Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công nghệ thông tin Hệ điều hành Quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp lu...

Tài liệu Quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

.PDF
111
552
55

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ HỒNG QuyÒn trî gióp ph¸p lý cña ng-êi ch-a thµnh niªn vi ph¹m ph¸p luËt trong ph¸p luËt quèc tÕ vµ ph¸p luËt ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ HỒNG QuyÒn trî gióp ph¸p lý cña ng-êi ch-a thµnh niªn vi ph¹m ph¸p luËt trong ph¸p luËt quèc tÕ vµ ph¸p luËt ViÖt Nam Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TƢỜNG DUY KIÊN HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Phan Thị Hồng MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT ..... 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật .............................................................. 8 1.2. Nội dung quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam ............ 24 1.3. Vai trò của pháp luật bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật .................................................... 40 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 44 Chƣơng 2: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT VỀ QUYỀN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM .................................................. 45 2.1. Những điểm tƣơng đồng về quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam............................................................................ 45 2.2. Những điểm khác biệt về quyền đƣợc trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam............................................................................ 63 2.3. Nguyên nhân của những điểm tƣơng đồng và khác biệt về quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam................................. 69 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 73 Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT PHÙ HỢP VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM...................................... 74 3.1. Những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật ........................ 74 3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật...................... 79 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam và bảo đảm thực hiện hiệu quả quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật .................................................................................. 83 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 100 KẾT LUẬN .................................................................................................. 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 102 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự LHQ: Liên Hợp quốc NCTN: Ngƣời chƣa thành niên TGPL: Trợ giúp pháp lý TGVPL: Trợ giúp viên pháp lý MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những năm gần đây, Việt Nam tham gia nhiều văn kiện quốc tế về quyền con ngƣời, bao gồm Bộ luật nhân quyền và các công ƣớc về quyền của các nhóm yếu thế. Trong các văn kiện quan trọng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định đƣờng lối nhất quán quan điểm luôn tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền con ngƣời, thể hiện cam kết mạnh mẽ cùng mong muốn góp phần xây dựng, thúc đẩy phát triển nền văn hóa nhân quyền trên toàn thế giới, song, cũng nhấn mạnh những khó khăn, thách thức trong mặt trận này, đặc biệt là việc đảm bảo quyền tiếp cận pháp lý và sự bình đẳng pháp luật cho các nhóm yếu thế, thiệt thòi. Do đó, phát triển TGPL đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta xác định không chỉ là một trong những giải pháp của chƣơng trình “xóa đói, giảm nghèo”, thu hẹp các khoảng cách trong xã hội mà còn là biện pháp hỗ trợ cho các thiết chế thực thi pháp luật, bảo đảm bảo vệ quyền con ngƣời nói chung và quyền con ngƣời của các nhóm ngƣời yếu thế nói riêng, đảm bảo công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi đất nƣớc ta vừa mới đƣợc thành lập, Đảng và Nhà nƣớc đã luôn xem việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một trọng trách, liên quan đến tiền đồ của dân tộc. Việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục và thực hiện trách nhiệm phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em - NCTN