Vấn đề quan trọng nhất để tổ chức ngôn từ khoa học và văn bản khoa học là tính
hệ thống, là sự tổ chức toàn diện các phương tiện ngôn ngữ để tạo nên bức tranh
thế giới có tính khoa học. Có thể nhận thấy rằng tính hệ thống được thể hiện trong
mỗi phong cách chức năng của ngôn ngữ. Theo M.N.Kozưna, phong cách ngôn
ngữ được tạo thành chính bởi hệ thống các phương tiện liên kết, trong tổng thể xác
định các đặc trưng cho dạng lời, tạo ra đặc tính mà chúng ta cảm nhận theo trực
giác, ví dụ như phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính,
phong cách ngôn ngữ báo chí v.v. Tuy nhiên, không ở đâu, không trong bất kì
phong cách ngôn ngữ nào mà tính hệ thống được thể hiện rõ nét và nghiêm ngặt
như trong phong cách ngôn ngữ khoa học. Tính hệ thống của việc chọn lựa và tổ
chức các phương tiện ngôn ngữ trong ngôn ngữ khoa học hoàn toàn tương ứng với
các dấu hiệu ngoại ngôn ngữ của tính chính xác, trừu tượng, lôgích và khách quan.
Do chịu các hạn chế theo truyền thống về việc sử dụng các phương tiện xúc cảm và
biểu cảm, về lựa chọn các phương tiện hình thái và cú pháp, ngôn từ khoa học phải
loại bỏ nhiều khả năng của ngôn ngữ toàn dân để tuân thủ tính hệ thống, lôgích
rành mạch và chính xác nghiêm ngặt.
Trong văn bản khoa học, mối quan hệ của các yếu tố được thể hiện một cách rõ
ràng, từ được lặp lại, trật tự từ trung hòa, tính chuẩn mực về cấu trúc ngữ nghĩa,
kết cấu và các đặc trưng khác của văn bản hoàn toàn tương ứng với các yêu cầu về
tính hệ thống của một văn bản khoa học và chỉ thay đổi khi có yêu cầu của các
khoa học riêng biệt.
Trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu thuộc khối các lĩnh vực khoa học và công
nghệ, ngôn ngữ được sử dụng là ngôn ngữ chuyên ngành. Cán bộ giảng dạy tiếng
Anh hoặc ngoại ngữ tại các cơ sở đào tạo nói trên không chỉ đơn giản nghiên cứu
phong cách ngôn ngữ khoa học, mà là nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành.
Nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành là quá trình thực hành phong cách ngôn ngữ
khoa học trong hệ thống sử dụng lĩnh vực kiến thức nhất định và chuyên ngành cụ
thể. Trong lĩnh vực phương pháp luận nói riêng, đây là lĩnh vực dạy ngoại ngữ đảm
bảo giao tiếp khoa học học đường và chuyên môn khi lĩnh hội các kiến thức
chuyên ngành tại cơ sở đào tạo bằng ngôn ngữ được học.
Đơn vị hành chức chủ yếu của quá trình dạy và học ngôn ngữ chuyên ngành là văn
bản khoa học mà người học cần có kĩ năng đọc, hiểu, tái tạo và tạo lập. Vì vậy, vấn
đề thực hành văn bản khoa học bao giờ cũng được bắt đầu từ phương pháp dạy và
đọc hiểu. Một điều quan trọng khác về nắm vững ngôn ngữ chuyên ngành là khả
năng nghe bài giảng hoặc nghe hiểu một vấn đề. Các kĩ năng đọc và nghe hiểu
trong các lĩnh vực khoa học luôn mở ra con đường tiến tới nắm vững ngôn ngữ độc
thoại và hội thoại chuyên ngành.
Ngày nay, trong những năm đầu của thế kỉ XXI, văn bản khoa học kĩ thuật và công
nghệ được đặc biệt chú ý không những về nội dung mà còn về hình thức. Hiện
nay, số lượng sách về các vấn đề khoa học kĩ thuật và công nghệ trên toàn thế giới
là rất lớn. Ngoài ra, hàng năm con số các bài báo khoa học kĩ thuật và công nghệ
đăng trên các tạp chí khoa học có thể tính đến con số vài triệu.
Do sự cần thiết trao đổi thông tin trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày
càng tăng, trong đó phát triển thông tin về khoa học kĩ thuật và công nghệ đóng vai
trò quan trọng hàng đầu, nên dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ trở nên
thiết yếu và được nảy sinh như một bộ môn mới. Ngay từ những năm 30 của thế kỉ
XX đã có hàng loạt các công trình quan trọng về dịch thuật của M.M.Morozov,
Ia.I.Rezker, A.V.Phedorov (Nga) là các cống hiến quan trọng về vấn đề dịch và
chứa đựng hàng loạt ý tưởng có liên quan tới dịch văn bản khoa học kĩ thuật và
công nghệ. Ngoài ra, lí thuyết dịch các cặp ngôn ngữ cụ thể cũng được Gi.Vine và
Gi.Darbelne đề cập đến khi so sánh đối chiếu tiếng Pháp sang tiếng Đức.
Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu ngôn ngữ trong môi trường kĩ thuật,
chúng tôi nhận thấy rằng việc xây dựng bộ môn “Dịch văn bản khoa học kĩ thuật
và công nghệ” dựa trên cơ sở các qui luật đang tồn tại giữa các ngôn ngữ được
nghiên cứu là cần thiết. Ở đây, vai trò của ngôn ngữ học xã hội là rất to lớn trong
việc giải thích không ít trường hợp không có tương đương trong các ngôn ngữ.
Đồng thời, không thể giải thích tất cả các vấn đề dịch thuật trực tiếp bằng ngôn
ngữ mà cần giải quyết vấn đề trên cơ sở chuyên môn của lĩnh vực khoa học kĩ
thuật và công nghệ đang được nghiên cứu. Như vậy, dịch văn bản cần được xét đến
từ các quan điểm ngôn ngữ cũng như khoa học kĩ thuật và công nghệ đặc thù, chú
trọng
hơn
đến
phương
diện
ngôn
ngữ.
Trong nhiều thế kỉ, tồn tại tranh luận vấn đề về khả năng dịch tương đương từ ngôn
ngữ này sang ngôn ngữ khác, A.L.Pumpianski cho rằng dịch tác phẩm văn học
nghiêng về nghệ thuật, còn dịch công trình khoa học kĩ thuật nghiêng về khoa học.
Do vậy, khi dịch các văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ cần nắm vững không
chỉ ngôn ngữ và chủ đề tương ứng mà cần có cả tư duy khoa học, nắm vững các
phạm trù lôgích. Cũng từ đây xuất hiện khả năng diễn đạt các qui luật dịch khoa
học kĩ thuật và công nghệ cơ bản, đảm bảo nhiệm vụ chủ yếu của dịch thuật là
thông tin rõ ràng và mạch lạc. Về vấn đề cần dịch như thế nào T.Kavori đã nói xác
đáng rằng :”Hoàn toàn nhất trí với những ai cho rằng dịch thuật cần có sáng tạo
độc lập một cách chân thật, không nhất thiết phải mang dấu vết ngôn ngữ nguyên
bản; so sánh nguyên bản và bản dịch, không cần chỉ ra đâu là nguyên bản còn đâu
là bản dịch”. Ia.Iexker đưa ra hai yêu cầu đối với dịch văn bản khoa học kĩ thuật và
công nghệ là: a) dịch cần chính xác, nghĩa là truyền đạt những gì có trong nguyên
bản – không hơn không kém; b) dịch cần rõ ràng, mạch lạc – không phụ thuộc vào
mức độ rõ ràng của nguyên bản. Người dịch có kinh nghiệm sẽ biểu đạt ý tác giả
bằng ngôn ngữ chính xác, ngắn gọn, mạch lạc và có cơ sở lôgích tối đa.
Dịch văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ là lao động phức tạp, tinh tế, sáng
tạo, là kết quả làm việc liên tục trong lĩnh vực ngôn ngữ và chuyên ngành cụ thể.
Thực tế chỉ ra rằng để dịch được ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ không
cần thiết phải có kiến thức sâu về tất cả các lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công
nghệ. Để có được những bản dịch tốt, cần nắm vững ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và
công
nghệ,
thông
thạo
các
qui
luật
của
nó.
Phân tích đã chỉ ra rằng tất cả các ngôn ngữ văn bản khoa học kĩ thuật và công
nghệ đều có đặc trưng về từ vựng, ngữ pháp và ngữ pháp lôgích như nhau (trừ văn
bản khoa học phổ biến) và sự khác nhau của chúng chỉ là thuật ngữ chuyên ngành.
Các nhà ngôn ngữ đã nghiên cứu phương pháp dịch văn bản khoa học kĩ thuật và
công nghệ. A.L.Pumpjanski gọi phương pháp này là phương pháp song ngữ và trực
tiếp sử dụng khái niệm này khi đưa ra thuật ngữ mới. Theo ông, dịch văn bản khoa
học kĩ thuật và công nghệ được đặt cơ sở như hoạt động lời nói song ngữ, trong
quá trình hoạt động này nội dung về khoa học kĩ thuật và công nghệ được truyền
đạt từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác nhờ các phương tiện ngôn ngữ và phi
ngôn
ngữ.
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng dịch có chất lượng phụ thuộc không những
vào việc hiểu đúng nghĩa của thuật ngữ, mà còn vào khả năng phân tích văn bản
của người dịch. Nghiên cứu song ngữ văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ cho
thấy rằng dịch nghĩa văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ đạt hiệu quả nhất phụ
thuộc vào việc hiểu đúng vỏ ngôn ngữ của thuật ngữ chuyên ngành.
Khác với các từ vị khác, thuật ngữ là vật mang thông tin lớn, khi không hiểu đúng
nghĩa của vỏ ngôn ngữ của nó, thông tin lớn dễ dàng biến thành thông tin sai lệch
khủng khiếp. Về hình thức, thuật ngữ trùng với nhiều đơn vị từ vựng của ngôn ngữ
toàn dân. Thành phần từ vựng trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ thực
hiện các chức năng của mình và thể hiện các qui luật đặc thù. Giữa các thuật ngữ
khoa học kĩ thuật và công nghệ và ngôn ngữ toàn dân tồn tại mối liên kết chặt chẽ
nhất. Ví dụ, các khái niệm phổ biến chung như "điện, nhiệt độ, xăng dầu" và các từ
thường được sử dụng như "vitamin, kháng sinh, pelixelin, vũ trụ, giao thoa" không
phải là các thuật ngữ trong ngôn ngữ hội thoại, ở đây điểm khởi đầu mang nghĩa
của khoa học kĩ thuật và công nghệ đóng vai trò thứ yếu (phụ thuộc). Mặt khác,
các từ thông dụng như "nước, đất, lửa, chất lỏng, lực, đất sét, bạc, áp suất" lại là
các thuật ngữ trong ngữ cảnh khoa học và kĩ thuật khi mang ý nghĩa chức năng đầu
tiên (cơ bản). Mỗi một từ được dùng làm thuật ngữ đều có sắc thái chuyên ngành
đặc
trưng
của
mình.
Vấn đề tranh luận nổi cộm là vấn đề tương quan giữa thuật ngữ và hệ thống thuật
ngữ. Ở phương diện ngôn ngữ, vấn đề này cũng là hợp lí nếu chú ý đến các phạm
trù đa nghĩa và đơn nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. Trong thuật ngữ, chúng ta biểu
thị chính xác, tập trung và tiết kiệm tối đa các khái niệm chung và riêng gắn liền
với hoạt động khoa học kĩ thuật và công nghệ của con người. Yêu cầu chủ yếu đối
với thuật ngữ là nghĩa đơn của nó. Theo A.L.Pụmpanski, trên phương diện thuật
ngữ chung thì yêu cầu này được đáp ứng bằng hai phương pháp và phân biệt hai
phạm trù thuật ngữ là hợp lí : 1) thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến
và
2)
thuật
ngữ
chuyên
ngành.
Thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến biểu thị khái niệm chung về
khoa học kĩ thuật và công nghệ hoặc là của tất cả các lĩnh vực, hoặc là của một lĩnh
vực, hoặc là của một chuyên ngành hoặc chuyên ngành hẹp của khoa học kĩ thuật
và công nghệ ở giai đoạn phát triển nhất định của chúng. Từ vựng khoa học kĩ
thuật và công nghệ phổ biến là tập hợp các thuật ngữ được biểu thị bằng từ và cụm
từ, phần lớn các từ và cụm từ ở phương diện ngôn ngữ đại cương là đa nghĩa và đa
chức năng. Tương quan giữa số lượng thuật ngữ và từ vựng khoa học kĩ thuật và
công nghệ phổ biến trước hết phụ thuộc vào thể loại văn bản khoa học kĩ thuật và
công nghệ. Thuật ngữ có ưu thế hơn trong thể loại tài liệu kĩ thuật: trong các bảng
liệt kê, cataloge v.v., từ vựng khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến thường có
mặt trong các thể loại bài báo hoặc sách chuyên khảo. Nghiên cứu song ngữ về đa
nghĩa giữa các ngôn ngữ cho khả năng phân loại từ, các đơn vị ngôn ngữ đa nghĩa
của nhóm thuật ngữ từ vựng những nghĩa đảm bảo hiểu đúng tư duy khoa học và
công nghệ. Các nghĩa này còn ít được nghiên cứu. Nguyên nhân là do việc dạy
ngôn ngữ kĩ thuật chưa được hoặc ít được chú ý. Điều này cần được quan tâm một
cách thích đáng trong quá trình dạy ngoại ngữ do tầm quan trọng của ngôn ngữ
nước ngoài trong việc tiếp nhận kiến thức chuyên ngành một cách chính xác và đầy
đủ nhất. Ví dụ, trong văn bản tiếng Anh khoa học kĩ thuật và công nghệ có sử dụng
rộng rãi đồng âm của mạo từ ở nghĩa đầu tiên (the = này, a = một), điều này không
hoàn toàn đã đặc trưng cho phong cách hội thoại và trong quá trình dạy và học nó
không được tính đến. Chúng ta hãy xét ví dụ sau: The proportion in which the four
possible products are formed presents a very complicated problem. Câu này nếu
dịch là "Tỉ lệ tạo thành bốn sản phẩm có thể có là vấn đề rất phức tạp." sẽ là thiếu
nghĩa so với câu đúng là "Tỉ lệ tạo thành cả bốn sản phẩm có thể có là một vấn đề
rất
phức
tạp."
Thông thường, các từ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến có nguồn gốc nước
ngoài được ưa thích sử dụng do dễ phân biệt tư duy khoa học kĩ thuật và công nghệ
một cách chính xác. Ví dụ, trong tiếng Anh thay cho động từ to say thường sử
dụng các động từ to assert, to state, to declare, thay cho to clean là to purify. Có ít
thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến tương ứng với số lượng hạn chế
của các khái niệm khoa học và công nghệ. Các thuật ngữ này, về nguyên tắc, được
sinh ra và mất đi trong lòng ngôn ngữ toàn dân. Căn cứ vào nguồn gốc thì chúng
có
nhiều
nghĩa
và
không
tuân
thủ
qui
định
nào.
Thuật ngữ chuyên ngành biểu thị khái niệm từng phần của khoa học kĩ thuật và
công nghệ. Chúng thường là đơn vị ngôn ngữ toàn dân một nghĩa của ngôn ngữ có
quan hệ với nó ở giai đoạn phát triển nhất định của chúng. Thuật ngữ chuyên
ngành tồn tại với số lượng rất lớn, tương ứng với số lượng không hạn chế các đối
tượng hoạt động khoa học kĩ thuật và công nghệ của con người. Các thuật ngữ này
xuất hiện một cách tự phát trong lòng ngôn ngữ toàn dân (so sánh: búa - búa thủy
lực; chuột - chuột máy tính; trống - trống mực máy in), cũng như một cách có ý
thức bằng cách vay mượn từ các ngôn ngữ khác, theo qui định và trật tự hệ thống,
được thể hiện đặc biệt rõ ràng trong các khoa học như khoa học hóa học, môi
trường, chế tạo máy. Thuật ngữ chuyên ngành làm phong phú một cách đáng kể
ngôn ngữ toàn dân. Theo quan sát, hiện nay, trong các ngôn ngữ phát triển có
khoảng 85% đến 90% từ vựng là thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ. Tuy
nhiên, trong mỗi ngành hẹp của khoa học kĩ thuật và công nghệ thì số lượng thuật
ngữ chuyên ngành là rất hạn chế, hơn nữa chúng rất thường được nhắc lại. Đối với
ngành hẹp, số lượng thuật ngữ rất ít. Theo quan sát trong nghiên cứu của chúng tôi,
số lượng này không vượt quá 300 đơn vị. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật
và công nghệ, thuật ngữ chuyên ngành đơn nghĩa có thể có nghĩa bổ sung và trở
thành thuật ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ phổ biến đa nghĩa, còn thuật ngữ
đa nghĩa có thể làm mất nghĩa của mình và trở thành thuật ngữ đơn nghĩa.
Cấu trúc ngữ pháp trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ về mặt hình thức
trùng với cấu trúc ngôn ngữ toàn dân. Đặc trưng cho văn bản khoa học kĩ thuật và
công nghệ là câu tương đối dài, sử dụng số lượng lớn các định nghĩa, bởi vì nhiệm
vụ của văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ là mô tả và giải thích các dữ kiện
nhất định một cách có thể chính xác nhất. Vì vậy, trong văn bản khoa học kĩ thuật
và công nghệ chiếm ưu thế là danh từ, tính từ và động từ vô nhân xưng. Trong
ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ có sự biểu đạt hình ảnh trực quan nhưng
chúng ở dạng sơ đồ bản vẽ và mẫu, đồng thời có đặc trưng lôgích biểu thị.
Cú pháp văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ phân biệt bởi sự bão hòa về cấu
trúc: gần một nửa tất cả các câu (thông báo) được định hướng đối với các dữ kiện
cụ thể cần được mô tả và giải thích. Chiếm ưu thế là các câu có cấu trúc bị động.
Trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ thường sử dụng các cấu trúc vô
nhân xưng không xác định và vô nhân xưng với nghĩa đánh giá, nhận định: đã
quyết định, được thừa nhận một cách hợp lí, cần chú ý, cần thiết, quan trọng là v.v.
Sự biểu đạt nội dung văn bản một cách lôgích và sự thiếu ngữ điệu hình thành
nghĩa tích cực trong văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ, làm giảm đáng kể
mức độ phân tán giữa cấu trúc ngữ pháp câu và cấu trúc lôgích của nó. Sự hiện
diện của phân đoạn câu ngữ pháp - lôgích trong văn bản khoa học kĩ thuật và công
nghệ đã được chứng minh trên cơ sở ngữ liệu song ngữ, khẳng định tính tổng hợp
của tư duy khoa học và công nghệ, cho phép đảm bảo tính đồng nhất thông tin và
dịch có chất lượng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Rõ ràng rằng tất cả các
thành phần câu về mặt thông tin là đa nghĩa và mang hoặc là thông tin chủ yếu,
hoặc là thông tin phụ và đều phụ thuộc vào cấu trúc của câu.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NHÀ VĂN NAM CAO.
Vấn
đề
cần
triển
khai
về
"Chí
Phèo"
:
- Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân
hình.
- Bá Kiến : Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi.
- Chí Phèo : nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở.
- Thị Nở : khát vọng : tình yêu <--> hạnh phúc --> làm người
"người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng.)
- Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng
- Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn
I.
Đặt
vấn
đề
:
* Cách 1 :Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam , Nam Cao
nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau
trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của
Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí
ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn
bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng
nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong
những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân
hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm
1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của
người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình
người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc.
* Cách 2 : Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc
"Chí Phèo" của Nam Cao.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NHÀ VĂN NAM CAO.
Vấn
đề
cần
triển
khai
về
"Chí
Phèo"
:
- Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân
hình.
- Bá Kiến : Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi.
- Chí Phèo : nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở.
- Thị Nở : khát vọng : tình yêu <--> hạnh phúc --> làm người
"người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng.)
- Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng
- Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn
I.
Đặt
vấn
đề
:
* Cách 1 :Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam , Nam Cao
nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau
trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của
Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí
ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn
bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng
nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong
những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân
hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm
1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của
người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình
người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc.
* Cách 2 : Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc
"Chí Phèo" của Nam Cao. Nhà văn đã mở ra một cuộc đời đầy bi kịch của một Chí
Phèo - thù hận với tất cả : cuộc đời - xã hội - con người và ngay cả bản thân, một
Chí Phèo triền miên trong những cơn say, mất cả lương tri, trên hành trình dài đằng
đẵng của một kiếp sống không ra sống, trong không gian tăm tối ngột ngạt của xã
hội Việt Nam đêm trước của cách mạng. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc vào một
cuộc đời đau khổ và kết thúc trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc. Để khi gấp trang
sách lại, trái itm mỗi người vẫn còn thổn thức những buồn thương đau đớn trước bi
kịch khó tin của những người không được làm người lương thiện trong xã hội cũ.
II.
A.
Giải
Tổng
:
quyết
(bao
quát
vấn
tinh
thần
đề
của
tác
:
phẩm)
1. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ do tài năng của Nam Cao đã tạo dựng được
cốt truyện theo kết cấu rất hiện đại, mà trước hết xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc
của nhà vănvới đồng loại của mình. Đằng sau lối kể chuyện lạnh lùng tỉnh táo là cả
một trái tim nhân hậu đằm thắm đối với người nông dân - những người sống cùng
tác giả. Những vấn đề Nam Cao đề cập trong tác phẩm đâu chỉ là cái nhìn sắc sảo,
cách phân tích hiện thực tinh tế, mà còn gắn với quan niệm của nhà văn về cuộc
sống, sáng lên tình cảm gắn bó, yêu thương trân trọng tất cả những giá trị cao đẹp
gắn
với
con
người
của
nhà
văn.
2. Ánh sáng của tình người nhân hậu ấy đã giúp nhà văn phát hiện ra nguyên nhân
của những tấn bi kịch đời người trong xã hội cũ, thắp sáng lên khát vọng mãnh liệt
muốn trở về cuộc sống lương thiện. Nhưng trong bóng đêm dày đặc của xã hội cũ,
ánh sáng ấy đã tắt ngấm với bao buồn thương bế tắc, trước khi ánh sáng của một
ngày mới bừng lên quét sạch bóng đêm. Tuy vậy, ngọn lửa của khát vọng làm
người vẫn âm ỉ nhức nhối trong từng câu chữ Nam Cao.
3. Bi kịch của Chí Phèo chỉ thật sự bắt đầu cùng với lần tỉnh rượu đầu tiên của
nhân vật, chứa đựng tất cả sóng gió đi qua cuộc đời Chí Phèo, sau đêm trăng huyền
thoại - cái đêm "trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng" - đã đem
đến cho Chí một người đàn bà đích thực trong cái lốt xấu xí "ma chê, quỷ hờn" :
Thị
Nở.
B. Phân : (cảm nhận chi tiết - phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật) :
*
Khoảnh
khắc
bi
kịch
của
Chí
Phèo
1/ Cùng với ánh sáng cuả một ngày mới, lần đầu tiên Chí Phèo nhận biết được
những âm thanh đời thường : "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười
nói của những người đi chợ. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cả một
đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh
của tâm-hồn-người trong con-quỷ-dữ của làng Vũ Đại thật cảm động. Một cảmgiác-người đã thức tỉnh lý trí, nối kết quá khứ với hiện tại, một thời yên bình xa
xưa và trước mắt là tuổi già, đói rét và ốm đau và cô độc.
2/ Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!"..
Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời
lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏmột con lợn nuôi để làm vốn liếng.
Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chao ôi là buồn! Vì mãi mãi cái ước mơ
về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy không bao giờ thành hiện thực, bởi bàn tay tội ác của
những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày
xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại
một cách lờ mờ "hình như…" cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương
thiện trước tội ác. Để khi hồi sinh thì không thể nào các thế lực hắc ám có thể bóp
chết
được
lương
tâm
bé
bỏng
ấy.
3/ Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp nhân vật ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn
giữa đồng loại của mình : "Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già củ hắn,
đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nam
Cao đã diễn tả đặc sắc và độc đáo giờ phút bừng thức của nhân vật, bằng lối văn
đặc tả sự "bâng khuâng" trong tâm hồn Chí Phèo. Phút ban đầu ấy, quá khứ mơ hồ,
hiện tại mơ hồ, tương lai mờ mịt đều nằm trong hai chữ "hình như…". Ở đó le lói
ngọn
lửa
của
một
trái
tim
Người.
4/ Thị Nở xuất hiện cùng nồi cháo hành đã thổi bùng ngọn lửa mong manh ấy, đem
đến cho trái tim Chí Phèo những nhịp đập đầu tiên của cảm giác tình yêu. Ngòi bút
phân tích tâm lý của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình về
lại với cõi người của Chí Phèo : bắt đầu từ ranh giới mong manh "hình như mắt
ươn ướt" như một tiếng khóc chào đón cuộc đời mới, cho đến khi Chí Phèo gặp nụ
cười Thị Nở là lúc tình yêu bắt đầu lên tiếng - giúp nhân vật ý thức đầy đủ về
quãng đời đã qua. Bát cháo thứ nhất là ý thức về Tình Yêu và Dục Vọng. Bát cháo
thứ hai là niềm sám hối về tội ác, mở ra khát khao hướng thiện mãnh liệt "Trời ơi,
hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở
đường cho hắn". Cùng với niềm khát khao ấy, Chí Phèo đã trở lại với bản chất của
anh Chí ngày xưa : hiền lành, lương thiện. Con đường trở về được hứa hẹn bằng nụ
cười tin cẩn của Thị Nở ,làm nở ra nụ cười Chí Phèo. Từ tiếng khóc đến nụ cười,
Chí Phèo đã thật sự vươn dậy cùng khát vọng làm người.
*
Thị
Nở
:
1/ Tình yêu và niềm tin mà Chí Phèo có được bắt đầu từ Thị Nở - nhân vật đẹp
nhất của tác phẩm. Có thể những chi tiết mô tả ngoại hình Thị Nở làm nguời đọc
nhớ nhiều và ấn tượng mạnh về người đàn bà nhan sắc xấu nhất trong lịch sử vă
nhọc. Và những kẻ vô tâm, chỉ quan tâm hình thức câu khách rẻ tiền mà thờ ơ
trước nỗi đau đồng loại mới cười cợt , gán ghép cho tác phẩm tên gọi sống sượng
"Đôi lứa xứng đôi". Người đàn bà Nam Cao tạo ra để ban tặng cho Chí Phèo để
giúp hắn trở lại làm người nếu là một mỹ nhân thì mới là điều lạ. Vẻ đẹp của Thị
Nở không nằm trong hình thức mà bộc lộ ngay trong những nét "dở hơi" ngược với
quan
niệm
xã
hội.
2/ Người đàn bà đó có đủ đức tính của một người tình tuyệt vời, một người vợ tảo
tần và có trái tim người mẹ bao dung, độ lượng. Trong cuộc gặp gỡ tình yêu Thị
Nở - Chí Phèo, Nam Cao đã lột tả những vẻ đẹp ấy thông qua những chuyển biến
tâm trạng Chí Phèo : người đàn bà đích thực đối lập với "con quỷ cái" bà Ba, "hắn
muốn làm nũng thị như với mẹ". Thị Nở có đầy đủ phẩm chất của một người bình
thường : biết lo toan, thương hại, có phút "lườm", "e lệ" trong cảm giác tình yêu và
trên tất cả là tiếng cười tin cẩn như một phép màu giải thoát cho con người thoát ra
mặc cảm tội lỗi. Có thể nói Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở bằng bút pháp
hiện thực trữ tình để gửi gắm niềm tin của chính ông vào bản chất hướng thiện của
con nguời. Thực tế trong đời có lẽ khó kiếm ra người nào hội tụ những cái xấu
nhường ấy và đẹp nhường ấy. Nhưng cuối cùng Thị Nở vẫn phải trở về với mảnh
đất hiện thực - nơi Thị có một bà cô già năm mươi tuổi chưa chồng, để được nghe
lời phán xét tương lai cho mối tình Chí Phèo - Thị Nở. Nhân vật vẫn không có
phép màu như trong cổ tích để có thể kéo hẳn Chí Phèo ra khỏi hình hài lốt quỷ để
hoà nhập vào cuộc sống thân thiện của loài người, bởi bản thân Thị Nở cũng bị cả
xã hội kia xem như "con vật ghê tởm nhất". Ta chợt nhận ra : cái gọi là hạnh phúc
ở đời không dành sẵn cho những người như Chí Phèo - Thị Nở, đó là thông điệp
đầy phẫn uất của Nam Cao. Tuy căm uất dâng tràn nhưng vẫn phải cố nén xuống
trong giọng văn tỉnh rụi - bản lĩnh nhà văn đã không để ông can thiệp vào số phận
nhân vật của mình một cách thô bạo, Nam Cao muốn những nguời đọc có lương tri
phải thấu hiểu những khoảnh khắc xung đột của Thị Nở, của Chí Phèo sau giờ phút
"thị trút vào mặt hắn nguyên vẹn lời bà cô". Đó là khoảnh khắc nẻo về của Chí đã
bị chặn đứng bởi những định kiến xã hội về một con người đã có quá nhiều vết đen
trong quá khứ - một kẻ "không cha không mẹ", chỉ có mỗi một "nghề rạch mặt ăn
vạ". Đôi khi những định kiến thật tàn nhẫn, nó tước đoạt cơ hội cuối cùng của Chí
Phèo
trở
lại
cuộc
sống
bình
thường.
