NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
Ph¸p luËt vÒ gi¶i quyÕt tranh chÊp ®Êt ®ai
LUẬT KINH TẾ
tõ thùc tiÔn xÐt xö t¹i Tßa ¸n nh©n d©n
thÞ x· Sa Pa, tØnh Lµo Cai
NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
2018 - 2020
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ph¸p luËt vÒ gi¶i quyÕt tranh chÊp ®Êt ®ai
tõ thùc tiÔn xÐt xö t¹i Tßa ¸n nh©n d©n
thÞ x· Sa Pa, tØnh Lµo Cai
NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 8 38 01 07
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN ANH TUẤN
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Thúy Hằng, học viên lớp Luật Kinh tế khóa 2018 2020 xin cam đoan đây là công trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ
bất kỳ nguồn tài liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích
trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận
của cơ quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết
quả nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách
quan. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số
liệu cũng như các thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Thúy Hằng
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội
và sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Trần Anh Tuấn về đề tài luận
văn: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử tại Tòa án
nhân dân thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai”. Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy, cô giáo
trong trường.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của
Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá
trình tôi học tập, nghiên cứu tại Trường.
Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Trần Anh Tuấn
đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu thực hiện luận văn của mình.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau
đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một
cách hoàn chỉnh nhất, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định
mà tự bản thân không thể tự nhận thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp
ý của Quý thầy, cô giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi,
động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn, công trình
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Thúy Hằng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1:
1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI
1.1.
5
Khái niệm, đặc điểm, phân loại và nguyên nhân của tranh
chấp đất đai
5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp đất đai
5
1.1.2. Phân loại chấp đất đai
10
1.1.3. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai
12
1.2.
Khái niệm, đặc điểm và các phương thức giải quyết tranh
chấp đất đai
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai
15
15
1.2.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam
hiện nay
1.3.
16
Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai
20
1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
29
1.3.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
20
Chƣơng 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ
THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SA PA,
TỈNH LÀO CAI
2.1.
23
Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa
án nhân dân
23
2.1.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
23
2.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân
25
2.1.3. Thời hiệu; trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại
Tòa án nhân dân
2.1.4. Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
31
35
2.2.
Đánh giá thực hiện thi hành pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai tại Tòa án từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân
dân thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai
38
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội tại thị xã Sa Pa, tỉnh Lào
Cai có ảnh hưởng đến tình hình giải quyết tranh chấp đất đai
38
2.2.2. Một số thành tựu từ thực tiễn thực hiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân thị xã Sa pa, tỉnh
Lào Cai
40
2.2.3. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân từ thực tiễn thực hiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân thị
xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai
Chƣơng 3:
41
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SA PA, TỈNH LÀO CAI
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai hiện nay
3.2.
53
53
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam
hiện nay
54
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai ở Việt Nam
54
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam
58
KẾT LUẬN
63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
64
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, tình hình tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng,
không chỉ về số lượng mà còn phức tạp về tính chất. Ở những vùng đang đô
thị hóa nhanh, xuất hiện các tranh chấp đất đai nhiều tình tiết phức tạp, kéo
dài trong nhiều năm mà không giải quyết dứt điểm. Trong thực tế, có nhiều
dạng tranh chấp đất đai, có thể kể đến là các tranh chấp về hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển đổi, cho thuê quyền sử dụng
đất; tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất; và các tranh chấp do lấn, chiếm,
tài sản gắn liền với đất...
Qua thực tế đó, có nhiều nguyên nhân làm tranh chấp đất đai phát
sinh, như quản lý đất đai của cơ quan quản lý nhà nước chưa được đảm bảo,
thủ tục hành chính liên quan tới đất đai còn tiến hành chậm, đôi khi chưa
minh bạch… và đặc biệt là ý thức tuân thủ pháp luật về đất đai của người dân
cùng với sự thay đổi chóng mặt của thị trường đã làm cho đất đai hiện nay trở
thành tài sản có giá trị cao từ đó phát sinh tranh chấp liên quan tới đất đai.
Các tranh chấp đất đai phát sinh ở hầu hết các địa phương, đặc biệt những địa
phương đang phát triển, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho kinh tế, du lịch
như thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
Mặc dù trong thời gian qua, các chính sách pháp luật về đất đai đã
được ban hành kịp thời, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực đất đai, đáp ứng được nhu cầu thực tế… Tuy nhiên, còn nhiều quy định
chưa rõ ràng, việc áp dụng và giải thích trên thực tế còn chưa kịp thời, chưa
chính xác. Do đó, tình hình giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân
trong những năm qua còn nhiều vướng mắc, có vụ việc phải xét xử nhiều lần,
kéo dài trong nhiều năm, làm giảm lòng tin của người dân đối với đường lối,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề “Pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thị xã Sa Pa,
tỉnh Lào Cai” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian gian qua đã có các công trình nghiên cứu khoa học
liên quan tới vấn đề tranh chấp đất đai. Đây là các công trình khoa học đi
trước, đề ra nền tảng lý thuyết nghiên cứu về đề tài, giúp tác giả luận văn xây
dựng được hệ thống lý thuyết khi hoàn thiện luận văn. Các công trình nghiên
cứu tiêu biểu có liên quan tới đề tài như sau:
- Lê Xuân Thân (2004): “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Châu Huế (2015), “Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của
tòa án”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Văn Cường, Trần Văn Tăng (2018), “Thực trạng giải quyết
tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân - Kiến nghị và giải pháp”, Báo cáo
tham luận, Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao tại hội thảo “Tình
trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”,
Buôn Mê Thuột - Đắk Lắk;
- Phạm Thị Hương Lan (2016), “Giải quyết tranh chấp đất đai theo
Luật đất đai”, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật
- Mai Thị Tú Oanh (2015), “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh
chấp đất đai bằng toàán ở nước ta”, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước
và Pháp luật.
Qua nghiên cứu, các công trình trên đã giải quyết các nội dung chung
về giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án như việc áp dụng pháp luật, thẩm
quyền giải quyết, trình tự thủ tục… nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu
cụ thể tình hình, điều kiện kinh tế xã hội, nguyên nhân phát sinh các tranh
chấp đất đai, đặc biệt trên địa bàn thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
Trên cơ sở đó, tác giả luận văn tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ
thống lý luận và thực tiễn của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai qua
hệ thống tòa án, cũng như phân tích, bình luận các khó khăn thực tế khi áp
dụng các quy định trên vào thực tiễn trên địa bàn thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai, để
từ đó có những giải pháp bổ sung hoàn thiện cần thiết.
2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài luận văn nhằm mục đích sau:
- Khảo cứu, nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đai, đặc biệt thông qua con đường Tòa án
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và
kết quả đạt được cũng như hạn chế, vướng mắc còn tồn tại.
- Đưa ra các đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật góp
phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai trên thực tế,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tranh chấp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để đáp ứng mục đích nghiên cứu, tác giả giới hạn đối tượng nghiên
cứu trong đề tài như sau:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về lý luận, khái
niệm, đặc điểm… tranh chấp đất đai và cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai
tại Tòa án nhân dân;
Thứ hai, luận văn phân tích cơ sở xác lập thẩm quyền giảiquyết tranh
chấp đất đai của Tòa án nhân dân; trình tự thủ tục của việc giải quyết tranh
chấp đất đai thông qua Tòa án so với các phương thức giải quyết tranh chấp
đất đai khác;
Thứ ba, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đaitại Tòa án nhân dân thị xã Sa Pa để chỉ ra những
bất cập, khiếm khuyết còn tồn tại từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh
chấp đất đai bằng Tòa án nhân dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn đi sâu và tập trung nghiên cứu những quy
định mới của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai 2013
- Về không gian: Luận văn đánh giá những thách thức, khó khăn khi
áp dụng các quy định này trên thực tế tại thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
- Về thời gian: Luận văn thực hiện trong khoảng thời gian 2020 -2021.