vi phạm pháp luật là một trong những việc làm quan trọng từ trƣớc đến nay của gia đình, nhà trƣờng và xã hội. Do vậy, hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế về tƣ pháp NCTN, TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật đã đƣợc hình thành tƣơng đối đầy đủ và toàn diện các quy định về vấn đề này. Các quy định trong văn bản pháp luật về TGPL đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, đó là quyền tiếp cận công lý và quyền công bằng trƣớc 1 pháp luật. Hiện nay, tình hình NCTN vi phạm pháp luật gần đây là rất đáng lo ngại. Thực trạng đó dẫn đến vai trò của tƣ pháp NCTN nói chung và pháp luật về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật nói riêng ngày càng trở nên quan trọng về nhiều phƣơng diện. Nếu không có sự trợ giúp của các chuyên gia pháp luật có tâm huyết và đƣợc đào tạo bài bản, rất ít trẻ em có khả năng tự bảo vệ quyền của mình theo quy định của pháp luật. Về mặt lý luận, Luật TGPL năm 2006 đã đƣa công tác TGPL trở thành cầu nối giữa chính quyền và nhân dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc TGPL, thực hiện tốt chính sách nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa của Đảng và Nhà nƣớc, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội. Luật TGPL đã có tác động tích cực trong việc thực thi pháp luật, đƣa pháp luật vào cuộc sống, nhất là đối với nhóm đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng: trẻ em, góp phần đáng kể vào sự ổn định, phát triển nhiều mặt của đời sống xã hội. Sau 9 năm thực hiện Luật TGPL và các văn bản hƣớng dẫn thi hành về vấn đề TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật, các văn bản pháp luật này đã bộc lộ một số bất cập, gây khó khăn cho hoạt động TGPL đối với NCTN. Luật TGPL năm 2017 đƣợc thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017, có hiệu lực thi hành và thay thế Luật TGPL năm 2006 kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Về cơ bản, đối tƣợng NCTN đƣợc TGPL đã đƣợc sửa đổi theo hƣớng tƣơng thích với pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tƣơng thích với BLTTHS 2015 và các quy định khác về TGPL cho NCTN, thể hiện bản chất nhân đạo và chính sách của Nhà nƣớc ta trong việc bảo đảm quyền con ngƣời, quyền trẻ em. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật sẽ có nhiều đóng góp cho việc hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này theo hƣớng đảm bảo tƣơng thích hơn nữa với pháp luật quốc tế, để pháp luật của Nhà nƣớc ta là công cụ thực sự hiệu quả trong việc đảm bảo quyền đƣợc TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật, ngăn ngừa sự vi 2 phạm quyền từ phía các cơ quan công quyền và giáo dục các em trở thành những công dân tốt, có ích cho xã hội. Xuất phát từ những yêu cầu nhƣ phân tích ở trên, việc nghiên cứu đề tài: “Quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, nhằm đƣa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về TGPL. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết viết riêng về tƣ pháp NCTN và vai trò TGPL nhƣng ở các góc độ, khía cạnh khác nhau. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến nhƣ: - Nhóm tác giả TS. Cao Dức Thái, GS.TS Hoàng Văn Hảo, TS. Hoàng Thị Ngân, TS Tƣờng Duy Kiên, Th.S Hoàng Hùng Hải, Th.S Nguyễn Lộc, Th.S Nguyễn Thị Báo – Viện Nghiên cứu Quyền con ngƣời, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã nghiên cứu về “Tư pháp người chưa thành niên”, Cục Xuất bản năm 2006, để đáp ứng công tác nghiên cứu, giảng dạy và xử lý trẻ làm trái pháp luật. - Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Tuyết – Học viện Tƣ pháp; Đỗ Ngọc Hà, Đỗ Thu Hằng – Học viện Nghiên cứu Thanh niên; Nguyễn Hƣơng Giang, Lê Ngọc Bảo – Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh nghiên cứu, biên soạn: “Tài liệu tập huấn tư pháp người chưa thành niên”, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 2008. Cuốn sách trình bày kết quả khảo sát các nhu cầu và những vấn đề có liên quan của tình trạng NCTN vi phạm pháp luật, đƣa ra mục tiêu hỗ trợ những ngƣời làm công tác tập huấn các kiến thức và kỹ năng cần thiết về tƣ pháp NCTN, trang bị đầy đủ hơn, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ cơ sở về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và những nội dung quan trọng của pháp luật Việt Nam về tƣ pháp NCTN. Từ đó nâng cao kỹ năng