*
Nỗi
đau
Chí
Phèo
:
1/ Trong giờ phút tột cùng đau đớn của một người tuyệt vọng, nhà văn đã để nhân
vật có những khoảnh khắc tâm trạng thật khó quên : "Hắn ngẩn người ra rồi chợt
hiểu", "hắn sửng sốt đứng lên gọi Thị lại…". Chỗ dựa cuối cùng để Chí tưởng có
thể đứng vững trên hành trình trở lại cõi người giờ đây không còn nữa! Ta có thể
nhận ra nỗi bàng hoàng đến ê chề của Chí. Tất cả đều sụp đổ, hắn trở về với cuộc
sống đầy bóng tối của mình. Nhưng điều không bình thường là ngay trong giờ phút
ấy, "hắn thoáng hít thấy hơi cháo hành" - hơi cháo tình người đích thực mà Chí đã
được
ban
tặng
từ
Thị
Nở
2/ Lại rượu, lại say, Chí muốn mượn rượu để quên đi thực tại, trở về với cuộc sống
u mê lẫn lộn thật giả tốt xấu trắng đen thiện ác của loài quỷ dữ. Nhưng lương tri đã
hồi sinh. Hơi cháo hành cứ lẫn cùng men rượu. Tiếng khóc bật ra "Hắn ôm mặt
rưng rức khóc" . Chưa khi nào, Chí lại phải chịu đựng sự giằng xé của lương tâm
dữ dội như vậy. Chí đang phải đối diện với chính mình, trong sự phán xét nghiêm
khắc
của
lương
tâm.
3/ Tưởng chừng tội ác đã thắng thế khi trong hơi rượu, Chí lại xách dao ra đi,
miệng lảm nhảm ý định "đâm chết cả nhà con đĩ Nở". Nhưng hơi cháo hành đã
quyện vào trong tâm hồn Chí, để giờ đây, tội ác không còn có thể sai khiến được
hành động của anh. Phần người còn lại đã chiến thắng chất quỷ dữ, để sau bao
nhiêu năm lầm lỡ, giờ đây Chí nhận rõ mặt kẻ thù, hành động có vẻ vô thức đã báo
hiệu cho một tiềm thức sâu thẳm của người lương thiện trong Chí. Con quỷ dữ đích
thực đã tước đoạt cả nhân tính lẫn nhân hình của Chí là Bá Kiến
*
Bá
Kiến
:
1/Bản lĩnh của một nhà văn và khả năng nhận thức sâu sắc thực tại xã hội đã giúp
Nam Cao phác họa chân dung của giai cấp bóc lột một cách đầy đủ nhất so với các
nhà văn đương thời. Bá Kiến được đặt vào một vị trí trang trọng trong xã hội, khi
nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ già đời trong nghề bóc lột : gia đình
bốn đời làm tổng lý, bản thân Bá Kiến từng là lý trưởng, chánh tổng; cha truyền
con nối trong thủ đoạn đè đầu cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế, vẫn được gọi
bằng ông, bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của Bá Kiến không phải chỉ bó
hẹp trong phạm vi của một làng, mà "cụ Bá" là "bá hộ, tiên chỉ, chánh hội đồng kỳ
hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu " - đại biểu cho cả một bộ máy thống trị
tay sai thực dân. Một nhân vật như thế, không thể là một kẻ hợm hĩnh và ngu dốt
như Nghị Quế (Tắt đèn - Ngô Tất Tố) hay chỉ có tàn bạo và tham lam như Nghị
Lại
(Bưóc
đường
cùng
Nguyễn
Công
Hoan).
2/ Nam Cao đã phác họa bản chất Bá Kiến bằng những chi tiết khó quên từ bên
ngoài đến bên trong : cụ Bá có tiếng quát rất sang để "nắn gân người khác", có nụ
cười Tào Tháo giòn giã và "bản thân cụ cũng tự hào hơn đời cái tiếng cười ấy".
Bên trong vẻ sang trọng là một con quỷ dâm ô, có tới bốn bà vợ mà còn đi cướp vợ
người - khi còn làm lý trưởng đã không bỏ lỡ cơ hội ve vãn vợ Binh Chức. Nhưng
điều nguy hiểm nhất ở Bá Kiến là tội ác đã được hắn nâng lên thành một nghệ thật
cai trị kẻ khác : "mềm nắn, rắn buông", "dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò", "nắm
lấy đứa có tóc", đặc biệt là những thủ đoạn rất nham hiểm :"Hãy vất người ta
xuống sông rồi hãy vớt nó lên để cho nó đền ơn, hãy đập bàn đập ghế đòi cho được
năm đồng, nhưng được rồi hãy vất trả lại năm hào vì "thuơng anh túng quá"". Chưa
một nhà văn nào lại giúp người đọc hình dung ra tội ác đáng sợ đến ghê tởm như
Nam Cao. Với tất cả các thủ thuật trị người ấy, Bá Kiến quả là một kẻ "khôn róc
đời" và đã phá tan cơ nghiệp của biết bao gia đình, đập nát hạnh phúc của bao
nguời. Đáng sợ nhất là chính những nạn nhân của Bá Kiến lại bị hắn biến thành
công cụ đắc lực của tội ác: Năm Thọ, Binh Chức - với bản tính lưu manh và đỉnh
điểm là Chí Phèo - đã thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
3/ Để Chí Phèo đến nhà Bá Kiến vào chính giờ phút "cụ Bá" đang ghen với lũ trai
trẻ vì "bà Tư phốp pháp, hai má hây hây…" và cụ đang có ý định "bỏ tù hết mấy
thằng trai trẻ", đoạn văn quả có thể làm chúng ta bật cười vì sự ghen tuông của một
ông lão đã ngoài sáu mươi, nhưng ta bỗng giật mình vì chứng tích của sự ghen
tuông đáng buồn cười ấy bỗng hiện ra : một thằng điên, một thằng say, một con
quỷ dữ của làng Vũ Đại, sẵn sàng đâm chém bất cứ ai - ngày xưa nó cũng là một
thằng
trai
trẻ…
*
Cuộc
đụng
đầu
Chí
Phèo
Bá
Kiến
:
Tình huống tất yếu phải xảy đến đã được Nam Cao dày công chuẩn bị cho nhân vật
của mình. Khi sự thâm hiểm và tàn bạo đã bị bóc trần, khi những "tiếng cười và
tiếng quát rất sang" của cụ Bá không còn nắn gân người khác như mọi khi đuợc
nữa, đó cũng là khoảnh khắc thức tỉnh lương tri của một con người. Chí Phèo trong
cơn say có những hành động thật đáng sợ. Nhưng có một điều, tiếng nói vang lên
"dõng dạc" lại là của một con người hoàn toàn tỉnh táo, của một anh Chí đang đòi
lại quyền "làm người lương thiện" đã bị bọn cường hào như Bá Kiến tước đoạt. Sự
thật được nói lên, khiến Bá Kiến phải run sợ, "dịu giọng" để lảng tránh. Mặt nạ rơi
xuống, Bá Kiến hiện nguyên hình là con quỷ dữ nham hiểm và hèn nhát đang cố
trốn chạy sự trừng phạt của lương tri thức tỉnh. Nam Cao đã để cho Chí trong giờ
phút ấy cất lên những lời đau đớn : " Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất
những vết mảnh chai trên mặt này?". Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn
mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe
của xã hội. Muốn trở về, Chí "chỉ còn một cách" là giết chết con quỷ dữ trong
chính anh. Giờ phút Chí vung dao lên kết liễu đời Bá Kiến là hành động tất yếu
phải xảy đến, sau đó chính anh phải tự sát đã là một câu trả lời của Nam Cao giải
đáp rõ nguyên nhân bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội cũ - sự bế tắc,
quẩn
quanh
vẫn
đè
nặng
lên
cuộc
sống
của
họ.
