Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu khả năng ứng dụng nhà tiền chế - lắp ghép cho hộ có thu nhập thấp trê...

Tài liệu Nghiên cứu khả năng ứng dụng nhà tiền chế - lắp ghép cho hộ có thu nhập thấp trên địa bàn thành phố

.PDF
87
206
54

Mô tả:

Nghiên cứu khả năng ứng dụng nhà tiền chế - lắp ghép cho hộ có thu nhập thấp trên địa bàn thành phố
1 PHẦN I : MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế phía Nam, là một trọng điểm kinh tế của cả nước, chiếm tỉ lệ phần trăm GDP lớn nhất cả nước. Tp Hồ Chí Minh chỉ chiếm 0.6% diện tích và 7,63% dân số nhưng chiếm tới 20,2 % tổng sản phẩm, 27,9 % giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2011 , tp.HCM có 6.344.000 lao động, trong đó 139.000 người có độ tuổi ngoài lao động nhưng vẫn tham gia làm việc. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt 2.100 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước. Với các tiềm năng kinh tế sẵn có như vậy, nên Tp.HCM là miền đất hứa cho những người muốn đổi đời và tìm cơ hội phát triển. Hàng năm ,một lượng lớn người từ các miền trên đất nước đổ dồn về thành phố. Trong đó gồm rất nhiều người thuộc các thành phần khác nhau ( công nhân, sinh viên, thương nhân….), các độ tuổi khác nhau (trẻ vị thành niên, người trưởng thành, người già,…) cùng với các mục đích khác nhau (học tập, tìm việc làm, tìm cơ hội đầu tư…). Những người này là nguồn máu duy trì sự thịnh vượng và phồn vinh cho đô thị phương Nam hoa lệ này. Sự tập trung ào ạt này cộng với nhu cầu nhà ở của bộ phận dân cư bản địa tạo nên một cơn sốt về thị trường nhà ở. Họ có quyền tìm cho mình một ngôi nhà, một mái ấm để phục hồi sức lao động sau ngày làm việc mệt nhọc và hưởng thụ những phúc lợi mà họ góp phần đem lại. Tuy nhiên, một thực tế nhức nhối là chỉ có một lượng nhỏ người trong số những người lao động này có đủ khả năng tạo dựng cho mình một ngôi nhà. Cuộc điều tra nhà đất toàn thành năm 1999 do sở Địa Chính – Nhà Đất tổ chức thực hiện theo Quyết Định 3376/QĐ-UBĐT của UBND Tp.HCM cho biết : có 1.007.012 ngôi nhà, riêng nhà cấp 3,4 và nhà bợ có tới 803.573 căn, chiếm 79,8% tổng số nhà, nhà chưa có giấy tờ hợp lệ chiếm 60%. Trong đó, tại các quận ven còn đất nông nghiệp, nhà chưa có giấy tờ hợp lệ chiếm 70%, còn đối với các quận mới và huyện ngoại thành thì từ 75% đến 95%. 2 Tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với việc tạo nên một sự ổn định và an toàn cho người lao động. Như vậy mới giúp người lao động toàn tâm toàn ý góp phần vào quá trình phát triển chung của xã hội. Chính quyền địa phương có trách nhiệm tạo những điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết vấn đề về nhà ở cho NTNT. Đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là tinh thần nhân văn trong cách thức quản lý, qua đó còn giải quyết được những vấn nạn về quy hoạch đô thị, môi trường sinh thái và an ninh xã hội. Từ giữa thập niên 80, khi quá trình Đổi mới bắt đầu đi vào guồng máy phát triển, kinh tế thị trường được Đảng và Nhà nước đánh giá đúng bản chất khách quan của nó, nền kinh tế Tp.HCM chuyển hướng mạnh mẽ. Và như một thực tế, đi đôi với phát triển luôn là khó khăn và thách thức. Chính quyền sở tại nhận thức được khó khăn nhu cầu nhà ở cho người lao động nên đã bắt đầu xây dựng chiến lược nhà ở, đề ra một số chương trình mô hình giải quyết nhà ở cho NTNT. Đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể : chương trình giải tỏa di dời 5000 căn hộ sống trên và ven kênh rạch, giúp giải quyết nhu cầu nhà ở của cư dân tại đây cũng như làm đẹp bộ mặt sông nước đô thị… Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều thiếu sót, vẫn chỉ mới giải quyết được một phần nhỏ về nhu cầu chỗ ở. Chính quyền vẫn còn loay hoay về bài toán nhà ở khi chưa có được sự đồng bộ về chính sách, xã hội, cũng như khả năng về công nghệ. Đồng thời các giải pháp chưa thật sự rõ ràng để đem lại hiệu quả. Năm 2005 –Chính phủ ban hành Luật Nhà ở, sau đó ban hành Nghị Định số : 90/2006/NĐ-CP, Nghị Định số : 167/2007/NĐ-CP, Nghị Quyết số : 18/NQ-CP tháng 4 năm 2009, Quyết định số : 66/2009/QĐ-TTg, Quyết Định số 67/2009/QĐ-TTg. Trong đó quy định một số chính sách làm tiền đề cơ bản tạo nên sự thuận lợi cho phát triển nhà ở xã hội, giải quyết một phần đối tượng thuộc NT,NTNT. Theo kết quả điều tra của Bộ Xây Dựng công bố mới đây, hiện nay trên phạm vi cả nước chỉ có 22% trong tổng số gần 3 triệu HS,SV được ở trong KTX, chỉ 20% trong 3 tổng số 1 triệu lao động trực tiếp và khoảng 1.2 đến 1.5 triệu lao động gián tiếp có chỗ ở, chỉ có khoảng 2/3 trong tổng số 2 triệu cán bộ, công chức tự lo được nhà ở cho mình, số còn lại (chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn) phải ghép hộ, ở nhờ, ở tạm… Các số liệu thống kê được cho thấy vẫn