thực hành 3 những công việc cụ thể trong lĩnh vực công tác của cán bộ cơ sở với mục đích bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN vi phạm pháp luật và phạm tội, tạo cơ hội thuận lợi cho việc tái hòa nhập cộng đồng và giúp họ trở thành công dân có ích cho xã hội. - TS. Hoàng Phong Hà, Đinh Lục, Nguyễn Minh “hướng dẫn thực hành các tiêu chuẩn quốc tế về tư pháp người chưa thành niên”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007. Cuốn sách viết về hệ thống các chính sách nhất quán coi trẻ em là lớp công dân đặc biệt mà Đảng, Nhà nƣớc và toàn dân phải chăm sóc, dành cho những ƣu tiên… và từng bƣớc đƣợc luật hóa; đồng thời chính sách đó đƣợc cam kết thực hiện của Chính phủ Việt Nam thực hiện Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn kiện quốc tế khác về quyền trẻ em bao gồm cả hệ thống TGPL về thực hành các quy định và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tƣ pháp NCTN. - Tổ chức Cứu trợ Trẻ em của Thụy Điển; UNICEF khu vực Đông Nam Á, 2005, nghiên cứu về “Quyền trẻ em - Biến nguyên tắc thành hành động”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách viết về tăng cƣờng và hỗ trợ công việc của Chính phủ về quyền trẻ em, và đƣa ra kinh nghiệm của các tổ chức phi Chính phủ về tuyên truyền và phổ biến Công ƣớc quốc tế về Quyền trẻ em. - “Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật”, bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 136 - tháng 12/2008 của Ths. Đỗ Thúy Vân nghiên cứu chỉ ra rằng, những biện pháp xử lý tƣ pháp chính thống thƣờng làm cho NCTN lún sâu hơn vào con đƣờng lầm lỗi vì bị phân biệt đối xử. Các kết quả nghiên cứu đã làm nảy sinh ý tƣởng là cần phải tránh áp dụng các biện pháp xử lý chính thức đối với NCTN vi phạm pháp luật bằng cách khuyến khích cán bộ tƣ pháp chuyển NCTN từ hệ thống tƣ pháp chính thức sang các chƣơng trình giải quyết tranh 4 chấp dựa vào cộng đồng, các dịch vụ hỗ trợ hoặc các chƣơng trình giáo dục tại cộng đồng. - Luật sƣ Trần Công Ly Tao với “Một số mô hình về hoạt động trợ giúp pháp lý”, qua các nghiên cứu và thực tiễn của ngƣời làm công tác TGPL đã góp phần trong công tác giảm thiểu sự “thiếu, đói pháp luật” trong dân. Phản ánh về việc TGPL cho ngƣời nghèo, diện chính sách, trẻ em – NCTN,… đòi hỏi ngƣời trợ giúp phải là ngƣời vừa có tâm, vừa có tầm. Có thể thấy các công trình nghiên cứu trên đã đƣa ra đƣợc một cách nhìn tổng quát về vai trò TGPL với mô hình, chính sách trên thế giới và ở Việt Nam, các giải pháp hoàn thiện pháp luật TGPL… trong đó có vai trò TGPL cho NCTN phạm tội (tại mỗi thời điểm phù hợp với nghiên cứu). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu, so sánh pháp luật về quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Từ đó, rút ra những điểm tƣơng đồng/tƣơng thích và chƣa tƣơng thích nhằm đƣa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam theo hƣớng phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam và phù hợp với thực tiễn của đất nƣớc. 3.2. Nhiệm vụ Thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý về pháp luật TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. - Phân tích, đánh giá những điểm tƣơng thích và chƣa tƣơng thích giữa hai hệ thống pháp luật về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật; luận giải vấn đề này. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật. 5 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn góp phần chứng minh sự phát triển đúng đắn của hoạt động TGPL. Đánh giá sâu sát, toàn diện quy định pháp luật về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật, phân tích các yêu cầu đặt ra về mặt pháp lý để phục vụ cho việc phát triển bền vững hoạt động TGPL cho NCTN; đề xuất giải pháp có “tính mới” để hoàn thiện pháp luật TGPL tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả TGPL cho NCTN trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về pháp luật TGPL ở Việt Nam. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó có các định hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam để phù hợp với pháp luật quốc tế và đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề về pháp luật quốc tế và Việt Nam về TGPL cho NCTN vi phạm pháp luật, gồm: khái niệm NCTN, NCTN vi phạm pháp luật TGPL; khái niệm TGPL; thực trạng pháp luật quốc tế và Việt Nam về quyền TGPL của NCTN vi phạm pháp luật; các giải pháp hoàn thiện pháp luật TGPL cho đối tƣợng này. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn là phƣơng pháp luận của Triết học Mác - Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm của Đảng về TGPL. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2001, năm 2013 và các văn bản pháp luật về TGPL, các báo cáo kết quả hoạt động, các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nƣớc cũng đƣợc tham khảo và kế thừa có chọn lọc. - Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phƣơng pháp 6 nghiên cứu hệ thống, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp khai thác và sử dụng các tƣ liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn. 7. Kết cấu luận văn Không bao gồm Mục lục, Phần mở đầu, Kết luận và nguồn tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc xây dựng với bố cục gồm 03 Chƣơng: Chương 1. Cơ sở lý luận về quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật. Chương 2. Những điểm tƣơng đồng và khác biệt về quyền trợ giúp pháp lý trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chương 3. Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn Việt Nam. 7 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền trợ giúp pháp lý của ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên, người chưa thành niên vi phạm pháp luật 1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên Thuật ngữ NCTN thƣờng đƣợc dùng phổ biến ở tất cả các nƣớc trên thế giới cũng nhƣ ở các ngành khoa học khác nhau, nhƣng khi nói đến khái niệm về NCTN thì đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Ngay cả trong văn bản pháp luật thực định cũng có những tên gọi khác nhau nhƣ: “Ngƣời chƣa thành niên, trẻ vị thành niên hoặc trẻ em”. Trên phƣơng diện luật pháp quốc tế khái niệm NCTN đƣợc đề cập tại các văn kiện pháp lý quan trọng và nó trở thành giá trị chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc, các quốc gia muốn hƣớng tới nhằm thúc đẩy sự tôn trọng để bảo vệ quyền con ngƣời của NCTN. Cụ thể các văn kiện quốc tế nhƣ: Công ƣớc của LHQ về quyền trẻ em tại Điều 1 quy định “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [33, tr.177]. Nhƣ vậy, theo Công ƣớc về quyền trẻ em thì trẻ em đƣợc xác định là ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn. Còn theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành niên; thanh niên trẻ là lứa tuổi 19-24 tuổi. Chƣơng trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi. 8 Bên cạnh đó Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) cũng nêu rõ “Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vi phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn” [29, số 2.2, mục a]. Văn kiện Những quy tắc của LHQ về bảo vệ NCTN bị tƣớc quyền tự do ghi: “Những người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên, trên thực tế các văn kiện pháp lý quốc tế đều có sự đồng nhất giữa khái niệm NCTN và trẻ em, đồng thời độ tuổi đƣợc xác định chung là dƣới 18 tuổi. Bởi lẽ đây là giai đoạn trẻ em phát triển lên ngƣời lớn, và đặc điểm chính của NCTN trong giai đoạn này là chƣa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách; chƣa đủ khả năng để sử dụng quyền và gánh vác nghĩa vụ pháp lý nhƣ ngƣời đã thành niên. Do vậy, pháp luật ở mỗi quốc gia quy định riêng độ tuổi cụ thể của NCTN phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội để có hệ thống pháp luật phù hợp. Ở Việt Nam, định nghĩa, khái niệm NCTN theo Từ điển Tiếng Việt Viện ngôn ngữ học viết “Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân” [22, tr.55]. Khái niệm đã chỉ rõ, NCTN là ngƣời chƣa hoàn thiện cả về thể lực, trí lực lẫn tinh thần. Do sự phát triển chƣa hoàn thiện mà NCTN chƣa tự mình thực hiện quyền cũng nhƣ chƣa thể tham gia một cách đầy đủ, chủ động vào các quan hệ pháp luật làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ cụ thể từ các quan hệ pháp luật đó. Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét quan niệm NCTN theo Từ điển Tiếng việt thì rất khó xác định phạm vi đối tƣợng cụ thể trong cơ cấu dân số là NCTN. Theo quan niệm này, yếu tố để xác định đối tƣợng là NCTN hoàn toàn phụ thuộc vào dấu hiệu sự phát triển về tâm sinh lý, nhận thức. Dấu hiệu này đƣợc xác định bởi yếu tố định tính, còn yếu tố định lƣợng (có thể coi độ tuổi là yếu 9 tố định lƣợng) chƣa đƣợc xác định. Pháp luật Việt Nam hiện hành, độ tuổi của NCTN đã đƣợc thống nhất trong BLHS, BLTTHS, Bộ luật Dân sự, Bộ luật lao động, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Các văn bản này đều quy định tuổi của NCTN là dƣới 18 tuổi. + Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi” [24]; + Điều 161 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [23]; + BLHS năm 2015 có những quy định về các nguyên tắc xử lý khác nhau đối với các độ tuổi khác nhau của ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội (Chƣơng XII), theo đó: Việc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của ngƣời dƣới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm [24]. + BLTTHS năm 2015 cũng có quy định liên quan đến việc tham gia tố tụng hình sự của ngƣời dƣới 18 tuổi và dành hẳn một chƣơng quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với ngƣời dƣới 18 tuổi (Chƣơng XXVIII) [25]. Nhƣ vậy về độ tuổi, NCTN là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi. Đây có thể coi là giới hạn trên (tối đa) của tuổi chƣa thành niên, còn giới hạn dƣới (tối thiểu) thông thƣờng là 0 [28]. Ở độ tuổi này, những đặc điểm về tâm sinh lý của NCTN có những biểu hiện khá phức tạp và mang những đặc trƣng về tâm, sinh lý, xã hội của NCTN, có thể nhận thấy một số điểm khác biệt của NCTN so với ngƣời thành niên: 10 - NCTN là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về thể chất. Sự phát triển biểu hiện ở sự tăng trƣởng về chiều cao, trọng lƣợng cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan… Điểm khác biệt này là do nhân tố sinh học. - NCTN là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về trí tuệ và tâm sinh lý. Cũng là quá trình sinh học, bộ não của nhóm đối tƣợng này phát triển cùng với sự phát triển thể chất. - NCTN chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi của NCTN là ranh giới để phân biệt họ với ngƣời thành niên. Theo đó, ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là NCTN, chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Còn ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên, về nguyên tắc có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Từ những phân tích trên có thể đƣa ra định nghĩa, khái niệm “NCTN là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên”. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì khái niệm "NCTN" và khái niệm "trẻ em" không đồng nhất với nhau nhƣ theo pháp luật quốc tế. Về khái niệm “trẻ em”, Công ƣớc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Pháp luật Việt Nam quy định độ tuổi trẻ em thấp hơn quy định chung của Công ƣớc về quyền trẻ em. Luật Trẻ em năm 2016 quy định trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi. Nhƣ vậy, tƣơng tự nhƣ một số nƣớc, quy định về độ tuổi trẻ em dƣới 16 tuổi của Luật Trẻ em Việt Nam không trái với quy định của Công ƣớc về quyền trẻ em vì thuộc phần “ngoại lệ” Điều 1 Công ƣớc này. Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm “NCTN” có nội hàm rộng hơn so với khái niệm “trẻ em”; NCTN bao gồm cả trẻ em và những ngƣời từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi. Quyền và nghĩa vụ của NCTN tùy thuộc vào quan hệ pháp luật mà ngƣời đó tham gia. Do đó, việc nắm vững các khái niệm và đặc 11 thù của trẻ em và NCTN rất quan trọng vì liên quan đến việc xác định năng lực pháp luật, năng lực hành vi, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của một ngƣời khi tham gia vào các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính; năng lực chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em và NCTN; cũng nhƣ trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với các đối tƣợng này. 1.1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên vi phạm pháp luật Theo từ điển pháp luật “vi phạm pháp luật” có hai ý nghĩa. Theo nghĩa rộng, vi phạm pháp luật là các việc sai, trái pháp luật nói chung, bao gồm tất cả các loại vi phạm pháp luật đƣợc quy định trong hệ thống pháp luật. Theo nghĩa hẹp, vi phạm pháp luật cũng là các việc sai, trái pháp luật nhƣng không cấu thành tội phạm (không phải là tội phạm theo quy định của BLHS 2015), theo nghĩa này, thì các hành vi vi phạm pháp luật có thể là hành vi bị phạt vi phạm hành chính nhƣ phạt tiền, phạt cảnh cáo, bồi thƣờng thiệt hại, phạt kỷ luật lao động. Tất cả các hành vi trên có mức độ nguy hiểm cho xã hội ít hơn tội