3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin, duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử…
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp luận
giải, phương pháp so sánh luật học… được sử dụng chủ yếu trong Chương 1;
- Phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, so sánh luật học,
thống kê số liệu… được sử dụng chủ yếu trong Chương 2;
- Phương pháp tổng hợp, diễn giải và quy nạp…được sử dụng trong
Chương 3.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Thứ nhất, luận văn tổng hợp, bổ sung và phát triển hệ thống lý luận
và luận điểm khoa học về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án
nhân dân.
Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dânthị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai
Thứ ba, luận văn có những giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án tại Sa Pa, Lào Cai.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai và
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thị xã Sa
Pa, tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử
tại Tòa án nhân dân thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
4
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và nguyên nhân của tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp đất đai
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là hiện tượng phát sinh trong thực tế đời sống của
con người, không phụ thuộc hình thái kinh tế - xã hội. Những tranh chấp đất
đai này có nguyên nhân từ những bất đồng, mâu thuẫn giữa người sử dụng đất
với người sử dụng đất hoặc giữa người sử dụng đất với tổ chức, cá nhân khác
liên quan tới quyền và lợi ích trong quá trình sử dụng đất.
Trong xã hội tồn tại mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể điều hoà
được thì tranh chấp đất đai mang “màu sắc”chính trị, thể hiện thànhcuộc đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp sở hữu đất đai và các tư liệu sản xuất chủ yếu
khác của xã hội (giai cấp thống trị) với giai cấp lao động không có tưliệu sản
xuất phải đi làm thuê (giai cấp bị thống trị). Việc giải quyết triệt để các tranh
chấp đất đai được thực hiện bởi những cuộc cách mạng xã hội1.
Ngoài ra, cũng như mọi tranh chấp khác trong đời sống, đối với lĩnh
vực đất đai, khi các cá nhân, tổ chức trong quan hệ pháp luật đất đai không
thống nhất ý trí với nhau về các quyền, và nghĩa vụ cũng như cách xử lý các
tình huống phát sinh, từ đó phát sinh các mâu thuẫn, bất đồng về quản lý và
sử dụng đất. Từ những nguyên nhân đó, cũng như những yếu tố cơ bản của
tranh chấp, hiện tượng xung đột giữa những người sử dụng đất, giữa người
sử dụng đất với tổ chức cá nhân khác có liên quan có thể gọi là tranh chấp
đất đai.
Ở Việt Nam, trong quá trình lịch sử, với việc ban hành các bản Hiến
pháp cũng như các đạo luật về đất đai, Nhà nước đã từng thừa nhận nhiều
hình thức sở hữu khác nhau về đất đai như sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và
1. Lý Thị Ngọc Hiệp (2018), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 42,
5
sở hữu tư nhân. Tại Luật Cải cách ruộng đất năm 1953, Điều 31 quy định:
“Người được chia ruộng đất có quyền sở hữu ruộng đất đó... Người được
chia có quyền chia gia tài, cầm, bán, cho... ruộng đất được chia”.
Trong quá trình phát triển, đối với vấn đề quản lý đất đai, Nhà nước đã
có những quy định nhằm xây dựng hệ thống pháp luật đất đai đáp ứng được
nhu cầu điều chỉnh của thời kỳ mới. Do đó, Hiến pháp năm 1980 quy định
“đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở
vùng biển và thềm lục địa... đều thuộc sở hữu toàn dân”(Điều 19) Hiến pháp
năm 1992 và hiện nay là Hiến pháp 2013 đã tái khẳng định chế độ sở hữu
toàn dân đối với đất đai.
Với quy định nền tảng về quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai tại
Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật Đất đai qua các thời kỳ vào năm
1987, 1993, 2003 và hiện nay là Luật Đất đai năm 2013. Trong đó cụ thể hóa
quy định về chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai và Nhà nước là đại diện
của chủ sở hữu toàn dân. Nhà nước được toàn dân thống nhất trao quyền đại
diện chủ sở hữu và ngược lại Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người
dân. Những quy định trên được tái khẳng định trong Luật đất đai qua các
thời kỳ.
Từ đó, có thể khẳng định, mọi tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất… mới được thực hiện quyền của người sử dụng
đất. Vì vậy, người sử dụng đất là chủ thể khai thác, sử dụng đất nhưng không
có quyền sở hữu đất đai đối với thửa đất cụ thể đó. Trong quá trình sử dụng,
người sử dụng đất muốn thực hiện những quyền liên quan tới chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, tặng cho, cho thuê… quyền sử dụng đất thì phải thực hiện
các thủ tục theo quy định và phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai.
Vì vậy, trong thực tế, tranh chấp đất đai không phải là những tranh
chấp về quyền sở hữu đất đai, mà là những tranh chấp về quyền sử dụng một
thửa đất cụ thể giữa các bên. Mỗi bên đều có những căn cứ, lý lẽ cho rằng
mình được pháp luật bảo vệ, họ không thể cùng thống nhất giải quyết mâu
thuẫn mà cần được có quan quản lý nhà nước về đất đai cũng như các cơ quan
6
tài phán giải quyết2.
Để có thể tìm hiểu rõ nguyên nhân và các giải pháp xử lý, cần phải
nhìn nhận tranh chấp đất đai trong cả quá trình quản lý đất đai của cơ quan
quản lý nhà nước, chứ không chỉ trong quá trình sử dụng đất đai. Với cách
hiểu theo nghĩa rộng như vậy, pháp luật mới có thể bảo vệ được người sử
dụng đất trước những hành xử thiếu đúng đắn, thiếu minh bạch, gây thiệt hại
cho người sử dụng đất của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Trong những
trường hợp như vậy, người sử dụng đất có quyền khởi kiện để yêu cầu bồi
thường thiệt hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tranh chấp đất đai bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụngđất và các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, bởi trong pháp luật đất đai,trước
khi Luật Đất đai năm 2003 được thông qua và có hiệu lực thi hành thì
kháiniệm tranh chấp đất đai hầu như chưa được ai đề cập một cách chính
thống và giải thích cụ thể. Mặc dù vậy, hiện tượng tranh chấp đất đai trong xã
hội được pháp luật ghi nhận và quy định việc giải quyết.
Luật đất đai 2003 lần đầu tiên ghi nhận khái niệm tranh chấp đất
đai,hiện nay, tại khoản 24 điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh
chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai
hoặc nhiềubên trong quan hệ đất đai”. Từ quy định tại khoản 24, Điều 3, có
thể thấy Luật Đất đai xác định đối tượng tranh chấp đất đai là quyền và nghĩa
vụ củangười sử dụng đất, bao gồm cả tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng
đất.Mặt khác, trong quá trình xét xử, ngành tòa án thống kê các tranh chấp
liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai nói chung.
Theo đó, các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thuộc thẩm
quyền của Toà án bao gồm:
- Tranh chấp về chủ thể có quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
chuyển đổi, bảo lãnh, thế chấp, góp vốn bằng giá trịquyền sử dụng đất
- Thừa kế quyền sử dụng đất;
- Những tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
2. Mai Thị Tú Oanh (2015), Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở nước ta,
Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, tr. 30.
7
Như vậy, có thể khẳng định, tranh chấp đất đai là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan
hệ đất đai theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Qua những phân tích ở nội dung trên về tranh chấp đất đai, loại tranh
chấp này có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể của tranh chấp đất đai
Phải khẳng định rõ ràng, theo hệ thống pháp luật Việt Nam về đất đai,
chủ thể của tranh chấp đất đai là cá nhân, tổ chức sử dụng đất, người có liên
quan… chứ không phải là chủ sở hữu đất đai. Chủ sở hữu đất đai ở nước ta là
toàn dân, và toàn dân ủy quyền cho Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Trong
quá trình thực hiện quyền đại diện toàn dân, Nhà nước giao đất, cho thuê đất
cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (người sử dụng đất) sử dụng ổn định lâu dài.
Vì vậy, chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ làngười sử dụng đất, các chủ thể
quản lý đất đai… chứ không phải chủ sở hữu đất đai theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đặc điểm về đối tượng tranh chấp đất đai
Vì các chủ thể trong tranh chấp đất đai không phải là chủ sở hữu đất
đai, do đó đối tượng của tranh chấp đất đai không phải là thửa đất cụ thể mà
là những quyền, nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng đất đai của các chủ thể này.
Các tranh chấp về quyền sở hữu đất đai như những tranh chấp liên
quan tới quyền sử dụng đất qua các thời kỳ, trong cải cách ruộng đất, trong
quá trình hợp tác làm ăn tập thể… khôngđược thừa nhận và không xem xét
giải quyết.
Thứ ba, đặc điểmvề tính đa dạng của tranh chấp đất đai
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tranh chấp đất đai bao gồm:
(i) Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất cógiấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc người sử dụng đất có các loại giấy tờ hợp
lệ về đất đai được quy định trong Luật Đất đai 2013
(ii) Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có giấy tờ hợp lệ về đất đai.
Xét về bản chất, những tranh chấp mà người sử dụng đất có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ hợp lệ về đất đai mang bản chất
8
của tranh chấp dân sự vì quyền sử dụng đất được coi là một quyền tài sản.
Quan hệ đất đai là quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật
dân sự; Người sử dụng đất có quyền định đoạt đối với quyền sử dụng đất
nhưquyền chuyển nhượng, quyền cho thuê,quyền để thừa kế quyền sử dụng
đất… Do đó, loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
nhân dân.
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không cógiấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có giấy tờ hợp lệ về đất đai thì có
bản chất của tranh chấp hành chính. Vì Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn
dân, thống nhất quản lý đất đai, do đó trong quá trình quản lý, Nhà nước cấp
giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân. Những vấn đề liên
quan tới thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lý do từ chối cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý
đất đai. Việc giải quyết tranh chấp loại này thuộcthẩm quyền của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đối với những tranh chấp này
đương sự đương sự được quyền lựa chọn một trong hai phương án là yêu cầu
Ủy ban nhân dân hoặc Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn
không đề cập tới những tranh chấp này.
Thứ tư, đặc điểm về tính phức tạp của tranh chấp đất đai
Trong một quá trình dài có những thay đổi về chính sách đất đai, cũng
như những biến đổi của thị trường, quan hệ đất đai liên quan tới các giá trị tài
sản lớn, đồng thời có nhiều bên liên quan như cá nhân trong nước và nước
ngoài, hộ gia đình, cơ sở tôn giáo… và cả Nhà nước. Những tranh chấp đất
đai ngày càng kéo dài, phức tạp… thậm chí có những vụ việc khiếu kiện đông
người, bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, kích động gây mất ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
Thứ năm, đặc điểm về tính liên quan của tranh chấp đất đai
Ngoài Luật Đất đai là đạo luật chủ yếu, để quản lý đất đai, quan hệ đất
đai còn thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều đạo luật khác như Bộ luật Dân sự,
Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản…. vì vậy, với một
tranh chấp đất đai, để giải quyết thấu đáo, đúng quy định pháp luật, đòi hỏi cơ
9
quan giải quyết tranh chấp phải vận dụng nhiều quy định pháp luật khác nhau
một cách linh hoạt, đa dạng. Đây là một đòi hỏi khách quan nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
1.1.1.3. Hậu quả của tranh chấp đất đai
Với những đặc điểm như trên, các tranh chấp đất đai để lại nhiều hậu
quả và trên nhiều yếu tố
Thứ nhất, đất đai là một trong những tư liệu sản xuất hết sức quan
trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất. Việc để ra tranh chấp đất đai
khiến cho người sử dụng đất không thể khai thác, sử dụng thửa đất đang có tranh
chấp, hơn nữa còn phải dành thời gian công sức cho việc giải quyết tranh chấp
này. Do đó, tranh chấp đất đai làm việc sử dụng đất bị gián đoạn, ngừng trệ.
Thứ hai, các chủ thể liên quan tới quản lý, sử dụng đất rất đa dạng,
ngoài ra còn có những quan hệ huyết thống như thành viên trong gia đình, anh
chị em ruột, họ hàng, cộng đồng dân cư. Khi có tranh chấp đất đai, những cá
nhân cùng huyết thống này trở lên đối nghịch nhau, xuất hiện tư thù, bất hợp
tác… Do đó, các tranh chấp đất đai làm mất đoàn kết nội bộ gia đình, láng
giếng, xóm làng và trong cộng đồng dân cư. Thậm chí hiện nay, đã có những
tranh chấp đất đai mang màu sắc chính trị, không được giải quyết triệt để có
thể ảnh hưởng tới cả chế độ.
Thứ ba, ngoài yếu tố tốn kém về thời gian, các tranh chấp đất đai còn
hao tiền, tốn của từ việc theo kiện tới việc gián đoạn trong khai thác và sử
dụng đất. Tranh chấp đất đai không chỉ gây khó khăn, tốn kém cho các bên
tranh chấp mà còn gây khó khăn, mất nhiều thời gian, công sức cho các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tìm hiểu nguyên nhân, áp dụng pháp
luật và giải quyết tranh chấp một cách triệt để, tránh khiếu kiện kéo dài.
1.1.2. Phân loại chấp đất đai
(i) Căn cứ vào chủ thể tranh chấp đất đai, có thể phân loại tranh chấp
đất đai thành các dạng chủ yếu sau: Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân;
tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức và tranh chấp đất đai
giữa tổ chức với tổ chức.
(ii) Căn cứ vào đối tượng tranh chấp, có thể nên lên những dạng tranh
chấp đất đai phổ biến sau đây:
10
- Tranh chấp về hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Tranh chấp này tồn tại, phát sinh trong quá trình lịch sử sử dụng đất
dễ dãi của người dân. Trong quá khứ, các bên đã thực hiện việc chuyển đổi
đất đai nhưng không làm giấy tờ, hợp đồng. Sau thời gian sử dụng, khi có sự
thay đổi của thị trường, giá trị thửa đất tăng lên, có bên cảm thấy thiệt thòi
nên nảy sinh tranh chấp.
- Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Đây là dạng tranh chấp chủ yếu trong tranh chấp đất đai, các bên khi
thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã không làm hồ sơ, giấy tờ hoặc
trong quá trình thực hiện hợp đồng, có bên không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán, nghĩa vụ thay đổi chủ sử dụng đất hoặc thậm chí do có bên cảm thấy bất
lợi khi giá trị quyền sử dụng đất tăng lên nhanh chóng trong thời gian ngắn.
Từ những lý do đó, các bên phát sinh mâu thuẫn, một bên muốn được thực
hiện hợp đồng, một bên muốn hủy bỏ hợp đồng để có thể hưởng lợi từ những
yếu tố ngoại cảnh…
- Tranh chấp về hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất
Trong quá trình cho thuê quyền sử dụng đất, các bên thực hiện không
đúng các điều khoản trong hợp đồng, từ đó phát sinh tranh chấp. Các điều
khoản được thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất rất rõ
ràng, nhưng vì nhiều lý do, các bên không thực hiện, đặc biệt là các điều
khoản liên quan tới thanh toán tiền thuê đất, đòi lại đất trước thời hạn… từ đó
phát sinh tranh chấp.
- Tranh chấp về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Quyền sử dụng đất có giá trị tài sản lớn, do đó, khi vay tín dụng, nhiều
chủ sử dụng đất đã thế chấp mảnh đất của mình làm tài sản đảm bảo. Hết thời
hạn cấp tín dụng, các chủ thể này không thể thanh toán tiền nợ gốc và lãi, từ
đó mảnh đất được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên phát sinh
các yếu tố về hợp đồng thế chấp, về chủ sử dụng đất…
- Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
Đây là một trong những tranh chấp phức tạp, gây rạn nứt quan hệ gia
đình, anh chị em, huyết thống. Những tranh chấp này liên quan tới sự thiếu
hiểu biết khi thực hiện thủ tục để lại thừa kế quyền sử dụng mảnh đất.
11
Người có quyền sử dụng đất chết nhưng không để lại di chúc về việc
thừa kề quyền sử dụng thửa đất, hoặc họ có lập di chúc, nhưng di chúc đó
không đảm bảo các quy định luật định và vì vậy không có giá trị pháp lý.
Những người thừa kế không thỏa thuận được với nhau về việc phân chia di
sản thừa kế nên dẫn đến việc phát sinh tranhchấp.
- Tranh chấp do lấn, chiếm, sử dụng đất trái phép
Loại tranh chấp này phát sinh do một bên không có quyền sử dụng đất
nhưng lấn chiếm sử dụng đất trái phép của người có quyền sử dụng đất.
Hoặc trong quá trình quản lý đất đai còn nhiều lỗ hổng của cơ quan quản lý
đất, các cá nhân, tổ chức đã lấn, chiếm sử dụng đất trái phép… và từ đó dẫn
đến tranh chấp.
Ngoài ra, còn tồn tại một số dạng tranh chấp đất đai khai trên thực tế
như các tranh chấp về quyền sử dụng bất động sản hạn chế, việc để lối đi
chung, việc mở cửa sổ, tranh chấp tài sản gắn liền với đất…
1.1.3. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai
1.1.3.1. Nguyên nhân khách quan
Không như những tranh chấp thông thường khác, tranh chấp đất đai ở
Việt Nam có nguồn gốc lịch sử đặc biệt ở cả hai Nam và Bắc cho đến khi
thống nhất.
Sau Cách mạng tháng tám và hiệp định Geneva, Việt Nam phân chia
hai miền Nam, Bắc từ vĩ tuyến 17. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực
hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa trong đó có cải cách ruộng đất 1953, phân chia
ruộng đấy cho người nông dân, những người chủ thực sự trên mảnh ruộng của
chính mình. Tới năm 1960, với phong trào hợp tác xã, đại hợp tác xã, sản xuất
lớn, người nông dân đưa ruộng đất, trâu bò, búa liềm… vào làm tư liệu sản
xuất chung trở thành sở hữu tập thể, tình hình sử dụng và quản lý đất đai ổn
định… miền Bắc là hậu phương, miền Nam là tiền tuyến.
Ở miền Nam, với sự can thiệp của Hoa Kỳ, với cuộc di cư của dân
miền Bắc năm 1954, chính quyền ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện cải cách
điền địa, ban hành luật “Người cày có ruộng” tại miền Nam Việt Nam nhằm
phân phối lại đất đai, qua đó xóa bỏ thành quả của cách mạng giai đoạn toàn
quốc kháng chiến 1945 - 1954, gây ra những xáo trộn về quản lý và sử dụng
ruộng đất của người dân.
12
Sau 30/4/ 1975, thống nhất đất nước, Chính phủ thống nhất quản lý
đất đai trong phạm vi cả nước. Giai đoạn này, hai miền Nam - Bắc cùng
chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước xây dựng các nông trường,
lâm trường lớn, phong trào hợp tác xã được áp dụng trên phạm vi cả nước.
Qua những đợt xây dựng như vậy, nhiều tổ chức được giao quản lý, sử dụng
đất với diện tích lớn nhưng không đạt được hiệu quả mong muốn.
Hơn nữa, qua các lần điều chỉnh ruộng đất vào năm 1977 - 1978 và
1982-1983, chúng ta áp dụng chính sách phân chia đất theo kiểu bình quân,
cào bằng, đã gây xáo trộn lớn về ranh giới, số lượng và mục đích sử dụng đất
đai trong phạm vi cả nước.3
Sau đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đổi mới, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế dần phát
triển, cùng với sự thay đổi cơ chế quản lý đất đai đã làm cho đất đai trở thành
một loại tài sản có giá trị lớn. Giá trị quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa,
được mua đi bán lại, trao đổi trên thị trường theo các quy luật tác động của
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đó, Nhà nước chưa
kịp thời có các chính sách để điều tiết và quản lý có hiệu quả, vì vậy đã gây ra
các cơn sốt đất, mua gom đất… ảnh hưởng tới đời sống, kinh tế…
Khi giá trị quyền sử dụng đất được thừa nhận với giá trị cao, quỹ đất
hạn chế, không thể phát triển thêm đã tác động làm cho các tranh chấp liên quan
tới đất đai gia tăng với số lượng lớn, đa dạng. Các tranh chấp phát sinh trong
quá trình Nhà nước thực hiện các chính sách khác nhau về đất đai, phát sinh
trong quá trình người sử dụng đất thực hiện các hợp đồng liên quan tới quyền sử
dụng đất như chuyển nhượng, cho thuê, chuyển đổi quyền sử dụng đất…
1.1.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Ngoài những nguyên nhân khách quan vừa phân tích ở trên, các tranh
chấp đất đai còn phát sinh bởi các nguyên nhân chủ quan như sau:
Thứ nhất, là việc buông lỏng trong công tác thống nhất quản lý đất đai
của Nhà nước. Trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đối với đất
đai, Nhà nước phân công, phân cấp cho quá nhiều ngành dẫn đến việc quản lý
đất đai thiếu chặt chẽ và còn nhiều sơ hở. Trong thời kỳ lịch sử để lại, mỗi
3. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13
ngành được giao quản lý một loại đất khác nhau, ngành nông nghiệp quản lý
đất nông nghiệp, ngành lâm nghiệp quản lý đất lâm nghiệp… do đó có nhiều
tranh chấp giữa các loại đất khác nhau hoặc thậm chí có tranh chấp đất đai
không có cơ quan quản lý giải quyết.
Nghị định 404/CP của Chính phủ bản hành ngày 09/11/1979 là cơ sở
pháp lý để thành lập Tổng cục Quản lý ruộng đất, thống nhất quản lý đất đai
trong cả nước. Trong quá trình hoạt động của mình, việc quản lý đất đai của
Tổng cục Quản lý ruộng đất vẫn chưa được chặt chẽ, còn nhiều sai phạm và
lỏng lẻo. Thực trạng này có nguyên nhân chủ quan từ năng lực quản lý của
cán bộ, cũng như công nghệ để quản lý đất đai lạc hậu trong thời kỳ đó. Hồ sơ
địa chính không được chuẩn hóa, có nhiều sai lệch giữa hồ sơ cũ và hồ sơ mới
được lập theo các phương tiện máy móc hiện đại… dấn đến nhiều vi phạm về
quản lý và sử dụng đất cũng như các tranh chấp đất đai xảy ra mà không có cơ
sở pháp lý chính xác để xử lý.
Thứ hai, mặc dù đã được ban hành, cập nhật phù hợp với thực tế, tuy
nhiên chính sách, các quy định pháp luật cụ thể về quản lý, sử dụng đất đai
còn chưa phù hợp, còn nhiều quy định thiếu thống nhất khi áp dụng. Những
quy định về xác định giá trị quyền sử dụng đất khi nhà nước thu hồi, quy định
về giải phóng mặt bằng, quy định về hạn mức, thời hạn sử dụng đất… vừa
ban hành đã lạc hậu do sự phát triển của thị trường. Ngoài ra, trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các chính sách phát triển bất động sản công
nghiệp còn nhiều mâu thuẫn với quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. Pháp
luật đất đai thường xuyên thay đổi, thiếu ổn định cũng làm phát sinh tranh
chấp liên quan tới quản lý và sử dụng đất.
Thứ ba, cán bộ quản lý đất đai nhiều hạn chế về trình độ, sự tận tâm,
đạo đức trong thi hành công vụ. Còn tồn tại bộ phận cán bộ thiếu gương mẫu,
không công tâm khi thực hiện công tác giải quyết tranh chấp đất đai. Một số
bộ phân cán bộ quản lý cấp cao còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham
nhũng, tiêu cực liên quan tới quy hoạch, quản lý, sử dụng đất… làm ảnh
hưởng tới người dân đang sử dụng đất, từ đó phát sinh khiếu kiện tập thể, kéo
dài, gây bất ổn xã hội, chính trị.
14
- Xem thêm -