còn quá nhiều nhu cầu về nhà ở chưa được giải quyết. Tâm thức người Việt rất xem trọng việc sở hữu một ngôi nhà, có “ an cư” mới “lạc nghiệp”. Ba giai đoạn quan trọng nhất của một đời người là “cưới vợ,sinh con và xây nhà”. Ngôi nhà gắn liền với sự ổn định về kinh tế và tinh thần, là niềm tự hào cả một đời người. Chi phí để tạo ra một căn nhà đối với NTNT là một con số khổng lồ, có khi cả đời lao động họ cũng không kiếm đủ số tiền đó. Chi phí xây nhà bao gồm giá cả vật tư, nhân công và giá đất. Vấn đề được đặt ra là ngoài những yếu tố không thể kiểm soát, phải phụ thuộc vào thị trường như giá đất, giá nhân công thì những yếu tố khác như công nghệ thi công, vật liệu xây dựng lại dựa vào trình độ khoa học công nghệ, yếu tố mà chúng ta có thể nắm quyền chủ động. Tại các nước trên thế giới, và thậm chí ở các nước phát triển, họ cũng phải đối mặt với vấn đề về nhà ở cho NTNT như chúng ta hiện nay, điều này diễn ra cách đây hơn nửa thế kỉ (1945-1960). Vấn đề được các nước đặt ra là làm sao cho số lượng sản phẩm nhiều và giá thấp. Những yêu cầu này chỉ có thể giải quyết được bằng phương pháp sản xuất hàng loạt (mass production) và lắp ghép (prefab). Phương pháp mà cách đây gần 1 thế kỉ, Henry Ford sáng chế ra và đưa vào sản xuất trong công nghiệp chế tạo ô tô. Kết quả là các nước này đã giải quyết rất tốt khi đáp ứng được nhu cầu về nhà ở cho NTNT. Công nghiệp lắp ráp hiện nay đã tiến một bước dài về công nghệ. Nó góp phần giảm giá thành sản phẩm đáng kể và đáp ứng được nhu cầu lớn về số lượng sản phẩm. Tp.HCM có những điều kiện thuận lợi về kinh tế, xã hội cũng như công nghệ để ứng dụng phương pháp này vào thực tiễn. Nếu chính quyền thành phố có một tầm nhìn và 4 chính sách đúng đắn, công nghệ này sẽ đem lại một hướng giải quyết khả thi trong lĩnh vực nhà ở cho NTNT. Vấn đề nhà ở cho người NTNT phải do một hệ thống mới giải quyết được, nó bao gồm về chính sách, tài chính, quy hoạch, kỹ thuật, kiến trúc và phương pháp quản lý. Nhiều đề án đã nghiên cứu các yếu tố trên của vấn đề, trong phạm vi nhỏ hẹp của luận án, người viết chỉ đưa ra một xu hướng thiết kế kiến trúc nhằm đóng góp một phần nào đó vào việc đem lại sự an cư cho người dân thành phố. 2.Ý nghĩa và mục tiêu nghiên cứu Ý nghĩa Nhà ở cho NTNT có tiêu chí hàng đầu là giá thành thấp. Trong khi đó xu hướng lắp ghép đi kèm với công nghệ sản xuất hàng loạt luôn đem lại một giá thành phải chăng vì mục đích của công nghệ mass production là giảm giá thành sản xuất, tạo ra số lượng lớn sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Vì vậy, xu hướng này có ý nghĩa to lớn về mặt cơ sở trong vấn đề giải quyết nhà ở cho NTNT. Đây là điểm khởi đầu của ý tưởng về nhà tiền chế - lắp ghép cho người thu nhập thấp. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu và đánh giá các chương trình được thực hiện trong nước nói chung, Tp.HCM nói riêng cũng như tại một số nước tiên tiến trên thế giới để làm cơ sở đề xuất các giải pháp thiết kế và xây dựng nhằm giảm được chi phí sản phẩm mà vẫn đáp ứng được những nhu cầu sinh hoạt của một hộ gia đình NTNT tại tp.HCM hiện nay. 3.Nội dung nghiên cứu - Tìm hiểu các thành tựu về nhà lắp ghép nói chung và cho phân khúc NTNT của các nước trên thế giới đã áp dụng và thành công. - Tìm hiểu tình hình công nghệ cũng như các ứng dụng theo xu hướng này tại địa bàn tp.HCM. 5 - Tìm hiểu những kinh nghiệm về tổ chức không gian kiến trúc, tích hợp và loại trừ các không gian trong nhà ở. - Xây những những cơ sở lí luận để đưa ra những mô hình khả dĩ đáp đứng với nhu cầu về nhà ở cũng như trình độ công nghệ tại Tp.HCM. 4.Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập thông tin : từ các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, từ các Sở, Ban ,Nghành quản lý của Tp.HCM, các điều tra về xã hội. Từ đó phân tích, tổng hợp và rút ra những kết luận cho đề tài. - Phân tích tác động của các điều kiện kinh tế, xã hội ở Tp.HCM đối với kiến trúc nhà ở. - Vận dụng các kiến thức về thiết kế kiến trúc, về công nghệ vật liệu trong thiết kế nhà ở cho NTNT. - Khảo sát các mô hình nhà ở cho NTNT tại Tp.HCM và phân tích tổng hợp các xu hướng thiết kế để đề xuất quan điểm thiết kế. - Phương pháp nghiên cứu tư liệu, sách báo, tạp chí, thông tin trên mạng. 5.Giới hạn nghiên cứu Giới hạn về không gian : - Nghiên cứu kinh nghiệm về nhà ở cho NTNT theo hướng lắp ghép trong và ngoài nước để áp dụng cho tp.HCM. - Nghiên cứu loại hình nhà ở căn hộ và đơn lẻ. 6 PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương I TỔNG QUAN VỀ NHÀ Ở CHO NGUỜI THU NHẬP THẤP THEO HƯỚNG LẮP GHÉP (PREFAB HOUSE)) 1.1.Lịch sử phát triển của nhà ở cho người thu nhập thấp và nhà ở lắp ghép[1] 1.1.1.Tổng quan về quá trình phát triển nhà ở cho NTNT a. Khái niệm nhà ở cho NTNT Cùng với quá trình đô thị hóa là sự tăng cao nhu cầu về nhà ở do người dân đổ dồn về thành thị tìm việc làm. Đây là một quy luật tất yếu và là một bài toán nan giải cho chính quyền đô thị phải đối mặt. Người lao động là nguồn máu để nuôi sống và duy trì sự phồn vinh và thịnh vượng của đô thị, họ có quyền tìm cho mình một nơi cư trú ổn định. Nhà ở cho NTNT hay còn có thể gọi là nhà ở xã hội vì nó là loại hình nhà phục vụ cho nhu cầu của một tầng lớp xã hội chưa đủ điều kiện xây nhà. Theo chỉ thị số 07/2003/CT-UB, ngày 23/04/2003 của UBND TP, đối tượng NTNT bao gồm : + Nhóm 1 : Các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách nhà nước đang làm việc trong các cơ quan hành chánh sự nghiệp (kể cả các cơ quan Đảng, đoàn thể). + Nhóm 2 : Cán bộ, công nhân, viên chức làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. + Nhóm 3 : Sinh viên các trường cao đẳng, đại học. Theo Nghị định 90/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật Nhà ở, tại điều 24 quy định đối tượng của nhà ở xã hội không nói đến từ “người thu nhập thấp” tương tự như nhóm 1 và nhóm 2 của chỉ thị 7, nhưng chỉ giới hạn ở đối tượng là cán bộ,công nhận tại các khu kinh tế, khu công nghiệp (KCN) tập trung, sĩ quan , quân nhân chuyện nghiệp thuộc lực lượng vũ trang nhân dân hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Trong khi những đối tượng khác cũng là một thành phần kinh tế đáng kể đang sinh sống làm 7 việc tại TP như các công nhân làm việc tại các công trường xây dựng, các cơ sở , xí nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xan cài trong khu dân cư hoặc nhân dân lao động làm nghề tự do. Ngoài ra còn có những người nghèo do thất nghiệp, bệnh tật, già yếu, neo đơn, có số lượng không nhiều và thuộc đối tượng nghiên cứu và đây là các đối tượng giải quyết của nghành lao động – thương binh – xã hội (LĐ-TB-XH). Trong Quyết định số 145/2004/QĐ-UB ngày 25/4/2004 của UBND TP thì hiện nay hộ nghèo có thu nhập không ổn định và bình quân dưới 6.000.000VND/người/năm. Theo khảo sát gần đây của người viết, mức thu nhập một cá nhân trang trải vừa đủ các nhu cầu sống tại Tp.HCM dao động từ 3.5 triệu – 4 triệu/người/tháng. Theo đó, họ không có khả năng dành dụm để mua nhà. Như vậy, phải xác định lại chuẩn nghèo theo tình trạng lạm phát hiện nay là 4 triệu/người/tháng hay 48 triệu/người/năm tại Tp.HCM. Nhà ở cho người thu nhập thấp (NTNT) là một loại hình nhà ở cho một bộ phận cư dân đô thị có mức thu nhập dưới mức trung bình. Mức thu nhập này không đủ cho họ xây dựng cho mình một ngôi nhà ( chỉ với chức năng cơ bản là để ở). NTNT bao gồm người nghèo, các cán bộ công nhân viên chức, sinh viên học sinh, …hay nói một cách tổng quát là những người lao động không đủ khả năng xây cho bản thân một căn nhà bằng chính công sức lao động của họ. b. Lược khảo quá trình phát triển nhà ở cho NTNT Vấn nạn nhà ở cho người thu nhập thấp hình hành cùng với quá trình đô thị quá. Trước kia, cuộc sống ở nông thôn tuy vất vả, nhưng vấn đề nhà cửa lại không là một chuyện to tát lắm vì sở hữu đất ở nông thôn lớn, các vật tư vật liệu xây dựng tự cung tự cấp ( cây nhà lá vườn). Cho nên, căn nhà có thể không khang trang nhưng chuyện có một chỗ trú ngụ thì không phải khó khăn. 8 Khi mà lượng người đổ dồn về thành phố tìm việc làm, quỹ đất thành phố có hạn mà nhu cầu về nhà lại tăng cao nên giá đất tăng lên là một quy luật tự nhiên của kinh tế thị trường. Đối với công nhân hoặc những người có thu nhập thấp, tiền lương cũng chỉ có thể để duy trì cuộc sống, một phần tiền tiết kiệm họ còn để gánh vác nhiều chi phí (gởi tiền về phụ giúp gia đình, cưới xin, con cái, bệnh tật…), với nhiều lo toan như vậy, họ không dám mơ cho mình một mái ấm gia đình nho nhỏ mà đành sống trong các khu nhà trọ, khu ổ chuột, hoặc những người có điều kiện khá hơn thì ở trọ tại những nơi có điều kiện tương đối thoải mái hơn. Các nước trên thế giới đã đối diện với vấn đề này từ rất sớm vì họ trải quá các giai đoạn phát triển thị trường sớm hơn ta. Ở các nước phương Tây, từ sau Thế chiến thứ II đã có những thành công nhất định về mặt nhà ở cho NTNT. Những thành công này một phần là đóng góp của các kiến trúc sư có lương tâm nghề nghiệp và tinh thần xã hội cao. Những năm 40-50 thế kỉ 20 có rất nhiều trí thức có tên tuổi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội, họ luôn muốn đem công sức của mình phục vụ cho xã hội và cộng đồng. Trào lưu kiến trúc theo chủ nghĩa công năng mà Walter Gropius giương cao ngọn cờ và Le Corbusier là người phát huy nó lên mức đại chúng là một trong những trào lưu chủ đạo và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Ngoài việc phủ nhận những giá trị xa hoa và phù phiếm của chủ nghĩa kinh viện, trường phái kiến trúc công năng còn muốn đem lại một nền kiến trúc trong sáng và phục vụ cho số đông, một nền kiến trúc vì cộng đồng. Nhiều kiến trúc sư bậc thầy đã bỏ nhiều công sức và trí tuệ, đóng góp các sáng kiến về quy hoạch, kiến trúc, kỹ thuật nhằm tạo quỹ nhà theo phương châm “Nhiều, tốt, rẻ”. Điển hình là công trình tòa nhà ở Marseille, một di sản kiến trúc vĩ đại của nhân loại về tính nhân văn, một kết tinh của tinh thần cách mạng và những triết lý của chủ nghĩa công năng của kiến trúc sư bậc thầy Le Corbusier. Qua công trình này, ông còn nêu ra 2 luận điểm quan trọng trong triết lý kiến trúc của mình. Với tư cách là một nhà cách mạng kiến trúc, ông đưa ra luận điểm “ Nhà là cái máy để ở” . Và với cái nhìn 9 của một người chủ nghĩa xã hội, ông nâng tầm nghề nghiệp của mình lên một bước, đó là nhấn mạnh vai trò xã hội của kiến trúc. Các chung cư mang quy mô một khu ở của Le Corbusier đã giải quyết được một lượng lớn nhu cầu về nhà ở cho người dân Pháp sau thế chiến vì nhà cửa đã bị tàn phá trong chiến tranh. Tuy sau này các chung cư này bộc lộ nhiều yếu điểm về tổ chức kiến trúc, bố trí không gian, cũng như về mối quan hệ cá nhân và cộng đồng thì không vì vậy mà ta có thể quên đi vì lý tưởng gì mà nó đã từng tồn tại. Tại Singapore, giai đoạn đầu lập quốc, chính quyền địa phương vô cùng quan tâm đến việc cung cấp nhà ở cho người dân. Nhà nước Singapore non trẻ muốn đem lại một tâm lý ổn định cho người dân sau nhiều biến động về chính trị. Singapore thực hiện rất nhiều chính sách nghiêm khắc và hiệu quả, kết quả là đến nay hơn 80% người dân Singapore có nhà riêng ( bao gồm nhà ở riêng biệt hoặc căn hộ…). Tại Việt Nam, trước đây trước 1975, tại miền Bắc xuất hiện một loạt chung cư lắp ghép tấm lớn theo công nghệ bê tông do Liên Xô chuyển giao. Loại hình chung cư này đáp ứng cho người dân có nhu cầu về nhà ở, vì lúc đó không có khái niệm người thu nhập thấp. Tuy nhiên, loại hình nhà ở này nhanh chóng không đáp ứng được thực tế sử dụng của người dân trong giai đoạn phát triển và dần rơi vào quên lãng, chỉ còn được tưởng nhớ như một hoài niệm về một thời đã qua. Đất nước ta mở cửa hội nhập thế giới trong những năm 80, phát triển theo kinh tế thị trường, kéo theo đô thị hóa xuất hiện, kết quả là các dòng người lao động lũ lượt dồn về các trung tâm kinh tế lớn như Tp.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng,…Nhu cầu nhà ở tăng cao như là một hệ quả tất yếu. Có thể nói, từ khi hội nhập và phát triển thì vấn đề nhà ở cho NTNT mới bắt đầu xuất hiện và được Nhà nước quan tâm đúng mức. 10 Khi mà quá trình đô thị hóa còn tiếp diễn thì vấn đề nhà ở sẽ còn tồn tại. Đứng ở vai trò quản lý vĩ mô thì nhà nước phải có những tầm nhìn chiến lược về chính sách nhà ở và đất đai, dự trữ và phát triển quỹ đất cũng như thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra các giải pháp cho vấn đề nhà ở đô thị. 1.1.2.Lược khảo về nhà ở theo hướng tiền chế- lắp ghép a. Khái niệm và phân loại nhà Tiền chế (Prefab)[3] Nhà tiền chế là loại hình nhà mà toàn bộ công trình hoặc các phần, các cấu kiện của công trình được sản xuất tại nhà máy và được chuyên chở tới vị trí công trường để lắp ráp vào vị trí xây dựng. Có 3 dạng nhà lắp ráp, theo định nghĩa của Hiệp hội Quốc Gia Các nhà thầu Xây Dựng Công Trình tại Hoa Kỳ (The National Association of Building Manufacturers – NABM) : - Mobile home (Nhà Di Động) : Một cấu trúc được lắp ráp tại nhà máy và sử dụng không cố định,, thường có chiều rộng từ 8’(2.4m) đến 14’(4.2m) và chiều dài hơn 32’(9.6m) được đặt trên một khung gầm để di chuyển đến những địa điểm không cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn xây dựng địa phương.Thường được định giá như một động sản, đánh thuế tương tự một xe máy hoặc tài sản cá nhân. Tuy tên gọi là Nhà Di Động, nhưng loại hình này không phải được thiết kế để di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, từ ngày này sang ngày khác. Nó có tên như vậy vì loại nhà này có thể được vận chuyển dễ dàng, chúng được làm ra để thuận tiện cho việc du lịch, nhưng số lần di chuyển thì có giới hạn. Đây là loại hình tài sản mà chúng ta gọi nôm na là nhà trên bánh xe. Nhà Di Động có giá thành rẻ nhất trong 3 loại hình nhà lắp ráp. - Modular home (Nhà Mo-đun) : Một cấu trúc cố định bao gồm một hoặc nhiều môđun được lắp ráp tại nhà máy theo tiêu chuẩn xây dựng, được định giá và đánh thuế như một bất động sản khi xây dựng vào một vị trí cố định. 11 Nhà Mô-đun cũng được vận chuyển nhưng chỉ một lần, từ nhà máy đến công trường xây dựng, nơi nó được gắn kế vào nền móng. Chúng là loại hình cư trú cố định. Nhà Mô-đun tại Hoa Kì thường gồm 2 phần, hoặc 2 mô-đun riêng biệt và kết nói với nhau tại công trường. Hầu hết các nhà sản xuất Nhà Mô-đun tại Hoa Kì đều cung cấp loại hình nhà gồm 2 