phạm. Tuy nhiên, dƣới góc độ lý luận chung nhà nƣớc và pháp luật thì vi phạm pháp luật đƣợc hiểu theo cách thứ nhất, trên cơ sở đó phân loại vi phạm pháp luật đƣợc chia ra: - Vi phạm hình sự: là hành vi trái pháp luật, có lỗi, nguy hiểm cho xã hội, đƣợc quy định trong BLHS, do ngƣời có trách nhiệm hình sự thực hiện. - Vi phạm hành chính: là hành vi vi phạm pháp luật, có lỗi, nhƣng mức độ nguy hiểm thấp hơn so với tội phạm, xâm hại đến các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật hành chính bảo vệ. - Vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi, trái pháp luật, kỷ luật của đơn vị, cơ quan nhà nƣớc. - Vi phạm dân sự: là hành vi vi phạm đến các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, chủ yếu đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự. Vậy, vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) 12 trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ. NCTN vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ mà chủ thể thực hiện hành vi là NCTN, có năng lực trách nhiệm pháp lý, có lỗi và có thể bị xử lý hành chính, hình sự, lao động, kỷ luật... Nói cách khác, NCTN vi phạm pháp luật là ngƣời dƣới 18 tuổi thực hiện bất cứ hành vi nào bị pháp luật cấm. 1.1.2. Khái niệm trợ giúp pháp lý, quyền trợ giúp pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật 1.1.2.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” có nguồn gốc từ tiếng Anh là “legal aid” đƣợc sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa thế kỷ 20. Theo đó, “legal aid” đƣợc dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi và thuật ngữ khác nhau. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì “legal aid” có nghĩa là “trợ cấp pháp lý”. Trong Từ điển pháp luật AnhViệt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì “legal aid” trong cụm từ “legal aid schem” (kế hoạch bảo trợ tƣ pháp) có nghĩa là “bảo trợ tƣ pháp”. Trong một số tài liệu khác còn dịch là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tƣ pháp”. Từ điển Anh - Việt, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999) không đƣa ra thuật ngữ chung bằng tiếng Việt về cụm từ “legal aid” mà diễn giải nghĩa của thuật ngữ này bằng tiếng Việt là “lấy tiền từ công quỹ để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện pháp lý”. Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp lý”. Theo Từ điển tiếng Việt, thì “trợ giúp” đƣợc hiểu là “giúp đỡ”, pháp lý tức là “nguyên lý về pháp luật” [34, tr.1045]. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, thì “trợ giúp” là góp sức hoặc góp tiền cho một ngƣời hoặc vào một 13 việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công, còn “pháp lý” là “nguyên lý của pháp luật” [13, tr.1431]. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thì “trợ giúp” đƣợc hiểu là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì, lúc khó khăn, đang lúc cần đến”, thuật ngữ “pháp lý” đƣợc hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lý luận; theo Từ điển Luật học, NXb Từ điển Bách khoa - Nxb Tƣ pháp, 2006, thì pháp lý là những khía cạnh, phƣơng diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia, “pháp lý” chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt buộc từ một sự việc, hiện tƣợng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý luận về pháp luật [35, tr.606]. Do vậy, dù là “giúp đỡ”, “bảo trợ” hay “hỗ trợ” cũng có thể đƣợc hiểu là “trợ giúp”. Ở đây trợ giúp đƣợc hiểu là sự giúp đỡ cho ai đó đang gặp khó khăn, nhằm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ đang cần và cái họ đang cần ở đây là pháp lý. Nhƣ vậy, có nhiều cách gọi khác nhau có cùng nghĩa với thuật ngữ “TGPL” nhƣng thuật ngữ “TGPL” có nghĩa chung nhất, rõ nhất nêu bật đƣợc sự giúp đỡ, hỗ trợ đối với những trƣờng hợp có khó khăn về mặt pháp lý. Ở Việt Nam, mặc dù, đƣợc sử dụng từ năm 1995, tuy nhiên, phải đến khi Luật TGPL ra đời năm 2006 thì khái niệm “TGPL” mới đƣợc xây dựng tổng quát và mang tính pháp lý. Luật TGPL năm 2006 vừa đƣợc thay thế bởi Luật TGPL năm 2017 (đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày 20 tháng 6 năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018). Theo đó, Luật TGPL năm 2017 quy định: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trƣớc pháp luật [27, Điều 7]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan