MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
6
1.1. Các công trình nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái
6
1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tăng
trưởng
kinh tế và vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái 20
Chương 2:KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ
KẾT HỢP ĐÓ
28
2.1. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái yêu cầu của sự phát triển bền vững
28
2.2. Vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái
49
Chương 3: VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
70
3.1. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi cần phải có tính đồng bộ về chính
sách, chiến lược, pháp luật trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường sinh thái, với tình trạng còn thiếu, chưa đồng bộ
70
3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện,
kiểm
tra, giám sát việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái, với hiệu quả thực tế còn bất cập, nhiều hạn chế
84
3.3. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà nước cùng các tổ chức, các lực lượng xã hội trong kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tình
trạng phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ
97
Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG
CAO
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH
THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
113
4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính
sách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
113
4.2. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý,
điều hành của bộ máy nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái
126
4.3. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tạo ra
sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
136
KẾT LUẬN
149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
153
PHỤ LỤC
165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN
:
Công nghệ
CT - XH
:
Chính trị - xã hội
ĐT
:
Đào tạo
GD
:
Giáo dục
KH
:
Khoa học
KT - XH
:
Kinh tế - xã hội
MT
MTST
:
:
Môi trường
Môi trường sinh thái
Nxb
:
Nhà xuất bản
PTBV
:
Phát triển bền vững
TN - MT
:
Tài nguyên - môi trường
TNTN
:
Tài nguyên thiên nhiên
TTKT
XHCN
:
Tăng trưởng kinh tế
:
Xã hội chủ nghĩa
1
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷ thứ ba và đang đứng
trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái
TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thế giới đương đại. Tình
trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ sinh
thái tự nhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tế cũng như
toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh MT, năng lượng, lương
thực trên phạm vi toàn cầu.
Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân: sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến TNTN;
sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do trong các chính
sách phát triển, các quốc gia thường chỉ chú trọng, ưu tiên cho mục tiêu TTKT
mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệ MTST. Để bảo vệ MTST, chống biến đổi
khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần phải tiến hành là
thiết lập hài hoà mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST. Đây cùng là đòi hỏi
tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc gia đang theo đuổi trong
thế kỷ XXI.
Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, do tác
động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu
vào khai thác TNTN và các yếu tố MT, nên chất lượng MTST ở Việt Nam thời
gian qua suy giảm nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, xuống
cấp về chất lượng, nhiều nguồn TNTN bị suy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm
bảo nguồn cung… Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT
3
XH, ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an
ninh lương thực, an ninh MT và sức khỏe cộng đồng, đe dọa nghiêm trọng tới
tiến trình PTBV ở Việt Nam.
Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát
triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mội trường” [53, tr.162] đã ra đời. Nhờ thực
hiện mô hình này, nền kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta được
hình thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là
quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng cao trong khu vực.
Đặc biệt, những thành tựu mà TTKT đem lại đã giúp nước ta có được sự
tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Các vấn
đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa… từng
bước được giải quyết. Tuy nhiên, không phải là không có những hạn chế trong
việc thực hiện mô hình phát triển mới. Trong hàng loạt các hạn chế, yếu kém
thì việc “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao,
còn lãng phí” [55, tr.166], “môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một
số nơi đã đến mức báo động” [55, tr.169] đã được Đảng và Nhà nước ta đánh
giá là một trong những hạn chế lớn nhất. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân
gây ra, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăng
trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển kinh tế
vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác TNTN; nhiều ngành, lĩnh
vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm MT nghiêm trọng;
gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên MT. Trong khi đó,
4
thể chế, chính sách về bảo vệ MT và PTBV vẫn chưa theo kịp với yêu cầu phát
triển KT - XH của đất nước. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước vẫn còn nhiều
bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa phương. Đầu tư của Nhà nước, doanh
nghiệp và người dân cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu
tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, còn thiếu cương quyết và chưa xử lý
nghiêm các vụ việc vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định, hạn chế nêu trên, nếu không được giải
quyết một cách thỏa đáng, sẽ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, mà còn đe dọa nghiêm trọng tới sự tăng trưởng
của nền kinh tế, gây ra nhiều hiểm họa khôn lường cho đời sống của nhân dân.
Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển
KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong thời gian tới có ý
nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi Nhà nước ta
phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải tiếp tục củng cố chính sách, công
cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt công tác tổ chức, thực hiện thanh tra, kiểm
tra, giám sát quá trình quản lý kinh tế và quản lý TN - MT, đầu tư tài chính cho
công tác bảo vệ TN - MT, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về ý
nghĩa của kết hợp TTKT với bảo vệ MTST…
Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của nhà
nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất phát từ
những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của Nhà nước trong
việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước
ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
5
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong
kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, luận án phân tích những vấn đề đặt ra đối với
việc nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST,
qua đó, đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà
nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-
Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST và
những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
-
Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai
trò của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
-
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà
nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết
học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản thể
hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
6
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong khi
thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình khoa
học có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với
các phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp diễn
dịch, điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh...
5. Đóng góp mới của luận án
-
Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao
vai trò của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
-
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà
nước ta trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH.
6. Ý nghĩa của luận án
-
Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng
và Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn,
nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
-
Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao
vai trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT
với bảo vệ MTST.
7
Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
-
cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với bảo
vệ MTST.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1.1.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là chủ đề được bàn luận khá nhiều trong thời gian
qua dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường…
Trên khía cạnh kinh tế học, khái niệm TTKT thường được hiểu theo nhiều
khía cạnh khác nhau: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế (sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ) của một quốc gia theo một thời gian nhất định [58]; TTKT là mở rộng
quy mô sản xuất sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm năng hiện
thực: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [146]; TTKT là sự tăng lên của
sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước do sự tăng lên của thu nhập quốc
dân và sản phẩm bình quân đầu người [132]; TTKT là một khái niệm kinh tế
học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong
một thời gian nhất định. Các chỉ tiêu để đánh giá TTKT thường được sử dụng
là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP và
GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp khác [127], [144].
8
Đi sâu hơn nữa về TTKT, nhiều công trình đã có những luận chứng sâu
sắc về quá trình TTKT ở Việt Nam, qua đó đề ra các giải pháp giúp nâng cao
tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế ở nước ta, tiêu biểu như các công trình sau:
Trong công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần
Thọ Đạt [57] và “Mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần Văn Tùng
[147] đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các mô hình TTKT trên thế giới như:
Mô hình tăng trưởng trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổ
điển mở rộng, tăng trưởng nội sinh. Các nghiên cứu này còn chỉ rõ những nội
dung cơ bản của các lý thuyết TTKT, lý thuyết TTKT dưới dạng các mô hình
toán học và tập trung phân tích quá trình tăng trưởng ở các khu vực, các quốc
gia trên thế giới và ở nước ta hiện nay. Về mô hình TTKT ở nước ta hiện nay,
các nghiên cứu đều khẳng định cho đến nay mô hình TTKT trong nước vẫn
tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định và
khai thác TNTN là chính. Mô hình này, ở phương diện tích cực đã đem lại nhiều
lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh, song, mô hình kinh tế
đó còn để lại nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế lớn nhất là làm cho kinh tế
tăng trưởng chưa thật sự bền vững.
Bài viết “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010”,
được biên soạn theo tài liệu của các cơ quan Trung ương, Tạp chí Lý luận chính
trị [148] đã khẳng định, “trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010, nước ta đã đạt
được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, ước tính tăng trưởng GDP đạt
khoảng 7,2%/năm. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là một trong những nước có sự
tăng trưởng nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới” [148, tr.48],
“tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh có ý nghĩa rất quan trọng giúp nước ta thoát
khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào thời kỳ mới, gia nhập nhóm nước
9
đang phát triển có thu nhập trung bình” [148, tr.48]. Tuy nhiên, bài báo cũng
khẳng định, nền kinh tế trong nước vẫn kéo dài tình trạng tăng trưởng chủ yếu
vào các yếu tố phát triển theo theo chiều rộng. TTKT trong những năm qua
nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Bên cạnh đó, mức tiêu hao
năng lượng ở nước ta còn khá cao, năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế
thấp; đặc biệt những hạn chế về lĩnh vực xã hội còn nhiều: chẳng hạn thành tựu
xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng giữa
các vùng và các tầng lớp dân cư, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, việc “quản
lý, bảo vệ tài nguyên còn buông lỏng; một số tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt
là những tài nguyên không có khả năng tái tạo đang bị khai thác với công nghệ
lạc hậu, gây lãng phí và đứng trước nguy cơ cạn kiệt” [148, tr.54].
Tác giả Nguyễn Thị Doan trong bài viết “Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” [44] cho rằng, trong những
năm đổi mới, “so với các quốc gia, nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất
lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện” [44, tr.61]. Tuy nhiên, tác
giả cũng nhấn mạnh, “tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu vẫn theo bề rộng,
dựa vào tăng quy mô tài sản cố định, tài nguyên thô và số lượng lao động; cơ
cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh
thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc” [44, tr.61]. Do đó,
Việt Nam cần phải thay đổi mô hình TTKT từ tăng trưởng theo bề rộng là chủ
yếu sang tăng trưởng bền vững theo chiều sâu, TTKT phải dựa trên nền tảng
coi trọng chất lượng. Về lâu dài, cần triệt để chuyển từ tăng trưởng nhờ tăng
quy mô vốn đầu tư, khai thác TNTN và sức lao động sang tăng trưởng dựa vào
tri thức và công nghệ, giảm các ngành tiêu hao nhiều năng lượng, TNTN, tăng
10
các ngành sử dụng năng lượng sinh học, năng lượng gió. Bên cạnh đó, cần có
các giải pháp chiến lược như đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn; GD, ĐT nguồn nhân lực chất lượng cao; phát
triển KH và CN để KH, CN trở thành động lực phát triển đất nước, cần mạnh
dạn đổi mới tư duy trong quản lý, điều hành, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước;
tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn của Nhà nước và xử lý dứt điểm
các kết luận sau thanh tra, kiểm tra.
Nghiên cứu dưới góc độ tăng trưởng bền vững, các tác giả Hoàng Đức
Thân, Đinh Quang Ty trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội ở Việt Nam” [127]; tác giả Nguyễn Phú Trọng trong cuốn “Về các
mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta” [144] đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa
TTKT với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như mối quan hệ giữa
TTKT với tiến bộ, công bằng xã hội, mối quan hệ giữa TTKT với phát triển văn
hoá, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, mối quan hệ
giữa TTKT với bảo vệ MT... Các tác giả cho rằng, đó là những mối quan hệ cơ
bản, phức tạp, có liên quan đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc, đòi hỏi Nhà
nước ta phải có những biện pháp để giải quyết thỏa đáng. Trong nội dung về
mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MT, các tác giả khẳng định, ở nước ta, kể từ
khi đổi mới, kinh tế có sự tăng trưởng khá, song vấn đề MT lại ngày một xuống
cấp. Nhà nước cần phải có những chính sách, chiến lược hợp lý để giải quyết
dứt điểm tình trạng này.
Các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt trong nghiên cứu “Tốc độ
và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” [102] đã hệ thống hóa những
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tốc độ, chất lượng TTKT ở Việt Nam.
11
Qua việc phân tích thực trạng, chất lượng TTKT ở nước ta giai đoạn cuối thế
kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, các tác giả cho rằng, những yếu tố thể hiện chất
lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là: tổng giá trị sản xuất, tổng sản
phẩm quốc nội, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người và một
số các tiêu chí định tính khác như: xóa đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội, công
bằng xã hội, môi trường môi sinh. Cũng trong cuốn sách này, các tác giả đã chỉ
ra và phân tích những giải pháp cơ bản để thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng
đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Như vậy, qua nghiên cứu một số công trình khoa học về TTKT, cho thấy,
nhìn chung, các nghiên cứu đều tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm
TTKT, chỉ ra các mô hình TTKT khác nhau trên thế giới và mô hình kinh tế mà
Việt Nam đang theo đuổi. Các nghiên cứu còn làm rõ các nhân tố ảnh hưởng
đến quy mô TTKT trên thế giới và ở Việt Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản
nhằm thúc đẩy quá trình TTKT ở nước ta giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường sinh thái, về bảo vệ môi
trường sinh thái
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề được đề cập đến khá
nhiều trong thời gian qua ở nước ta trên các bình diện khác nhau.
Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ
MTST. Nhằm bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, đảm bảo quyền con người được
sống trong MT trong, sạch, đẹp, phục vụ sự nghiệp PTBV đất nước, Đảng và
Nhà nước đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết về MTST
và bảo vệ MTST. Trong một loạt các văn bản quy phạm pháp luật như “Luật
12
Bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn thi hành”; “ Luật Bảo vệ môi trường
năm 2005”; “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia”… Đảng và
Nhà nước ta đã khẳng định nhiều nội dung quan trọng về MTST cũng như bảo
vệ MTST. Theo đó, bảo vệ MTST được quan niệm là bảo vệ các yếu tố tự nhiên
và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và các giống loài động thực vật.
Thực chất của bảo vệ MTST là bảo vệ MT nước, MT không khí, bảo vệ TNTN,
bảo tồn đa dạng sinh học… [20], [27], [31], [33], [111], [113], [105].
Tác giả Nguyễn Minh Hằng trong bài viết “Môi trường sinh thái - vấn
đề của mọi người” [62] khẳng định, MTST là một mạng lưới chỉnh thể có mối
liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong
phạm vi toàn cầu. Trong quá trình sinh sống vì nhiều lý do khác nhau, con người
đã làm suy thoái MTST, thể hiện rõ nhất ở sự suy thoái tầng ôzon, gây “hiệu
ứng nhà kính”, ô nhiễm nguồn nước sạch. Các giải pháp cơ bản mà tác giả nêu
ra nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm MTST là: xây dựng ý thức sinh thái, kết
hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình sản xuất…
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm trong bài viết “Khía cạnh triết học - xã
hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [138] cho rằng, MTST hay
MT sống vốn là MT tự nhiên, là đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên,
trực tiếp là của sinh thái học - sinh học. Nói đến MTST là nói đến môi trường
tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn và thực chất vấn đề MTST
là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Theo tác giả, cùng
với sự phát triển của xã hội, dưới tác động của con người, MTST đang ngày
càng biến đổi theo chiều hướng xấu. Do vậy, để bảo vệ MTST, cần phải có sự
thay đổi cơ bản trong quan niệm về sự phát triển, thay đổi quan niệm về tự
13
nhiên, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; đồng thời kết hợp với việc
ngăn chặn, loại bỏ các tệ nạn trong xã hội; đưa vấn đề giáo dục MT trở thành
một nội dung quan trọng trong GD và ĐT.
Tác giả Nguyễn Văn Kim trong bài viết “Mối quan hệ giữa phát triển và
bảo vệ môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản” [80] lại khẳng định, chính con
người là tác nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm MT, làm mất cân bằng sinh
thái. Phân tích sự phát triển kinh tế của Nhật Bản trong những năm đầu thế kỷ
XX có ảnh hưởng tới MTST, tác giả cho rằng, sự tập trung quá mức các ngành
sản xuất và dân cư vào những khu vực địa lý nhất định đã dẫn đến tình trạng
mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm MT sống. Từ đây, tác giả đưa ra một số kinh
nghiệm của Nhật Bản trong bảo vệ MT và phát triển kinh tế như luật hóa các
chính sách về MT, động viên nhân dân tham gia bảo vệ MT, có lối sống hòa
hợp với nhiên nhiên. Cũng trong bài viết này, tác giả còn khẳng định, Việt Nam
nên coi kinh nghiệm của Nhật Bản như một bài học để
phát triển kinh tế và bảo vệ MT bền vững.
Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây dựng
môi trường văn hoá trong lịch trình thế kỷ XXI” [74] đã làm rõ vai trò vô cùng
quan trọng của MTST trong quá trình phát triển kinh tế. Theo tác giả, do nhu
cầu tăng năng suất lao động người ta đã từng coi việc khai thác vô hạn độ MT
là hành động tích cực. Kết quả là có nhà máy, công trường, có thêm việc làm
cho người lao động, song, các giá trị văn hoá bị xuống cấp, sức khoẻ con người
giảm sút thì lại không được chú ý thích đáng. Theo tác giả bài viết thì giá trị
của hệ sinh thái có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con người, các giá trị này tuy
“im lặng” nhưng nếu con người lạm dụng quyền lực của mình, tác động thô bạo
vào chúng thì cái giá phải trả là rất lớn. Do đó, tác giả khẳng định, việc giáo
14
dục đạo đức sinh thái là rất cần thiết để MT và con người phát triển một cách
hài hoà.
Đi sâu nghiên cứu về đạo đức sinh thái, tác giả Phan Thị Hồng Duyên
trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con
người và giới tự nhiên” [46] lại thể hiện sự bức xúc về vấn đề MT và bảo vệ
MT hiện nay ở nước ta. Theo tác giả, Việt Nam cần thiết phải PTBV, nghĩa là
phải tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ MT. Tác giả cũng cho
rằng việc bảo vệ MT để nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển KT XH
không thể chỉ bằng những văn bản, chỉ thị mà giáo dục đạo đức sinh thái cũng
là một trong những biện pháp có tác dụng lâu dài và quan trọng. Giáo dục đạo
đức sinh thái phải được tiến hành từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành, với mọi
đối tượng từ những người dân, đến những người làm công tác lãnh đạo, quản
lý, hoạch định đường lối, chiến lược phát triển KT - XH của đất nước. Quan
niệm này hoàn toàn đúng và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước ta trong cả hiện nay lẫn mai sau.
Tác giả Vũ Trọng Dung trong cuốn sách “Đạo đức sinh thái và giáo dục
đạo đức sinh thái” [45] quan niệm “môi trường sinh thái là tất cả những điều
kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể, của con người”
[45, tr.153]. Theo tác giả thì các nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng ô nhiễm
MTST là các vấn đề về công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa, sự phát triển dân số…
Không chỉ nhấn mạnh một phương diện quan trọng trong việc giải quyết vấn
đề ô nhiễm MTST đó là giáo dục đạo đức sinh thái, tức là giáo dục thái độ, ý
thức, hành vi tôn trọng và yêu quý thiên nhiên, giữ gìn và bảo vệ MTST cho
mọi chủ thể, tác giả còn khẳng định sự thống nhất giữa nghĩa vụ đạo đức với
nghĩa vụ pháp lý trong việc giữ gìn và bảo vệ MTST là đòi hỏi cấp bách đối với
15
mỗi người và đó cũng là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề ô nhiễm MTST
ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Danh Sơn trong bài viết “Một số vấn đề về bảo vệ tài
nguyên và môi trường trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở nước ta” [71] nhấn
mạnh, tài nguyên và MT là một yếu tố nền tảng của PTBV. Nguy cơ suy giảm,
cạn kiệt tài nguyên, suy thoái MT đang hiện hữu và đe dọa đến tiến trình PTBV
của nước ta. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu
mà một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do nạn cạn kiệt TNTN.
Do đó, các quyết định phát triển và quản lý phát triển trong thời gian tới ở nước
ta cần phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu. Để thực hiện việc này, cần
thiết phải bảo vệ TN - MT, cần hướng quá trình phát triển vào việc tăng trưởng
xanh, phát triển xanh.
Như vậy, thông qua nghiên cứu các công trình khoa học trên, có thể thấy,
MTST là tổng hợp các yếu tố vật chất tự nhiên và các loại TNTN, chúng giữ
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Do vậy, việc bảo vệ MTST
là hết sức quan trọng. Bảo vệ MTST là bảo vệ các yếu tố tự nhiên và các loại
TNTN. Bảo vệ MTST không những tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng ngày
một bền vững hơn, mà còn giúp cho con người ngày một tiếp cận với cuộc sống
văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
1.1.3. Các nghiên cứu về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái
Ở Việt Nam, trong những năm qua, vấn đề về phòng chống ô nhiễm
MTST, khai thác bền vững nguồn TNTN, gắn TTKT với bảo vệ MTST cùng
nhiều vấn đề liên quan đã trở thành nội dung quan trọng trong các chiến lược,
16
các hội nghị, hội thảo về phát triển, các công trình nghiên cứu khoa học của
nhiều cấp bộ, ngành từ trung ương đến địa phương.
Trong các Chiến lược quan trọng ban hành từ năm 2010 đến nay như:
“Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020” [20]; “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020”
[27]; “Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [30];
“Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu” [31]; “Chiến lược Bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [33]; “Chiến lược phát triển
bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” [34]; “Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh” [35]… Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh tới PTBV như là sự
gắn kết chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Tất cả các Chiến lược đã có đều
khẳng định PTBV trên khía cạnh gắn TTKT với bảo vệ MTST là nội dung hết
sức quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. Nội dung này phải được coi là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân;
toàn thể các bộ, ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương cũng
như mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức xã hội.
Những năm gần đây, còn có khá nhiều hội nghị, hội thảo khoa học quốc
tế và trong nước bàn luận khá sôi nổi về vấn đề gắn TTKT với bảo vệ MTST,
về PTBV như: “Hội nghị quốc tế Động thái dân số, biến đổi khí hậu và phát
triển bền vững” [15]; Hội thảo “Toàn cầu hoá và ảnh hưởng đối với khu vực
châu Á - Thái Bình Dương: khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hoá” [65]; “Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23” [66]; Hội thảo “Xây dựng và phát triển bền
vững” [72], Hội thảo “Phát triển năng lượng bền vững” [149]... Các hội nghị,
hội thảo này đã đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng của PTBV và gắn TTKT với
17
bảo vệ MTST ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các vấn đề như:
tình hình, thách thức đang đặt ra hiện nay cho tiến trình PTBV chung của thế
giới trong đó có Việt Nam; nỗ lực và tăng cường ý nguyện chính trị của cộng
đồng quốc tế để cùng nhau xây dựng cương lĩnh hành động, thực hiện các cam
kết, giải quyết những vấn đề cấp thiết của các nước đang phát triển nhằm thúc
đẩy toàn diện tiến trình PTBV của thế giới; xem xét, giải quyết các hoạt động
xây dựng trong sự PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường; đánh giá tổng quát về
tình hình năng lượng tại Việt Nam, chỉ ra những thách thức mà Việt Nam đang
phải đối mặt như: khai thác đa dạng và hiệu quả các nguồn tự nhiên trong nước,
phát triển các dự án mới, phát triển năng lượng đi kèm với bảo vệ MT, thành
lập thị trường công nghệ cạnh tranh, thúc đẩy chương trình năng lượng nông
thôn... được bàn luận khá sôi nổi tại các hội thảo này.
Phát triển bền vững, gắn TTKT với bảo vệ MTST còn là chủ đề của nhiều
bài viết và công trình nghiên cứu khoa học theo các hướng khác nhau của các
tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, Nguyễn Văn Kim, Chu Thái Thành, Trương
Mạnh Tiến, Bùi Văn Dũng…
Trong rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như:“Sự kết hợp giữa các
mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[136]; “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt
Nam” [138]; “Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường
sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp” [139];
“Xây dựng đạo đức sinh thái - một trách nhiệm của con người đối với tự nhiên”
[142]… tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm đã đề cập tới nhiều phương diện khác
nhau của vấn đề bảo vệ MTST. Theo tác giả, nói đến MTST là nói đến môi
- Xem thêm -