mô-đun mà khi kết nối lại có mặt bằng hình chữ nhật (cũng có ngoại lệ, ví dụ như một nhà sản xuất tung ra sản phẩm có hình chữ A). Theo lý thuyết, thì không bắt buộc chỉ có 2 mô-đun và hình dạng chữ nhật, nhưng thực tế là như vậy. - Prefabricated home (Nhà tiền chế) : Các cấu kiện sản xuất tại nhà máy, được chuyên chở tới công trường để lắp ráp nên công trình hoặc một cấu trúc nhà. Đây là loại hình nhà có giá trị đắt nhất trong 3 loại, còn có tên gọi là nhà bộ phận (component house). Nó bao gồm các thành phần được chế tạo và lắp ráp sẵn tại nhà máy, được chuyên chở tới công trường và lắp đặt vào đúng vị trí bởi các công nhân lành nghề hoặc chính chủ nhà. Nhà Tiền chế bao gồm các thành phần có kích thước tiêu chuẩn, nên có thể đáp ứng được các yêu cầu thiết kế mang tính riêng biệt. Đôi khi, loại hình nhà này dễ dàng thỏa mãn được phong vị cá nhân hơn cả các công trình thi công theo phương pháp truyền thống. Trong 3 loại hình nhà lắp ráp, Nhà Tiền Chế đạt được sự đa dạng nhất về thiết kế cũng như hiệu quả sử dụng không gian. Nhiều tác phẩm kiến trúc theo hướng này đã chiếm những giải thưởng cao quý về kiến trúc. b.Lược sử phát triển nhà tiền chế Hệ thống xây dựng nhà tiền chế có thể bắt nguồn từ thế kỷ 17, khi một ngôi nhà ghép bằng các tấm panel gỗ được chuyển từ Anh đến Cape Ann năm 1624 để phục vụ nhu cầu nhà ở cho một đội tàu đánh cá. Thụy Điển cũng giới thiệu một kỹ thuật xây dựng các cabin nhỏ bằng log gỗ chỉ một vài thập kỷ sau đó.Vào thế kỷ 19, cấu trúc nhà di động đã phát triển về số lượng tại các khu định cư mới và các thuộc địa, và với hệ thống này, đã giải quyết nhu cầu nhà ở ngay lập tức.Các bộ nhà lắp ráp (kit house) được vận chuyển bằng đường sắt trong cơn sốt vàng ở California 12 năm 1849 là một ví dụ.Tòa nhà bằng sắt được vận chuyển đến các thuộc địa Anh sau này là 1 ví dụ khác. Những năm đầu của thế kỷ 20, các kiến trúc sư cũng như kỹ sư đã thử nghiệm các hệ thống này cho lĩnh vực nhà ở. Tại Liverpool, Anh, JA Brodie phát triển đơn vị khung gỗ đôi vào năm 1904. Bốn năm sau, Thomas Edison phát triển một kiểu nhà đúc hoàn toàn bằng bê tông cốt thép- có thể cung cấp nhà ở cho công nhân không chỉ an toàn và giá cả phải chăng mà còn, như được mô tả bởi tạp chí “khoa học Mỹ”, "nghệ thuật, thoải mái, vệ sinh và không đồng nhất" . Mặc dù ý định của Edison rất nhân văn, công trình này không bao giờ được xây dựng bởi vì đơn giản là nó quá nặng. Đến năm 1908, Thành công của mẫu xe Model T của Henry Ford chứng minh rằng sản xuất hàng loạt có thể được sử dụng để sản xuất một đối tượng lớn, chất lượng cao, mà ví dụ là chiếc xe hơi .Sản xuất tại nhà máy mang lại giá thấp hơn và chất lượng tốt hơn nhiều đối với hàng hóa tiêu dùng,nhiều người đã hy vọng rằng có thể ứng dụng các kỹ thuật sản xuất nhà ở tương tự như vậy để cải thiện chất lượng, khả năng chi trả, và khả năng tiếp cận. Công nghiệp hóa đã ứng dụng vào xu hướng tiền chế không lâu sau khi mẫu xe Model T đã đi vào sản xuất.và vào cuối thập niên 1910, một số công ty bắt đầu các mẫu nhà tiền chế chất lượng cao, có thể lắp ráp với một sự phong phú về chủng loại. Công ty Aladdin, được thành lập vào năm 1906, là công ty đầu tiên cung cấp một ngôi nhà “Kit” lắp ráp thực sự bao gồm các bộ phận được chế tạo trước và đánh số.Tuy nhiên, công ty đầu tiên và đáng chú ý nhất trong lĩnh vực nhà “kit” là Sears, Roebuck & Co, họ bán nhà thông qua một danh mục sản phẩm và văn phòng kinh doanh có gần 100.000 khách hàng từ năm 1908 và 1940. Giá các bộ nhà “kit” dao động từ $ 650 đến $ 2.500, mỗi bộ nhà “Kit” được vận chuyển bằng hệ thống bưu điện bao gồm thanh giằng, móng, tường, cửa sổ, cửa đi, các phần khác, và hộp sơn nhà.(Và đi kèm là một sách hướng dẫn) Giá cả phải chăng, dễ dàng xây dựng, điều này làm cho khả năng sở hữu nhà của công nhân trở nên gần 13 gũi hơn.Mục tiêu của công ty Sear là làm cho việc sở hữu căn nhà dễ dàng như việc mua một cái bàn hay một cái ghế.Khái niệm đóng gói và vận chuyển các thành phần chất lượng cao đi kèm các hướng dẫn chính xác cho người mua nghe thật hợp lí. Số lượng nhà bán được giúp cho Sears có thể duy trì sự linh hoạt và cung cấp cho khách hàng một loạt các mẫu thiết kế. Chiến lược tiếp thị khéo léo thuyết phục hàng nghìn người Mỹ rằng ngôi nhà của công ty Sears sẽ cung cấp cho họ sự thoải mái và an ninh như những giấc mơ của họ. Một tương lai ảm đạm cho lĩnh vực nhà ở do sự tàn phá của chiến tranh thế giới I, các nước châu Âu chấp nhận công nghệ tiền chế như là một giải pháp đem đến hiệu quả về thời gian và chi phí xây dựng. Anh, Pháp, và Đức đã phát triển hệ thống tiền chế bằng bê tông và thép trong khi Thụy Điển tập trung vào hệ thống gỗ. Có lẽ thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực kiến trúc ở giai đoạn phát triển này ở Châu Âu thuộc về kiến trúc sư người Pháp Le Corbusier.1914, Ngôi nhà DomIno của ông định hình một loại khung chịu lực bằng bê tông cốt thép, bao gồm các sàn, cột và cầu thang, loại bỏ hệ thống tường chịu lực. Le Corbusier đã phát triển một số chương trình nhà ở sản xuất hàng loạt và là một người ủng hộ nhiệt thành của thể loại này, điều này thể hiện rõ ràng trong tinh thần bài tham luận của ông "nhà sản xuất hàng loạt" được viết vào năm 1919: "Nếu chúng ta loại trừ khỏi trái tim và tâm trí của mình tất cả các khái niệm cũ xưa về nhà ở, và nhìn vào vấn đề dưới một góc độ quan trọng và khách quan, chúng ta sẽ đi đến khái niệm House Machine – “Nhà là cái máy để ở ", nhà sản xuất hàng loạt, bền vững hơn (và đương nhiên tiêu chuẩn hơn) và đẹp theo một cách giống như vẻ đẹp tự thân của các thiết bị xây dựng đã có ". Lòng nhiệt tình của Le Corbusier thì vô hạn, nhưng đáng tiếc là ông đã chỉ có một ít tác phẩm thực hiện trên nền tảng lý thuyết không tưởng của mình và hệ thống module xây dựng tiêu chuẩn hóa.Tuy nhiên Le Corbusier chính là nguồn cảm hứng trong sự phát triển 14 của Phong cách Kiến trúc quốc tế sẽ ảnh hưởng đến các nền kiến trúc trong vài thập kỷ tới. Walter Gropius, người sáng lập trường Bauhaus, đã kêu gọi cho việc công nghiệp hóa nhà ở từ những năm 1910. Thật sự, đó là một trong những mục tiêu phát triển chính của trường Bauhaus trong nỗ lực tạo ra "một nền kiến trúc mới cho một thời đại mới". Năm 1923, cùng cộng tác với Adolf Meyer, Gropius phát triển các khối nhà ở “Building Block”, một hệ thống nhà mái bằng tiêu chuẩn hóa. Ba năm sau đó, ông thiết kế hệ thống xây dựng cho một bất động sản nhà ở tại ToertenDessau. Không thiếu các kiến trúc sư và kỹ sư quan tâm đến việc khám phá những khả năng của thép trong thời gian này. Công ty Muche & Paulick, công ty Carl Kaestner , công ty Anh em Woehr, và công ty Bruane Roth, tất cả đã phát triển một thể thức nhà thép vào năm 1926. Những thử nghiệm ban đầu này vẫn chưa cập bến Hoa Kỳ bởi vì các tác phẩm của những nhà cách tân Châu Âu như Le Corbusier, Gropius, Mies van der Rohe, Alvar Aalto, và JJP Oud thật sự không quen thuộc với hầu hết người Mỹ. Nhưng khi Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York tổ chức cuộc triển lãm về kiến trúc đầu tiên vào năm 1932 với chủ đề, Phong cách quốc tế : Kiến trúc kể từ năm 1922, các nhà Cách tân châu Âu đã được giới thiệu đến Hoa Kỳ. Triết lý và phong cách của nhóm học giả đáng kính này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các kiến trúc sư Hoa Kỳ. Phong cách quốc tế không có tác động lớn vào kiến trúc của Hoa Kỳ thời kì đầu, nhưng tác động của nó vào quá trình kiến trúc trong vòng ba mươi năm tới rất to lớn. Sears, Aladdin, và các công ty tương tự khác ở Hoa Kỳ được hưởng thành công lớn với doanh số bán hàng cho sản phẩm nhà kit và họ thấy không có lý do gì để thay đổi theo những thẩm mỹ công nghiệp của kiến trúc Quốc tế. Họ không cần phải thay đổi. Nhà tiền chế của họ đã thấm sâu vào nhận thức và văn hóa chung. 15 Ví dụ như Buster Keaton, đóng vai chính trong một bộ phim ngắn về xây dựng nhà tiền chế. Trong Một Tuần (1921), Buster và cô dâu mới của mình tự hào về việc kinh doanh trong việc tạo ra ngôi nhà mơ ước, một kiểu nhà tiền chế với các hướng dẫn rắc rối. Các nhà thầu xây dựng và kiến trúc sư rất quan tâm đến lời hứa công nghệ nhà sản xuất hàng loạt và đã thử nghiệm với các vật liệu và công nghệ khác nhau. Năm 1927, Robert Tappan giới thiệu một ngôi nhà khung thép và Buckminster Fuller đã giới thiệu thiết kế của mình,sau này gọi là nhà Dymaxion.Tuy nhiên, ngành công nghiệp nhà tiền chế vẫn chậm chạp phát triển Trong cuộc suy thoái kinh tế 1929, nghành công nghiệp nhà sản xuất hàng loạt đã tạo ra một sự hứng khởi thật sự. Động lực cho sự hứng khởi đó là niềm hy vọng hệ thống nhà tiền chế sẽ giúp kích thích nền kinh tế đang tụt hậu. Ngành công nghiệp nhà ở đi theo mô hình của ngành công nghiệp ô tô để phát triển các quá trình xây dựng .Và hơn nữa, Cuộc Suy thoái Kinh tế đã nuôi dưỡng một môi trường mà trong đó nhà được chế tạo tại nhà máy dường như là lựa chọn thực tế duy nhất. Archibald MacLeish tuyên bố trong một ấn bản năm 1932 của tạp chí Fortune rằng "Bây giờ, lập luận rằng ngôi nhà chi phí thấp trong tương lai sẽ được sản xuất toàn bộ, hoặc từng bộ phận, tại các nhà máy trung tâm, và lắp ráp tại công trường đã lỗi thời. Nói cách khác,nó sẽ được sản xuất theo cùng một cách như sản xuất ô tô.” Chi phí thấp hơn có nghĩa là nhiều người Mỹ trung lưu có thể xây dựng nhà cửa. Với ít hơn $ 2.500, người mua nhà nhận được một bộ chứa khoảng 30.000 bộ phận bao gồm tất cả mọi thứ từ gỗ và phần cứng để sơn - cộng thêm một cuốn sách về cách xây dựng nhà. 16 Các bộ nhà lắp ráp không chỉ cho những người có nhu cầu có thể xây dựng ngôi nhà đầu tiên của họ, các công ty xây dựng còn phổ biến loại hình nhà di động (mobile house). Nhiều người muốn một nhà nghỉ hoặc nhà nghỉ bãi biển. Đối với những người quan tâm đến việc ngôi nhà nghỉ, bộ lắp ráp nhà nghỉ đã được phát minh vào những năm 1920.Nhưng sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, gần như không nhiều người có tiền cho gia đình riêng của họ, và phát minh này bị thị trường bỏ bê. Nhà di động, đã bị loại đầu tiên trong lĩnh vực tiền chế, đã hồi phục sau Thế chiến II. Các cựu chiến binh trở về và cần nhà ở, và nhiều người đã dùng vì thích hợp cho các hệ thống đường cao tốc mới. Nhà di động cũng rẻ, do đó, cuối cùng, nhiều người đã ngừng di chuyển từ thị xã đến thị trấn và dừng lại, sử dụng nhà di động của họ như một hộ khẩu thường trú. Đến năm 1970, chính phủ liên bang đã quyết định điều chỉnh các nhà sản xuất vì lý do an toàn, và năm 1976 chính phủ đã thông qua bộ luật Tiêu chuẩn xây dựng và Phát triển Đô thị và nhà ở - thường được gọi là Bộ luật HUD. Bô luật này đặt tiêu chuẩn cho hệ thống sưởi, hệ thống ống nước và hệ thống điện, cũng như thiết kế kiến trúc, xây dựng , an toàn cháy nổ và hiệu quả năng lượng . (Năm 1994, chính phủ cập nhật Bộ luật HUD bao gồm các tiêu chuẩn cao hơn cho nhà tiền chế.) Sau đó, nhà tiền chế trở thành cứu cánh cho việc cung cấp nhà ở cho người thu nhập thấp. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua - và đặc biệt là kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng nhà ở hiện tại - sự đổi mới đã cho phép các nhà sản xuất phục vụ cho một thị trường cao cấp hơn và cho những mục đích cao hơn là kiến trúc xanh. Các nước đang phát triển do sự phát triển về dân số, việc đô thị hóa tăng cao làm cho nhu cầu về nhà ở tăng cao, người ta bắt đầu nhìn về nhà ở tiền chế, hay lắp ghép với một cái nhìn tích cực hơn. 17 Bảng biểu các cột mốc quan trọng của nhà tiền chế 1624 – Ngôi nhà tiền chế đầu tiên, một ngôi nhà gỗ panel hóa, được vận chuyển từ Anh tới Massachusetts (Hoa Kỳ) làm nhà ở cho một đội tàu đánh bắt cá. 1849 - nhà Kit được vận chuyển bằng đường sắt để đáp ứng các khu định cư cho công nhân trong California Gold Rush. 1908 – Công ty Sears bắt đầu một chương trình bán nhà lắp ráp, cuối cùng bán hơn 70.000 căn nhà. 1929 - Buckminster Fuller thiết kế một phiên bản ban đầu nhà ông Dymaxion, với một mái vòm kim loại có thể dễ dàng tháo rời và vận chuyển. năm 2001, công trình này được trưng bày trong viện bảo tàng Michigan như là một kiệt tác thiết kế lắp ráp. 1936 - Frank Lloyd Wright thiết kế Nhà Usonian sử dụng một hệ thống lưới điểm cho phép lặp lại các chi tiết và kích thước. 1937 - Hiệp hội An toàn xây dựng Mỹ bán 1.000 prefabs cho sharecroppers ở Missouri. Năm 1940, hơn 10.000 nhà tiền chế được xây dựng. 1946 - Chiến tranh đã kích thích thị trường, nhà tiền chế đóng một vai trò quan trọng trong Chương trình nhà ở khẩn cấp cho các cựu chiến binh của tổng thống Truman (Contemporay Housing Program). Lời hứa hỗ trợ của liên bang gần gấp ba số lượng nhà prefab được xây dựng, đến 280. 1949 - Fuller trình bày Nhà Wichita để phô trương về công nghệ. Có 30.000 đại biểu quan tâm. Cuối cùng chỉ có hai sản phẩm được xây dựng. 1953 -? Carl Koch thiết kế Nhà Techbuilt, một cấu trúc khung gỗ và hệ thống được panel hóa. Trở thành một thành công lớn trong thập niên 1950 và đầu những năm 1960. 1960 – Nhà di động chiếm 15% số lượng nhà ở, nhưng việc vội vàng xây dựng chúng sau chiến tranh mà thiếu sự thiết kế cần thiết đem lại sự kỳ thị vẫn còn đến ngày hôm nay. 1967 – Hội chợ triển lãm thế giới trình bày kiến trúc của Moshe Safdie, công trình 67 Habitat, một khu nhà ở được xây dựng trên 158 mô-đun. 18 1974 – Kiến trúc sư Israel Zvi Hecker tạo ra các nhà Ramot phức tạp, một cấu trúc tổ ong tạo ấn tượng được làm bằng 720 phần polyhedric. 1996 - IKEA giới thiệu nhà đúc sẵn BoKlok . BoKlok hiện đang được kinh doanh ở Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy, và Anh . Những năm 2000 - Một thập kỷ mới cho nhà tiền chế . Romero nổi tiếng với Rocío LV, Michelle Glidehouse của Kaufmann và Breezehouse của Marmol Radziner. 2003 – Tạp chí Live ra mắt công trình nhà tiền chế của mình. Một thiết kế của Nghị quyết: 4 Kiến trúc được lựa chọn để xây dựng ở Bắc Carolina. 2008 - Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại New York xây dựng một đài tưởng niệm cho về kiến trúc tiền chế. 1.2.Tổng quan về xu hướng nhà ở cho người thu nhập thấp theo hướng lắp ghép tại các nước trên thế giới[4][43] 1.2.1. Hoa Kì Trong thời kì đại khủng hoảng kinh tế tại Mỹ 1933, hàng loạt công nhân thất nghiệp, nông dân bỏ làng quê lên thành phố tìm việc làm do nghề nông thất bát. Dân cư dồn tụ về các thành phố lớn. Thêm nữa, sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, nhu cầu về nhà ở lại lần nữa tăng đột ngột khi các cựu chiến binh trở về từ cuộc chiến. Tại Hoa Kỳ, IBS (Industried Building System) – Hệ thống xây dựng nhà công nghiệp nhận được sự chú ý rộng rãi vào đầu những năm 1930, minh chứng bằng việc xây dựng hàng loạt các loại nhà thép tiền chế (prefab) , nhưng giấc mơ đầu tiên về ứng dụng IBS lụi tàn nhanh chóng do giá cạnh tranh không hợp lý, vốn đầu tư cao và không phù hợp các tiêu chuẩn địa phương. Tuy nhiên, xu hướng được đảo ngược sau Chiến tranh thế giới lần 2 do cần phải giải quyết sự thiếu hụt to lớn chỗ ở. Năm 1999, nhà tiền chế đã chiếm được thị phần đáng kể, khoảng 30% thị phần về chỗ ở, bằng cách sử dụng loại phương pháp xây dựng này. Mặc dù hầu hết nhà loại này 19 đều sử dụng khung gỗ, hệ thống bê tông tiền chế vẫn được sử dụng mạnh mẽ, đặc biệt trong các khu vực nguy hiểm do các tác động của môi trường như lũ lụt và lốc xoáy. Thật vậy, việc áp dụng bê tông tiền chế phải đối mặt với sức đề kháng trong đầu nhà nước do xuất hiện đồng bằng các tấm, nguy cơ thấm nước và những khó khăn của việc lắp đặt vật liệu cách nhiệt. Tuy nhiên, loại cấu tạo này là kết quả củanhững phương pháp công nghệ tiên tiến như cải tiến kỹ thuật trộn bê tông, khuôn mẫu được cải thiện, và một loạt các cải tiến hoàn thiện bề mặt. Một nghiên cứu được thực hiện bởi PCA (Hiệp hội Xi măng Portland) chỉ ra rằng 70% của người mua chọn nhà của họ trên cơ sở chi phí . Mặt khác, kiến trúc hợp lý, linh hoạt, cách âm cách nhiệt tốt cũng là những tiêu chí xem xét tiếp theo. Tuy nhiên, suy nghĩ đã thay đổi theo thời gian, người mua nhà đã đưa những yếu tố khác như tốc độ xây dựng nhanh và khả năng thi công dễ dàng vào cân nhắc khi mua một ngôi nhà. 1.2.2.Vương quốcAnh[4] Tương tự với Hoa Kỳ, sau chiến tranh thế giới II, Anh quốc đối diện với một nhu cầu lớn về nhà ở cho người dân do đất nước bị tàn phá năng nề trong chiến tranh. Chính phủ thành lập Chương trình nhà ở khẩn cấp (Temporary Housing Program) nhằm mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu về nơi cư trú của người dân. Khi so sánh theo thẩm mỹ kiến trúc ngày nay, lĩnh vực nhà ở tiền chế nhỏ, nhàm chán và có lẽ không xứng đáng với mở rộng nghiên cứu. Tuy nhiên, bản chất ngoan cường của nhà tiền chế là bất ngờ đầu tiên. 156.623 bungalows đã được sản xuất cho thuê dưới sự bảo trợ của Chương trình nhà ở cấp tốc. 1.944 nhà ở tạm thời, mỗi thiết kế có tuổi đời từ 10-15 năm, mặc dù nhiều công trình đã tồn tại lâu hơn. Bungalow cuối cùng đã được tháo dỡ tháng 3 năm 1949,về mặt lý thuyết, nước Anh không còn nhà ở tiền chế nữa đến năm 1964. Tuy nhiên, ngày nay ở Anh và xứ Wales vẫn còn khoảng 67.353 bungalow được sử dụng như chỗ ở tạm thời theo sự sắp xếp của Chương trình 20 Nhà Ở Quốc Gia, hơn 21.014 đã được mua lại bởi chính quyền địa phương và còn giá trị tài sản. Đến giữa năm 1964, trong 124.455 bungalow được phân bổ ở Anh và xứ Wales chỉ có 29% - 36.088 bungalow đã được dỡ bỏ. Đến cuối giai đoạn 1945-1966, 32.176% bungalow ở Scotland, khoảng13.585 căn vẫn còn thuộc Chương trình, 671 đã được chuyển giao cho chính quyền địa phương, và 56%, 17.920 bungalow, đã được dỡ bỏ. Đến cuối năm 1971, ở Scotland các bungalow vẫn còn tồn tại, 3.505 bungalow hoặc 11% số lượng bungalow ban đầu không còn xem như nhà ở tạm thời mà được liệt vào danh mục tài sản kiên cố. Việc sử dụng của IBS tại Vương quốc Anh đã trở nên rõ ràng hơn vào giữa những năm 1900 sau khi tiêu huỷ phổ biến của chứng khoán nhà ở trong thời chiến tranh thế giới thứ hai. Đến năm 1960, hơn 165.000 ngôi nhà bê tông tiền chế đã được xây dựng ở nhiều tỉ lệ khác nhau, từ ngôi nhà gỗ nho nhỏ đến các toà nhà cao tầng. Trong năm 1999, bê tông tiền chế chiếm khoảng 25% thị trường các sản phẩm xi măng. Bao gồm một loạt các sản phẩm được sử dụng trong ngành công nghiệp xây dựng như kết cấu, khối, cầu, đá đúc, và lớp hoàn thiện kiến trúc. Trong số các sản phẩm này, các tầng bị đình chỉ đại diện cho việc sử dụng cao hơn với sản lượng trong thời hạn tấn sản phẩm được bán mỗi năm. Mặt khác, tiềm năng đáng kể của bê tông đúc sẵn là trong việc xây dựng nhà ở tầng trệt với 60% của sử dụng. Thật vậy, sử dụng của nó có kinh nghiệm chia sẻ thị trường tăng gấp đôi từ năm 1994 đến 1999. Song song với xu hướng này, bê tông đúc sẵn đang cố gắng thâm nhập vào nhà sàn phía trên. Nó cũng dự đoán rằng tầng trên sẽ có 40% các ngôi nhà mới vào năm 2001. Tuy nhiên, việc xây dựng nề truyền thống vẫn chiếm ưu thế thị phần của 90% để lại thị trường đúc sẵn với chỉ 10% thị phần. Vì vậy, có một tiềm năng lớn để lấy chứng ruột kích thích thị trường chia sẻ trong ngành công nghiệp xây dựng Vương quốc Anh (Jacqueline, 1999).
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan