tài chính ban
hành Thông tƣ 118/2003/TT-BTC hƣớng dẫn việc thực hiện trị giá hải quan.
Tiếp theo đó Nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính Phủ
quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu thay thế Nghị định số 60/2002/NĐ-CP, Nghị định số 40/2007/NĐ-CP
ngày 16/3/07 của Chính phủ quy định chi tiết về việc xác định trị giá Hải quan
2
đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thay thế Nghị định số 155/2005/NĐ-CP. Các
văn bản pháp quy liên tục đƣợc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung theo hƣớng minh
bạch, công khai phù hợp với Luật chơi chung của Thế giới. Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/01/2006, Luật
quản lý thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007 kèm theo đó là Nghị định
số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ Nghị định quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.
Cùng với việc bắt đầu triển khai áp dụng hệ thống xác định trị giá tính
thuế mới, Việt Nam đứng trƣớc một thách thức mới là tình trạng gian lận
thƣơng mại qua giá ngày càng gia tăng. Trong điều kiện đó, việc tổ chức
phòng ngừa và chống gian lận thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu
trở thành một yếu tố quan trọng, đảm bảo chống thất thu cho Ngân sách nhà
nƣớc và tạo điều kiện lành mạnh hoá môi trƣờng cạnh tranh trên thị trƣờng
nội địa. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của công tác chống gian lận thƣơng
mại qua giá trƣớc đòi hỏi bức xúc của thực tế, các nhà quản lý phải thay đổi
phƣơng pháp quản lý để thích ứng với yêu cầu hội nhập. Trong bối cảnh đó,
việc nghiên cứu và triển khai áp dụng đề tài: “Chống gian lận thƣơng mại
qua giá trong hoạt động nhập khẩu ở Việt nam” có ý nghĩa to lớn cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi thực hiện cải cách thuế đến nay cùng với việc bắt đầu triển khai
áp dụng hệ thống xác định trị giá tính thuế mới, đã có một số công trình
nghiên cứu về đề tài này, nhƣng nhìn chung do mục tiêu của từng đề tài nên
chƣa có nghiên cứu tổng thể hoặc đi sâu vào từng vấn đề cụ thể mà các công
trình khoa học trƣớc đây chủ yếu tập trung nghiên cứu vào các nhóm sau:
- Nhóm chống thất thu thuế nhƣ: Đề tài “ Một số vấn đề sử dụng công
cụ thuế và chống thất thu thuế ở các địa bàn biên giới phía Bắc, Luận án của
Thạc sỹ kinh tế Đặng Hồng Trung; Đề tài “ Thất thu thuế và giải pháp chống
thất thu thuế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ’, Luận án của Thạc sỹ kinh tế của
Nguyễn Duy Long; Đề tài “Chống thất thu thuế trên địa bàn quận Đống Đa”,
Luận án Thạc sỹ của Nguyễn Viết Tuấn; Đề tài “Chống gian lận thuế giá trị
gia tăng trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận án của Thạc sỹ Viên Viết
Hồng; Đề tài khoa học của ngành Hải quan “Một số giải pháp chống gian lận
thƣơng mại qua giá trong tiến trình hội nhập” của Mai Xuân Thành.
3
- Nhóm quản lý thu thuế đối với một hoặc một vài sắc thuế trên địa bàn
tỉnh, thành phố nhƣ: Đề tài “Những giải pháp tăng cƣờng quản lý thuế hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong tiến trình hội nhập AFTA của Việt Nam”,
Luận án tiến sỹ Nguyễn Danh Hƣng; Đề tài “Giải pháp hoàn thiện chính sách
thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập”, Luận án của
thạc sỹ kinh tế Lê Hồng Tân; Đề tài “Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay”, Luận án thạc sỹ kinh doanh và
quản lý của Trần Thành Tô; Đề tài “Công tác quản lý thu thuế ngoài quốc
doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận án thạc sỹ của Vũ Thị Toản; Đề
tài “Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế giá trị gia tăng và
thuế thu nhập doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá”, Luận án thạc sỹ
kinh tế Mai Đình Tú.
Các đề tài trên có đề cập ở mức độ nhất định về chống thất thu thuế,
chống gian lận thƣơng mại, quản lý thuế nói chung và thuế xuất nhập khẩu
nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu độc lập về chống gian lận thƣơng mại qua
giá trong hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam cũng chƣa có công trình khoa học
nào dƣới dạng luận văn thạc sỹ, luận văn tiến sỹ về đề tài này đƣợc công bố.
3- Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
*Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về chống gian lận
thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu, để đề xuất các giải pháp
chống gian lận thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam
hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chống gian lận thƣơng mại qua giá
trong hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay trƣớc tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng công tác chống gian lận thƣơng mại qua giá trong
hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp chống gian lận thƣơng mại qua giá trong
hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam, đảm bảo chống thất thu cho Ngân sách nhà
nƣớc và tạo điều kiện lành mạnh hoá môi trƣờng trên thị trƣờng cạnh tranh
nội địa.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Chống gian lận thƣơng mại qua giá trong hoạt
động nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác
chống gian lận thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam kể
từ khi có Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991; Văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan; quá trình sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế
nhập khẩu, thuế xuất khẩu năm 1998; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
năm 2005; Luật Hải quan năm 2001; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Hải quan năm 2005; Luật quản lý thuế năm 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, các quan điểm, chính sách, pháp luật của nhà nƣớc về các vấn
đề có liên quan, phân tích sự việc trong sự biến động gắn với điều kiện lịch sử
cụ thể. Ngoài ra, các phƣơng pháp chuyên ngành đƣợc sử dụng trong quá
trình nghiên cứu nhƣ thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn giải, tiếp cận hệ
thống…
Luận văn kết hợp nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến gian lận
thƣơng mại, gian lận thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu ở ngành
Hải quan. Đồng thời, có kết hợp nêu kinh nghiệm chống gian lận thƣơng mại
qua giá của một số nƣớc tiến tiến.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Luận văn hệ thống hoá có bổ sung những vấn đền lý luận cơ bản về
chống gian lận thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam.
Đánh giá đúng thực trạng công tác chống gian lận thƣơng mại qua giá.
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi đảm bảo chống thất thu cho Ngân
sách nhà nƣớc và tạo điều kiện lạnh mạnh hoá môi trƣờng trên thị trƣờng
cạnh tranh nội địa nhƣ: Nhóm giải pháp về điều chỉnh môi trƣờng pháp lý;
Nhóm giải pháp về mô hình tổ chức và đào tạo luân chuẩn cán bộ trị giá;
Nhóm giải pháp về hoàn thiện biện pháp kiểm tra trị giá, khai báo, tham vấn
và xác định trị giá, Nhóm giải pháp về hoàn thiện biện pháp kiểm tra sau
thông quan và một số các giải pháp khác.
5
7.Bố cục của luận văn
Không kể phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về gian lận thƣơng mại, gian
lận thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng chống gian lận thƣơng mại qua giá trong hoạt
động nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cƣờng chống gian lận thƣơng
mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI,
GIAN LẬN THƢƠNG MẠI QUA GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU.
1.1. Khái niệm và các hình thức gian lận thƣơng mại, gian lận
thƣơng mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu.
1.1.1. Khái niệm gian lận thƣơng mại, gian lận thƣơng mại qua giá.
Quan hệ kinh tế ngay từ đầu đƣợc xác lập trên cơ sở quan hệ sản xuất
của các phƣơng thức sản xuất. Biểu hiện của nó trƣớc hết là các quan hệ thị
trƣờng, tức là các quan hệ gắn liền với trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Các bên
tham gia vào mối quan hệ kinh tế không đi vào trao đổi giá trị sử dụng đơn
thuần mà nhằm vào mục đích lợi nhuận, từ đó kéo theo mâu thuẫn ngày càng
sâu sắc giữa các bên trong việc chạy theo lợi nhuận tối đa và cạnh tranh nhằm
quyền thống trị thị trƣờng, làm nảy sinh những khía cạnh tiêu cực trong mối
quan hệ này. Đó là ý thức chiếm đoạt lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia
vào giao dịch thƣơng mại. Ý thức chiếm đoạt này làm nảy sinh các hành vi
gian lận thƣơng mại.
Sự phát triển nhanh chóng của lực lƣợng sản xuất gắn liền với những cố
gắng mở rộng thị trƣờng và nơi tiêu thụ hàng hoá khiến cho sản xuất ngày
càng đƣợc đẩy mạnh, giao lƣu thƣơng mại đƣợc tăng cƣờng. Điều đó dẫn tới
những nguy cơ gian lận thƣơng mại ngày càng tăng cả về quy mô, phạm vi,
hình thức và tính chất từ đơn giản đến tinh vi, phức tạp. Nguy cơ gian lận
thƣơng mại sẽ trở thành hiện thực và tỉ lệ thuận với chiều yếu kém về chính
sách và khả năng kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan quản lý.
Nhƣ vậy, bản chất của gian lận thƣơng mại là sự gian dối trong hoạt
động mua bán hàng hoá nhằm mục đích chiếm đoạt lợi ích kinh tế một cách
bất hợp pháp.
Theo định nghĩa của Tổ chức Hải quan thế giới, gian lận thương mại
(trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan) là những hành vi trái với qui
định của của pháp luật về hải quan nhằm mục đích: “trốn thuế đánh vào việc
nhập khẩu hàng hoá; trốn tránh những quy định về hạn chế hay cấm đoán đối
với hàng hoá nhập khẩu; thu nhận những khoản thoái chi bất hợp lý; thu
nhận những lợi thế cạnh tranh không bình đẳng trong kinh doanh”. Theo đó,
7
gian lận thương mại qua giá là hành vi khai báo gian dối giá trị thực của của
hàng hoá nhập khẩu nhằm trốn tránh những nghĩa vụ quy định cho hàng
nhập khẩu đó.
1.1.2. Các hình thức gian lận thƣơng mại, gian lận thƣơng mại qua
giá trong hoạt động nhập khẩu.
1.1.2.1. Các hình thức gian lận thương mại phổ biến trong hoạt động
nhập khẩu.
Gọi là các hình thức gian lận thƣơng mại phổ biến bởi vì đây là những
hình thức gian lận thƣơng mại có tính chất chung phổ biến nhất xảy ra trong
thực tế đã bị cơ quan Hải quan phát hiện xử lý. Trên thực tế có rất nhiều hình
thức, thủ đoạn gian lận thƣơng mại khác đã và đang xảy ra ở dạng này hoặc
dạng kia, ở vào đối tƣợng này hoặc đối tƣợng kia, ở thị trƣờng này hoặc thị
trƣờng khác, thậm chí các cơ quan chức năng chƣa phát hiện đƣợc nên không
thể đƣa ra nghiên cứu cùng một lúc đƣợc. Vì vậy, trên cơ sở những loại hình
gian lận thƣơng mại chủ yếu này có thể bổ sung thêm những trƣờng hợp cụ
thể làm sáng tỏ hành vi, thủ đoạn của gian lận thƣơng mại.
Thực tế trên thế giới và ở nƣớc ta trung bình hàng năm đã và đang xảy
ra hàng chục nghìn vụ gian lận thƣơng mại trên khắp các tuyến vận chuyển
với nhiều nội dung, tình tiết phức tạp đa dạng. Nhƣng các chuyên gia kinh tế,
các nhà Hải quan học đã nghiên cứu và sắp xếp phân loại, hệ thống hoá thành
hai nhóm gian lận thƣơng mại chủ yếu là các hình thức gian lận thƣơng mại
phổ biến và gian lận thƣơng mại qua giá để giúp cho công tác phát hiện xây
dựng các biện pháp đấu tranh phù hợp và có hiệu quả.
Các hình thức gian lận thƣơng mại phổ biến bao gồm:
Gian lận thƣơng mại do lợi dụng chính sách thuế nhƣ:
- Chính sách xây dựng biểu thuế: Thuế nhập khẩu hiện hành còn đánh
vào mục đích sử dụng từ đó có những mặt hàng cùng tính chất, nhƣng có thuế
xuất nhập khẩu chênh lệch đến vài chục lần do mục đích sử dụng khác nhau
nên tạo kẽ hở trong việc luồn lách trong kê khai, kiểm hoá, áp mã, áp giá tính
thuế để đƣợc hƣởng thuế suất thấp, gây thất thu cho ngân sách nhà nƣớc. Ví
dụ: Trong biểu thuế nhập khẩu ban hành kèm theo Quyết định số 280/TTg
ngày 28/5/1994 của Thủ tƣớng chính phủ, mặt hàng xe đạp thuộc nhóm mã số
8712, qui định 871210: xe đạp đua có thuế suất 5%. Mã 871290: Loại khác có
thuế suất 70%. Trong khi đó trung tâm tiêu chuẩn đo lƣờng chất lƣợng hàng
8
hoá lại chƣa có quy định cụ thể tiêu chuẩn nhƣ thế nào đƣợc gọi là xe đạp đua
là một sơ hở để các gian thƣơng nghiên cứu vận dụng một cách linh hoạt. Kết
quả là hàng vạn chiếc xe đạp kiểu dáng xe đua (xe thể thao, xe địa hình) đƣợc
sản xuất ở nƣớc ngoài theo đơn đặt hàng trong nƣớc đã tràn vào Việt Nam với
giá nhập khẩu bình quân khoảng 70USD/ chiếc đƣợc chủ hàng khai báo là xe
đạp đua và hƣởng thuế suất là 5% nhƣng thực chất đó không phải là xe đạp
đua (vì tiêu chuẩn của xe đạp đua theo qui định mới nhất là giá phải từ
2.000USD/ chiếc trở lên, nặng từ 20kg trở lên…) gây thất thu cho ngân sách
nhà nƣớc hàng chục tỷ đồng.
- Khai sai mã số thuế, giá tính thuế;
- Kinh doanh “ma” đăng ký không trung thực trong kinh doanh để lợi
dụng chế độ ƣu đãi về thời gian nộp thuế;
- Khai sai hoặc thổi phồng số tiền khẩu trừ thuế, hoàn thuế.
Gian lận do ý thức kém của đối tƣợng nộp thuế nhƣ:
- Hình thức thứ nhất: Lợi dụng chế độ hàng tạm nhập tái xuất, hàng tạm
xuất tái nhập
Hàng tạm nhập tái xuất, hàng tạm xuất tái nhập là những hàng hoá, vật
phẩm tạm thời đƣa vào trong nƣớc một khoản thời gian nhất định sau đó phải
tái xuất toàn bộ ra khỏi lãnh thổ và tạm thời đƣa ra nƣớc ngoài những hàng
hoá, vật phẩm sau đó phải tái nhập trở lại toàn bộ.
Nguyên tắc cơ bản để thực hiện các loại hình tạm nhập để tái xuất, tạm
xuất để tái nhập là: Phải đƣợc cơ quan có thẩm quyền (Bộ Thƣơng mại) cho
phép; Phải khai báo thủ tục hải quan và chịu sự giám sát quản lý của cơ quan
Hải quan; Phải tái xuất hoặc tái nhập toàn bộ hàng hoá vật phẩm sau khi tạm
nhập tái xuất.
Lợi dụng chế độ này một số ngƣời đã tìm mọi thủ đoạn để gian lận nhằm
thu lợi bất chính.
Ví dụ: Đối tƣợng gian lận là rƣợu Vodka.
Ngày 6/10/2003, Hải quan cửa khẩu biên giới đƣờng bộ giữa Nauy và
Thụy Điển, thuộc thành phố OSLO, Nauy đã tiếp nhận làm thủ tục tạm nhập
cho 6 chiếc xe tải chuyên chở 37.000 chai rƣợu Vodka từ Hunggari chuyển
đến cảng OSLO để chuẩn bị đƣa xuống tàu biển tới Canađa. Nhƣng mấy
ngày hôm sau chủ hàng đến cơ quan Hải quan để khai báo xin tái xuất toàn bộ
lô hàng về lại Hunggari với lý do dung lƣợng của chai Volka không đúng nhƣ
9
hợp đồng (hợp đồng quy định rƣợu Volka nhập khẩu mỗi chai là 0,7lít thực tế
là loại volka 0,5lít) để đổi rƣợu khác. Nhƣng sau đó trên đƣờng vận chuyển
những nhà nhập khẩu rƣợu đã đƣa 6 xe ôtô rƣợu đến thành phố Eilsvol của Na
uy để tiêu thụ.
Nhƣ vậy gian lận thƣơng mại đối với loại hình tạm nhập để tái xuất, tạm
xuất để tái nhập rất phổ biến và những hành vi này đƣợc tính toán từ trƣớc.
Hành vi chủ yếu của loại hình này là mƣợn hình thức “tạm nhập tái
xuất, tạm xuất tái nhập” để đƣa hàng trái phép vào trong nƣớc sau đó đƣa
hàng trái phép ra nƣớc ngoài.
Đặc trƣng cơ bản của loại hình gian lận này là ngƣời phạm tội cố tạo ra
các bộ hồ sơ giấy tờ cốt để hợp thức hoá số hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu
trái phép. Có lúc ngƣời phạm tội còn cấu kết, móc ngoặc với một số cán bộ
nhân viên trong cơ quan có thẩm quyền, hợp pháp hoá những hàng xuất nhập
khẩu trái phép bằng con đƣờng “tạm nhập tái xuất” hoặc “tạm xuất tái nhập”
để tiêu thụ ngày trong nội địa hoặc bán ra nƣớc ngoài.
- Hình thức thứ hai: Lợi dụng chế độ sản xuất hàng gia công và nhập
khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Các đối tƣợng gian lận thƣơng
mại thƣờng nhập khẩu nguyên phụ liệu nhƣng không dùng để sản xuất, chế
biến sản phẩm mà tiêu thụ trong nội địa; Nhập nguyên phụ liệu đƣa vào tiêu
thụ nội địa và thay thế nguyên phụ liệu nội địa để sản xuất chế biến sản phẩm;
Thông đồng nâng định mức tiêu hao nguyên phụ liệu để đƣa số dƣ thừa tiêu
thụ trong nƣớc.
Đặc điểm chính của loại hình gian lận thƣơng mại này nhƣ sau: Hoạt
động gia công xuất khẩu và nhập khẩu nguyên phụ liệu sản xuất là một số
hình thức xuất nhập khẩu đặc biệt đã bị lợi dụng để thu lợi bất chính. Hành vi
gian lận thông thƣờng là khai báo không đúng số lƣợng, trọng lƣợng hàng hoá
xuất nhập khẩu, sử dụng không đúng mục đích xuất nhập khẩu, kể cả lợi dụng
nhập khẩu hàng cấm; Gian lận thƣơng mại trong lĩnh vực gia công và nhập
khẩu nguyên phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu là hành vi phạm pháp khó
phát hiện đấu tranh vì những hoạt động sản xuất mang yếu tố kỹ thuật đƣợc
bảo đảm bằng sự thoả thuận của hai bên; Việc kiểm tra phát hiện những hành
vi trong lĩnh vực gia công và nhập khẩu nguyên phụ liệu để sản xuất hàng
xuất khẩu phần lớn phải chờ đến lúc thanh khoản các hợp đồng. Khoảng thời
gian từ khi nhập khẩu nguyên phụ liệu cho đến công đoạn kết thúc một hợp
10
đồng rất dài vì vậy đã tạo điều kiện để các đối tƣợng thực hiện các hành vi
phạm pháp. Công tác phát hiện của cơ quan Hải quan mang tính thụ động giải
quyết hậu quả không mang tính chủ động đấu tranh ngăn chặn không để cho
hành vi phạm tội xảy ra; Ngƣời thuê gia công và nhận gia công dễ thông đồng
với nhau để gian lận thƣơng mại. Bên cạnh việc thuê và nhận gia công giữa
doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp nƣớc ngoài, việc thuê và nhận gia
công giữa hai đối tác cùng chung một công ty nhƣng có trụ sở ở hai nƣớc
khác nhau hoạt động trên cơ sở Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam cũng
đang phát triển rất phức tạp. Lợi dụng việc đƣợc phép thành lập công ty, chi
nhánh ở Việt Nam theo Luật Đầu tƣ, một số công ty nƣớc ngoài đã thông
đồng với nhau đƣa hàng hoá, nguyên phụ liệu vào trong nƣớc với danh nghĩa
thuê gia công nhƣng thực chất là tuồn hàng trái phép vào cho công ty, chi
nhánh của họ để tiêu thụ trong nội địa Việt Nam và thay thế bằng nguồn hàng
hoá, nguyên phụ liệu của Việt Nam dùng sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Đây là
một trong những hành vi gian lận thƣơng mại rất khó phát hiện và xử lý.
Biểu đồ loại hình gian lận thương mại lợi dụng sản xuất hàng gia công
đối với hai đối tác cùng chung một công ty ở nước ngoài.
Công ty mẹ
ở nƣớc
ngoài A
Nhập khẩu
nguyên
XK sản phẩm
hoặc xuất sang
thị trƣờng khác
liệu
Thị trƣờng
nội địa nƣớc
B
Thay thế nguyên liệu nội địa
Xí nghiệp gia
công (công ty
con ở nƣớc
B)
Bán nguyên liệu nhập khẩu
11
- Hình thức thứ ba: Lợi dụng chế độ chuyển khẩu và xuất nhập khẩu
những hàng hoá thuộc lĩnh vực đặc biệt.
Chuyển khẩu là một trong những phƣơng thức vận tải thƣơng mại phổ
biến hiện nay trên thế giới. Một mặt do ngƣời mua và ngƣời bán ở cách xa
nhau có khi có hàng hoá phải chuyên chở vòng quanh thế giới. Mặt khác do
hành thức buôn bán đòi hỏi. Ở nƣớc ta hàng chuyển khẩu bao gồm các loại:
Hàng hoá đƣợc chuyển thẳng từ cảng nƣớc xuất khẩu đến cảng nƣớc nhập
khẩu không đến cảng Việt Nam; Hàng hoá đƣợc chuyên chở đến cảng Việt
Nam nhƣng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam mà đi luôn tới cảng
nhập khẩu; Hàng đƣa vào kho ngoại quan hoặc khu vực chịu sự quản lý của
Hải quan rồi chuyển đến nƣớc khác không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt
Nam theo quy chế kho ngoại quan.
Nhà nƣớc ban hành những chính sách luật lệ riêng để quản lý chặt chẽ
các đối tƣợng này. Hầu hết những đối tƣợng hàng hoá chuyển khẩu đều có
những thủ tục riêng biệt và đƣợc miến thuế xuất nhập khẩu và thủ tục xuất
nhập khẩu đƣợc tiến hành đơn giản thuận tiện. Về nguyên tắc chuyển khẩu là
một hoạt động thƣơng mại có lợi cho các nhà xuất nhập khẩu. Đặc biệt các
nƣớc đang phát triển loại hình này còn tạo ra thu nhập từ các dịch vụ neo đậu,
kho tàng, bốc xếp, tái chế…Tuy nhiên một số đối tƣợng gian lận đã triệt để
khai thác những sơ hở của loại hình này để kiếm lợi. Đây chính là hành vi
gian lận thƣơng mại.
Nhƣ vậy gian lận chuyển khẩu và chuyển tải là việc sử dụng một nƣớc
thứ ba để giấu nguồn gốc, lai lịch thật sự của hàng hoá để trốn tránh sự kiểm
tra, phát hiện của cơ quan Hải quan nƣớc nhập khẩu. Chính tại nƣớc thứ 3
(nƣớc chuyển khẩu) chủ hàng đã biến những lô hàng có nguồn gốc từ những
nƣớc xuất khẩu bị hạn chế bởi côta, giấy phép thành những lô hàng đƣợc
hƣởng chế độ ƣu đãi bởi xuất khẩu với nguồn gốc xuất xứ tại nƣớc này. Bằng
thủ đoạn này những ngƣời đối tƣợng gian lận đã tránh đƣợc các chỉ định
nghiêm ngặt đối với hàng hoá mà họ nhập khẩu. Thậm chí còn đƣợc hƣởng
ƣu đãi về thuế và ƣu đãi khác.
Một số hình thức gian lận chủ yếu đối với loại hình thƣơng mại này nhƣ:
Hàng hoá đƣợc chuyển từ một nƣớc bị hạn chế đến nƣớc có ƣu đãi để chuyển
khẩu - ở đây những ngƣời có hàng thay thế bằng nhãn của nƣớc chuyển khẩu;
Hàng hoá đƣợc đƣa vào nƣớc nhận chuyển khẩu với tƣ cách là hàng tiêu dùng
12
ở nƣớc này. Sau đó dùng nhãn hiệu của nƣớc chuyển khẩu gắn vào hàng hoá
trở thành hàng hoá của nƣớc chuyển khẩu xuất khẩu; Hàng hoá đƣợc đƣa vào
nƣớc chuyển khẩu nhƣ là nguyên liệu để sản xuất hoặc chế biến thành sản
phẩm. Thông thƣờng hàng đã đƣợc chế biến một nửa còn lại là nguyên liệu
của nƣớc chuyển khẩu. Nhƣng đƣợc khai báo với hải quan là nguyên phụ liệu
xuất xứ của nƣớc chuyển tải; Thậm chí hàng hoá đƣợc đƣa lên tàu từ nƣớc
xuất xứ hàng hoá để sang nƣớc thứ hai nhƣng đã đƣợc hợp thức hoá đủ hồ sơ
giấy tờ là hàng có “xuất xứ” từ nƣớc thứ 3.
So với các loại hình gian lận thƣơng mại khác, gian lận thƣơng mại
trong lĩnh vực chuyển khẩu, chuyển tải có những nét đặc biệt hơn. Đó là hành
vi phạm tội gây ảnh hƣởng cho cả ba nƣớc.
Cùng một lúc cần phải lƣu ý:
Trƣớc hết đối với nƣớc nhập khẩu: Sẽ thất thoát nguồn thu nhập nếu
nƣớc nhập khẩu dành ƣu đãi (mức thuế thấp) cho hàng đƣợc ngụy trang thuộc
những nƣớc đƣợc ƣu đãi; Các nhà nhập khẩu chân chính sẽ không thể cạnh
tranh nổi với những hàng hoá đƣợc nhập khẩu gian lận; Gây thiệt hại cho nền
sản xuất nội địa vì các chế độ bảo hộ côta, giấy phép đã bị lợi dụng.
Đối với nƣớc xuất khẩu: Uy tín bị giảm sút do có liên quan đến những
hành vi phạm pháp. Nƣớc nhập khẩu sẽ tăng cƣờng kiểm soát, kiểm tra chặt
chẽ hoạt động xuất khẩu tới nƣớc nhập khẩu. Mặt khác, nƣớc nhập khẩu đƣa
ra những quy chế côta, giấy phép để thu hẹp xuất xứ hàng xuất khẩu.
Đối với nƣớc chuyển khẩu: Do bị lợi dụng làm “bàn đạp” đƣa hàng đến
nƣớc thứ hai nên côta, giấy phép bị thất thoát. Mặt khác do lƣợng hàng xuất
khẩu sang nƣớc thứ hai tăng khống sẽ hạn chế số hàng hoá đáng lẽ ra đƣợc
xuất khẩu sang nƣớc thứ hai. Hơn nữa nƣớc nhập khẩu sẽ soát xét lại quan hệ
thƣợng mại giữa hai nƣớc và sẽ hạn chế đối với nƣớc chuyển khẩu.
Nhƣ vậy gian lận thƣơng mại lợi dụng chế độ chuyển khẩu và những
quy định đối với hàng hoá thuộc lĩnh vực đặc biệt là những hành vi gian dối
giả mạo giấy tờ hồ sơ nhằm hợp thức hoá hàng của nƣớc chuyển khẩu để đƣa
hàng hoá này vào nƣớc thứ 3 để thu lợi bất chính.
Đặc điểm của loại hình thƣơng mại này chỉ xảy ra khi có các quy định
ràng buộc để nhận đƣợc các ƣu đãi thƣơng mại đã ký kết và thừa nhận giữa
các nƣớc.
13
Ngƣời lợi dụng thƣơng mại phải nghiên cứu nắm đƣợc các thoả thuận ƣu
đãi để hợp thức hoá hồ sơ giấy tờ của nƣớc đƣợc hƣởng quyền ƣu đãi và
thƣờng sử dụng cảng của các nƣớc này để xuất khẩu hàng tới nƣớc kia.
Gian lận thƣơng mại xuất nhập khẩu những hàng hoá đặc biệt là lợi
dụng việc xuất nhập khẩu hàng hoá thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng để
buôn bán qua biên giới trái phép thu lợi bất chính.
- Hình thức thứ tư: Lợi dụng chế độ quá cảnh mƣợn đƣờng để nhập khẩu
hàng tiêu thụ trong nƣớc.
Chế độ quá cảnh mƣợn đƣờng là những quy định đối với phƣơng tiện,
hàng hoá của nƣớc thứ nhất đƣợc phép đi ngang qua lãnh thổ của một nƣớc
thứ hai để đến nƣớc thứ ba. Đây là những hoạt động thƣơng mại thông thƣờng
giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhau về
kinh tế, thƣơng mại.
Theo quy định của luật pháp Việt Nam thì phƣơng tiện vận tải, hàng hoá
quá cảnh không phải đối tƣợng chịu thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu nhƣng
phải đảm bảo các nguyên tắc chủ yếu sau: Phải đƣợc Bộ Thƣơng mại cho
phép vận chuyển hàng quá cảnh đi thẳng bằng đƣờng hàng không; Phải tuân
thủ đúng luật pháp Việt Nam và chịu sự giám sát của cơ quan Hải quan; Phải
xuất khẩu toàn bộ hàng hoá đã nhập khẩu vào Việt Nam và cấm tiêu thụ hàng
quá cảnh trên lãnh thổ Việt Nam.
Thủ đoạn gian lận đƣợc sử dụng ở loại hình này rất nhiều dạng nhƣng
tập trung ở bốn loại: Giả mạo hồ sơ giấy tờ để tiến hành quá cảnh, mƣợn
đƣờng; Tuồn hàng đang quá cảnh mƣợn đƣờng vào nội địa trong lúc vận
chuyển hoặc dừng lại dọc đƣờng; Đánh tráo hàng hoá quá cảnh mƣợn đƣờng
bằng những hàng hoá khác; Đƣa lẫn hàng của nƣớc cho quá cảnh, mƣợn
đƣờng vào lô hàng đang vận chuyển để nhập khẩu vào nƣớc thứ ba nhằm
tránh sự kiểm soát của cơ quan Hải quan.
Nhƣ vậy gian lận thƣơng mại lợi dụng hàng quá cảnh mƣợn đƣờng là
hành vi “mƣợn cớ” hoặc giả mạo giấy tờ tạo “vỏ bọc” hợp pháp để đƣa hàng
trái phép vào trong nƣớc hoặc tuồn hàng trái phép ra nƣớc ngoài; Đối tƣợng
thƣờng lợi dụng sơ hở của cơ quan chức năng để thực hiện hành vi phạm tội;
Hành vi gian lận thƣơng mại lợi dụng hàng quá cảnh là cố ý.
14
- Hình thức thứ 5: Khai báo gian dối chất lƣợng và số lƣợng hàng hoá
xuất nhập khẩu nhằm hợp thức hoá những hành vi vi phạm pháp luật hải quan
nhằm mục đích trốn thuế và thu lợi bất chính.
Những hình thức gian lận chủ yếu của loại hình gian lận thƣơng mại này
là: Số lƣợng hàng hoá thực xuất, thực nhập nhiều hơn số lƣợng khai báo; Chất
lƣợng hàng hoá thực xuất, thực nhập khác với chất lƣợng hàng hoá khai báo;
Hàng hoá thực xuất, thực nhập khác với nhãn hiệu hàng hoá khai báo.
Phần lớn các vụ gian lận về chất lƣợng, tính năng và giá trị sử dụng của
hàng hoá đều là các mặt hàng có cấu tạo phức tạp, những thiết bị công nghiệp
hoặc những sản phẩm đƣợc chế tạo bởi công nghệ cao rất khó nhận biết cụ thể
nếu không có sự hỗ trợ của phƣơng tiện kiểm tra hiện đại. Các đối tƣợng gian
lận lợi dụng sự hạn chế của cán bộ hải quan về trình độ thƣơng phẩm học và
thiếu phƣơng tiện kiểm tra, giám định hàng hoá để thực hiện hành vi gian lận.
- Hình thức thứ sáu: Lợi dụng những loại hình xuất nhập khẩu khác
+ Lợi dụng hàng chuyển tiếp: Nói là hàng chuyển tiếp nhƣng thực chất
là hàng hoá nhập khẩu có tính chất thƣơng mại của các tổ chức kinh doanh
xuất nhập khẩu và của các tổ chức cá nhân khác. Theo nguyên tắc chung tất
cả hàng hoá nhập khẩu phải để tại khu vực cửa khẩu để hoàn thành thủ tục hải
quan xong mới đƣợc đƣa vào nội địa. Nhƣng đối với hàng hoá chuyển tiếp là
sự vận dụng nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hàng chuyển
tiếp không bị kiểm tra hoặc chỉ bị kiểm tra sơ bộ tại cửa khẩu. Thông thƣờng
các doanh nghiệp xin chuyển tiếp hàng trong trƣờng hợp nhập khẩu xa trụ sở
công ty, thị trƣờng tiêu thụ, thiếu điều kiện bảo quản cất giữ. Việc xin chuyển
tiếp hàng hoá về nơi tiêu thụ, cất giữ để hoàn thành thủ tục hải quan nhằm
giảm chi phí thuê kho bãi và bốc xếp hàng hoá.
Biểu đồ hàng chuyển tiếp:
Hàng nhập khẩu
Cửa khẩu
Hàng chuyển tiếp
Địa điểm nội địa
hoàn thành thủ
tục hải quan để
giải phòng hàng
15
Lợi dụng hình thức này một số đối tƣợng gian lận thƣơng mại xin
chuyển tiếp. Nhiều công ty, doanh nghiệp không phải xin chuyển tiếp hàng
nhập khẩu về khu vực nơi đóng trụ sở hoặc có chi nhánh đại diện mà mục
đích chủ yếu là chuyển tiếp đến nơi dễ tiêu thụ và để dễ thực hiện hành vi
gian lận. Để chuyển tiếp hàng đến địa điểm nhƣ vậy, các công ty có hàng
thƣờng dùng phƣơng thức uỷ thác cho các công ty xuất nhập khẩu trực tiếp
khai báo làm thủ tục hải quan.
Nhƣ vậy gian lận thƣơng mại đối với hàng chuyển tiếp là loại hình gian
lận xảy ra trong hoạt động chuyển tiếp hàng nhập khẩu từ cửa khẩu nhập đầu
tiên đến một địa điểm khác trong nội địa.Thủ đoạn của các đối tƣợng gian lận
là lợi dụng xin chuyển tiếp để tuồn hàng nhập khẩu trái phép ra khỏi khu vực
kiểm soát của hải quan ở cửa khẩu và tìm cách tiêu thụ nội địa. Một số đối
tƣợng đã mua chuộc cán bộ nhân viên thuộc cơ quan chức năng để thông
đồng lợi dụng chế độ chuyển tiếp hàng hoá để thu lợi bất chính.
+ Lợi dụng danh nghĩa kinh doanh loại hàng xuất nhập khẩu này để xuất
nhập khẩu trái phép hàng hoá khác.
++ Lợi dụng uỷ thác xuất nhập khẩu hàng quá cảnh mƣợn đƣờng: Lợi
dụng xuất nhập cảnh, quá cảnh là những hành vi gian lận đƣợc thực hiện ngay
trong chính những hàng hoá là đối tƣợng quá cảnh mƣợn đƣờng. Nhƣ việc
nhập khẩu quá cảnh mƣợn đƣờng nhƣng không đƣa hàng ra khỏi lãnh thổ quá
cảnh mƣợn đƣờng mà lại để tiêu thụ trong nƣớc hoặc một số hành vi sai trái
khác. Ở đây sẽ đề cập đến một số hành vi gian lận: mƣợn danh nghĩa kinh
doanh xuất nhập khẩu quá cảnh, mƣợn đƣờng để xuất nhập khẩu mặt hàng
khác. Những mặt hàng này có thể là hàng cấm xuất nhập khẩu hoặc hàng xuất
nhập khẩu là đối tƣợng phải nộp thuế hoặc vừa là hàng thuộc đối tƣợng xuất
nhập khẩu hạn chế vừa là hàng xuất nhập khẩu chịu thuế.
Hàng quá cảnh mƣợn đƣờng là hàng hoá thuộc đối tƣợng ƣu đãi và thực
hiện theo quy chế riêng. Vì vậy ngoài lợi dụng xuất nhập khẩu quá cảnh
mƣợn đƣờng để tiêu thụ, thay thế bằng những hàng khác, các đối tƣợng gian
lận thƣơng mại còn gian lận xin phép kinh doanh xuất nhập khẩu những mặt
hàng khác thậm chí ngay cả những mặt hàng cùng loại.
16
++ Lợi dụng nhập khẩu hàng viện trợ: Hàng viện trợ là loại hàng hoá
không mang tính thƣơng mại đƣợc tổ chức hoặc cá nhân nƣớc ngoài gửi cho
tổ chức cá nhân trong nƣớc vì mục đích nhân đạo và hữu nghị.
Về nguyên tắc hàng viện trợ là đối tƣợng không chịu thuế xuất nhập
khẩu nhƣng phải đƣợc Bộ Tài chính cho phép. Vì vậy một số cá nhân đã lợi
dụng loại hình này để nhập khẩu trái phép.
++ Lợi dụng chế độ ƣu đãi đối với hàng hoá của đối tƣợng ngoại giao:
Lợi dụng chế độ riêng đối với hàng hoá của ngoại giao đoàn một số đối tƣợng
đã hợp thức hoá giấy tờ để thu lợi.
Đối tƣợng thực hiện hành vi gian lận chủ yếu là một số tổ chức cá nhân
có nhiệm vụ liên quan và có thân phận ngoại giao nhƣng sa sút đạo đức phẩm
chất và danh dự, cấu kết với một số đối tƣợng xấu để gian lận thu lợi bất
chính.
- Hình thức thứ 7: Xuất nhập khẩu hàng hoá giả mạo và hàng hoá vi
phạm bản quyền
Hàng giả là những hàng hoá kể cả bao bì mang nhãn hiệu, tên gọi giống
hệt nhãn hiệu, tên gọi của những hàng hoá khác nhƣng không thực hiện đúng
quy định của pháp luật về đăng ký nhẵn hiệu, tên gọi của những hàng hoá đó.
Hàng hoá vi phạm bản quyền là những hàng hoá đƣợc sản xuất sao chép,
tạo dáng trực tiếp hoặc gián tiếp từ những hàng hoá khác nhƣng không đƣợc
phép của ngƣời sở hữu bản quyền và vi phạm quy định của pháp luật về
quyến sở hữu công nghiệp và trí tuệ.
Tình trạng buôn bán trao đổi hàng giả mạo hàng ăn cắp bản quyền trên
thị trƣờng ngày càng gia tăng là một tệ nạn xã hội không những gây thiệt hại
cho ngƣời sản xuất, ngƣời tiêu dùng mà còn gây khó khăn nhiều mặt đối với
đất nƣớc. Cùng với trao đổi buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp bản quyền, hàng
không rõ nguồn gốc lai lịch, tình hình xuất nhập khẩu hàng giả đã và đang
phát triển phức tạp ở thế giới.
Xuất nhập khẩu hàng giả là hành vi xuất khẩu hoặc nhập khẩu những
hàng hoá kể cả bao bì mang nhãn hiệu, tên gọi giống hệt nhãn hiệu, tên gọi
của những hàng hoá khác của nƣớc xuất khẩu, nhập khẩu nhƣng không thực
hiện đúng quy định của của pháp luật nƣớc nhập khẩu, hoặc nƣớc xuất khẩu
về đăng ký tên gọi của những hàng nhập khẩu, xuất khẩu.
17
Xuất nhập khẩu hàng hoá vi phạm bản quyền là hành vi xuất khẩu hoặc
nhập khẩu những hàng hoá đƣợc sản xuất, sao chép tạo dáng trực tiếp hoặc
gián tiếp từ những hàng hoá khác nhƣng không đƣợc phép của ngƣời sở hữu
bản quyền và vi phạm quy định của pháp luật nƣớc nhập khẩu hoặc nƣớc xuất
khẩu về quyền sở hữu công nghiệp và trí tuệ.
Nhƣ vậy, xuất nhập khẩu hàng hoá giả mạo là một loại hình gian lận
thƣơng mại rất phức tạp ở trên thị trƣờng quốc tế. Hành vi chủ yếu của các
đối tƣợng gian lận loại hình này là lấy nhãn hiệu của loại hàng A gắn vào loại
hàng B để mang danh nghĩa loại hàng A.
Mục đích của đối tƣợng gian lận nhằm lợi dụng uy tín, chất lƣợng giá
cả hoặc ƣu đãi của mặt hàng A để thu lợi bất chính.
- Hình thức thứ 8: Tạo chứng cứ giả hoặc khai báo gian dối để đƣợc
hoàn thuế hoặc các khoản phí đã nộp cho hải quan.
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hình thức nộp thuế và các khoản phí
trƣớc làm điều kiện ràng buộc, đảm bảo cho các đối tƣợng xuất khẩu, nhập
khẩu thực hiện đúng chính sách quy định sau đó sẽ đƣợc hoàn lại là một trong
những biện pháp quản lý kinh tế bình thƣờng của một quốc gia. Riêng ở một
số nƣớc để khuyến khích xuất khẩu. Nhà nƣớc đã có chính sách hoàn lại thuế
với những sản phẩm đƣợc chế biến trong nƣớc đƣợc xuất khẩu. Sau khi xuất
khẩu những hàng hoá ra nƣớc ngoài các doanh nghiệp sẽ đƣợc hoàn trả một
khoản tiền thuế trên cơ sở số lƣợng và chất lƣợng hàng hoá thực xuất. Đây là
những biện pháp vừa đảm bảo quản lý các hoạt động kinh tế vừa khuyến
khích sản xuất và xuất khẩu phát triển. Thế nhƣng các đối tƣợng gian lận
thƣơng mại đã triệt để khai thác, lợi dụng những chính sách để thu lợi bất
chính.
Nhƣ vậy, tính chất và nội dung của loại hình gian lận thƣơng mại này
cũng rất phức tạp. Đặc điểm của loại hình gian lận thƣơng mại này là các đối
tƣợng cố ý tạo dựng lên những chứng cứ và ƣu đãi giả tạo để thụ hƣởng bất
chính số thuế hoàn trả hoặc trốn tránh nộp thuế liên quan đến hàng hoá xuất
nhập khẩu. Một số vụ gian lận do có những tiêu cực, những vấn đề thuộc về
nội bộ cơ quan chức năng.
Một số đối tƣợng lợi dụng việc hoàn thuế giá trị gia tăng đã khai báo
gian dối hoặc nâng khống số lƣợng hàng xuất khẩu so với nguyên phụ liệu lúc
18
nhập khẩu hoặc khai báo sai loại hình xuất nhập khẩu để trốn tránh nghĩa vụ
nộp thuế.
Hành vi khai báo gian dối hoặc tạo chứng cứ giả để đƣợc hoàn thuế hoặc
các khoản phí đã nộp cho Hải quan là cố ý và có xu hƣớng gia tăng phức tạp.
- Hình thức thứ chín: Giả mạo giấy tờ để hợp thức hoá hành vi xuất nhập
khẩu trái phép.
Để buôn bán hàng hoá xuất nhập khẩu trái phép và trốn thuế nhập khẩu
một số đối tƣợng gian lận đã tạo “vỏ bọc” hợp pháp bằng các thủ đoạn ký hợp
đồng với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc giả mạo hồ sơ giấy tờ
kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu.
Giả mạo giấy tờ là loại hình gian lận thƣơng mại sử dụng giấy tờ giả để
hợp thức hoá hành vi kinh doanh, xuất nhập khẩu, vận tải hàng hoá trái phép
qua biên giới.
Hành vi gian lận thƣơng mại ở loại hình này là hành vi phạm tội rất
nghiêm trọng vì cùng một lúc phạm tội buôn bán, chuyên chở hàng hoá xuất
nhập khẩu trái phép vừa vi phạm tội giả mạo giấy tờ đƣợc quy định trong Bộ
Luật Hình sự của Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hình thức thứ 10: Xuất nhập khẩu ngoại tệ trái phép và khai khống
ngoại tệ khi nhập cảnh.
Hành khách khi xuất cảnh, nhập cảnh có mang theo vàng, ngoại tệ và
đồng Việt Nam có giá trị vƣợt định mức theo quy định của Ngân hàng nhà
nƣớc Việt Nam thì phải khai báo phần vƣợt định mức đó. Riêng đối với vàng
và ngoại tệ khi xuất cảnh, ngoài việc khai báo phần vƣợt phải còn phải có
giấy phép mang ngoại tệ của Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam hoặc đƣợc Ngân
hàng nhà nƣớc Việt Nam uỷ quyền cấp.
Nhƣ vậy việc khai báo với cơ quan Hải quan đúng số lƣợng ngoại tệ
mang theo lúc xuất, nhập cảnh là nghĩa vụ của các đối tƣợng xuất nhập cảnh.
Nhƣng trên thực tế nhiều trƣờng hợp mang ngoại hối trái phép qua biên giới
trốn tránh sự kiểm soát của cơ quan Hải quan hoặc khai báo gian lận số lƣợng,
trọng lƣợng ngoại hối mang theo vì những động cơ bất chính.
Xuất nhập khẩu ngoại tệ trái phép và khai khống ngoại tệ vào Việt Nam
là một trong những loại hình gian lận thƣơng mại hiện nay ở nƣớc ta.
Thủ đoạn chủ yếu của các đối tƣợng ở loại hình gian lận này là giấu
giếm, hoặc khai báo gian dối, không trung thực số lƣợng ngoại tệ mang theo
19
lúc xuất cảnh hoặc nhập cảnh nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ phải chấp
hành quy định của pháp luật Việt Nam đối với xuất nhập khẩu ngoại hối.
Hành vi giấu giếm, khai báo không đúng số lƣợng ngoại tệ thực tế lúc
xuất nhập cảnh là hành vi cố ý.
- Hình thức thứ 11: Xuất nhập khẩu hàng hoá bằng cota, giấy phép mua
bán trái phép.
Tổ chức, cá nhân đƣợc cấp côta, giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá đã
nhƣợng bán cho tổ chức cá nhân khác để xuất nhập khẩu. Thủ đoạn chủ yếu
của loại hình gian lận thƣơng mại này là thiết lập những hợp đồng kinh tế giả
tạo. Bên bán côta, giấy phép “uỷ thác” cho bên mua thực hiện xuất nhập khẩu
theo nội dung của các côta giấy phép. Một số đối tƣợng khác đã dùng thủ
đoạn liên doanh liên kết kinh tế để hợp thức hoá sử dụng côta giấy phép của
nhau.
- Hình thức thứ 12: Thành lập các công ty giả để lấy danh nghĩa hoạt
động kinh doanh trái phép và lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ngƣời khác hoặc
lợi dụng việc nhà nƣớc cho phép nợ thuế để xuất nhập khẩu hàng hoá chiếm
đoạt số thuế phải nộp ngân sách nhà nƣớc với lý do giả tạo giải thể hoặc phá
sản có sự tính toán từ trƣớc (các công ty thành lập và kinh doanh trong thời
gian ngắn sau đó trốn doanh thu, trốn nghĩa vụ nộp thuế sau đó giải thể công
ty để trốn các nghĩa vụ thanh toán) sau đó lại thành lập nên những công ty
mới với thủ đoạn nhƣ cũ. Đây là một trong những loại hình gian lận thƣơng
mại khá phổ biến hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam.
Thủ đoạn của các đối tƣợng gian lận thƣơng mại này là lợi dụng sự thiếu
thông tin của các đối tác trong nƣớc và lợi dụng sự chƣa hoàn chỉnh của luật
pháp Việt Nam trong điều kiện đất nƣớc đang cần tranh thủ sự đầu tƣ hợp tác
với bên ngoài để dựng lên những công ty hoặc những thƣơng vụ xuất nhập
khẩu “chớp nhoáng”.
Hành vi gian lận thƣơng mại này là cố ý nhƣng tính chất đặc biệt
nghiêm trọng vì đối tƣợng thực hiện hành vi chuẩn bị rất kỹ.
Gian lận thƣơng mại do lợi dụng tƣ tƣởng thoái hoá biến chất của công
chức hải quan: Gian lận thông qua việc làm thủ tục hải quan cho hàng hoá
chuyển tiếp; gian lận thông qua việc doanh nghiệp kinh doanh hàng tạm nhập
tái xuất; gian lận thông qua loại hình kinh doanh nhập sản xuất xuất khẩu; gia
công hàng xuất khẩu.
20
- Xem thêm -