*
Điều
còn
lại
sau
hai
cái
chết
:
Không dừng lại sau hành động nhân vật đâm chết kẻ thù và tự hủy chính mình,
Nam Cao đã dành khúc vĩ thanh để nói lên thái độ của mọi người sau hai cái chết
bất ngờ. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, những phe cánh cường hào hí hửng vì loại được
đối thủ mạnh mà không tốn công đổ sức. Cũng có nghĩa là làng Vũ Đại vẫn như
xưa, vẫn cái cảnh đám cường hào chức dịch "hè nhau bóc lột con em đến tận
xương tủy và nhè từng chỗ hở của nhau để trị". Một màu xám ảm đạm vẫn bao
trùm lên cuộc sống, nó khiến những người lương thiện phải lo âu "tre già măng
mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác…". Và như vậy, cái chết của Chí Phèo - Bá
Kiến
thật
vô
nghĩa.
Nhưng vẫn có một người nghĩ khác mọi người : Thị Nở. Chỉ có mình Thị còn lóe
lên trong tâm tư hình ảnh của một con người "hiền như đất". Suy nghĩ ấy như một
niềm an ủi cho vong linh Chí Phèo, ít ra cũng còn có một người thừa nhận anh là
người trong thẳm sâu lốt quỷ. Người ta chỉ thật sự chết khi bị cuộc đời lãng quên,
chối bỏ. Chí vẫn sống trong tâm hồn người đàn bà đích thực của cuộc đời anh. Có
thể nhận ra ở chi tiết này thái độ chiêu tuyết cho nhân vật của chính Nam Cao, là
niềm tin vào sự bất diệt của chất người sẽ không bao giờ bị hủy diệt.
C.
Hợp:
Chi tiết cuối cùng của tác phẩm lại là hình ảnh "cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà
cửa và vắng người qua lại…" là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao.
Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Trong cái nhìn
của Nam Cao ,chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc : nếu không thay đổi thực tại, sẽ
lại tiếp tục những bi kịch quẩn quanh không lối thoát của con người. Thị Nở có thể
chấp nhận Chí Phèo, nhưng không thể đối mặt với thành kiến, với tập tục của làng
xã. Bi kịch chửa hoang phải bỏ làng đi của con gái Tự Lãng vẫn còn đó. Cái lò
gạch cũ là chứng tích của bao số phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội
thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người
tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng
dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lý. Trong hoàn
cảnh hiện thực lúc bấy giờ, chúng ta không thể trách thái độ bi quan của nhà văn
trước hiện thực. Nhưng bản thân sự việc ấy đã gợi lên suy nghĩ nung nấu trong
lòng độc giả về sự cần thiết phải thay đổi hoàn cảnh để tránh cho con người khỏi sa
vào vòng luẩn quẩn. Đó cũng là ý nghĩa xã hội tích cực của tác phẩm Chí Phèo.
III.
Kết
thúc
vấn
đề
:
Đọc Chí Phèo, ta càng trân trọng tấm lòng đối với con người của nhà văn Nam
Cao, hiểu được thái độ dũng cảm đối mặt hiện thực của một người cầm bút chân
chính. Tác phẩm chính là minh chứng cho một quan niệm sáng tác đúng đắn của
nhà văn, để "người gần người hơn". Có lẽ xuất phát từ tấm lòng ấy, tác phẩm vẫn
sống mãi trong lòng bao thế hệ độc giả.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NHÀ VĂN NAM CAO.
Vấn
đề
cần
triển
khai
về
"Chí
Phèo"
:
- Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân
hình.
- Bá Kiến : Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi.
- Chí Phèo : nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở.
- Thị Nở : khát vọng : tình yêu <--> hạnh phúc --> làm người
"người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng.)
- Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng
- Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn
I.
Đặt
vấn
đề
:
* Cách 1 :Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam , Nam Cao
nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau
trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của
Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí
ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn
bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng
nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong
những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân
hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm
1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của
người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình
người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc.
* Cách 2 : Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc
"Chí Phèo" của Nam Cao. Nhà văn đã mở ra một cuộc đời đầy bi kịch của một Chí
Phèo - thù hận với tất cả : cuộc đời - xã hội - con người và ngay cả bản thân, một
Chí Phèo triền miên trong những cơn say, mất cả lương tri, trên hành trình dài đằng
đẵng của một kiếp sống không ra sống, trong không gian tăm tối ngột ngạt của xã
hội Việt Nam đêm trước của cách mạng. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc vào một
cuộc đời đau khổ và kết thúc trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc. Để khi gấp trang
sách lại, trái itm mỗi người vẫn còn thổn thức những buồn thương đau đớn trước bi
kịch khó tin của những người không được làm người lương thiện trong xã hội cũ.
II.
A.
Giải
Tổng
:
quyết
(bao
quát
vấn
tinh
thần
đề
của
tác
:
phẩm)
1. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ do tài năng của Nam Cao đã tạo dựng được
cốt truyện theo kết cấu rất hiện đại, mà trước hết xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc
của nhà vănvới đồng loại của mình. Đằng sau lối kể chuyện lạnh lùng tỉnh táo là cả
một trái tim nhân hậu đằm thắm đối với người nông dân - những người sống cùng
tác giả. Những vấn đề Nam Cao đề cập trong tác phẩm đâu chỉ là cái nhìn sắc sảo,
cách phân tích hiện thực tinh tế, mà còn gắn với quan niệm của nhà văn về cuộc
sống, sáng lên tình cảm gắn bó, yêu thương trân trọng tất cả những giá trị cao đẹp
gắn
với
con
người
của
nhà
văn.
2. Ánh sáng của tình người nhân hậu ấy đã giúp nhà văn phát hiện ra nguyên nhân
của những tấn bi kịch đời người trong xã hội cũ, thắp sáng lên khát vọng mãnh liệt
muốn trở về cuộc sống lương thiện. Nhưng trong bóng đêm dày đặc của xã hội cũ,
ánh sáng ấy đã tắt ngấm với bao buồn thương bế tắc, trước khi ánh sáng của một
ngày mới bừng lên quét sạch bóng đêm. Tuy vậy, ngọn lửa của khát vọng làm
người vẫn âm ỉ nhức nhối trong từng câu chữ Nam Cao.
3. Bi kịch của Chí Phèo chỉ thật sự bắt đầu cùng với lần tỉnh rượu đầu tiên của
nhân vật, chứa đựng tất cả sóng gió đi qua cuộc đời Chí Phèo, sau đêm trăng huyền
thoại - cái đêm "trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng" - đã đem
đến cho Chí một người đàn bà đích thực trong cái lốt xấu xí "ma chê, quỷ hờn" :
Thị
Nở.
B. Phân : (cảm nhận chi tiết - phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật) :
*
Khoảnh
khắc
bi
kịch
của
Chí
Phèo
1/ Cùng với ánh sáng cuả một ngày mới, lần đầu tiên Chí Phèo nhận biết được
những âm thanh đời thường : "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười
nói của những người đi chợ. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cả một
đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh
của tâm-hồn-người trong con-quỷ-dữ của làng Vũ Đại thật cảm động. Một cảmgiác-người đã thức tỉnh lý trí, nối kết quá khứ với hiện tại, một thời yên bình xa
xưa và trước mắt là tuổi già, đói rét và ốm đau và cô độc.
2/ Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!"..
Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời
lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏmột con lợn nuôi để làm vốn liếng.
Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chao ôi là buồn! Vì mãi mãi cái ước mơ
về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy không bao giờ thành hiện thực, bởi bàn tay tội ác của
những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày
xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại
một cách lờ mờ "hình như…" cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương
thiện trước tội ác. Để khi hồi sinh thì không thể nào các thế lực hắc ám có thể bóp
chết
được
lương
tâm
bé
bỏng
ấy.
3/ Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp nhân vật ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn
giữa đồng loại của mình : "Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già củ hắn,
đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nam
Cao đã diễn tả đặc sắc và độc đáo giờ phút bừng thức của nhân vật, bằng lối văn
đặc tả sự "bâng khuâng" trong tâm hồn Chí Phèo. Phút ban đầu ấy, quá khứ mơ hồ,
hiện tại mơ hồ, tương lai mờ mịt đều nằm trong hai chữ "hình như…". Ở đó le lói
ngọn
lửa
của
một
trái
tim
Người.
4/ Thị Nở xuất hiện cùng nồi cháo hành đã thổi bùng ngọn lửa mong manh ấy, đem
đến cho trái tim Chí Phèo những nhịp đập đầu tiên của cảm giác tình yêu. Ngòi bút
phân tích tâm lý của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình về
lại với cõi người của Chí Phèo : bắt đầu từ ranh giới mong manh "hình như mắt
ươn ướt" như một tiếng khóc chào đón cuộc đời mới, cho đến khi Chí Phèo gặp nụ
cười Thị Nở là lúc tình yêu bắt đầu lên tiếng - giúp nhân vật ý thức đầy đủ về
quãng đời đã qua. Bát cháo thứ nhất là ý thức về Tình Yêu và Dục Vọng. Bát cháo
thứ hai là niềm sám hối về tội ác, mở ra khát khao hướng thiện mãnh liệt "Trời ơi,
hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở
đường cho hắn". Cùng với niềm khát khao ấy, Chí Phèo đã trở lại với bản chất của
anh Chí ngày xưa : hiền lành, lương thiện. Con đường trở về được hứa hẹn bằng nụ
cười tin cẩn của Thị Nở ,làm nở ra nụ cười Chí Phèo. Từ tiếng khóc đến nụ cười,
Chí Phèo đã thật sự vươn dậy cùng khát vọng làm người.
*
Thị
Nở
:
1/ Tình yêu và niềm tin mà Chí Phèo có được bắt đầu từ Thị Nở - nhân vật đẹp
nhất của tác phẩm. Có thể những chi tiết mô tả ngoại hình Thị Nở làm nguời đọc
nhớ nhiều và ấn tượng mạnh về người đàn bà nhan sắc xấu nhất trong lịch sử vă
nhọc. Và những kẻ vô tâm, chỉ quan tâm hình thức câu khách rẻ tiền mà thờ ơ
trước nỗi đau đồng loại mới cười cợt , gán ghép cho tác phẩm tên gọi sống sượng
"Đôi lứa xứng đôi". Người đàn bà Nam Cao tạo ra để ban tặng cho Chí Phèo để
giúp hắn trở lại làm người nếu là một mỹ nhân thì mới là điều lạ. Vẻ đẹp của Thị
Nở không nằm trong hình thức mà bộc lộ ngay trong những nét "dở hơi" ngược với
quan
niệm
xã
hội.
2/ Người đàn bà đó có đủ đức tính của một người tình tuyệt vời, một người vợ tảo
tần và có trái tim người mẹ bao dung, độ lượng. Trong cuộc gặp gỡ tình yêu Thị
Nở - Chí Phèo, Nam Cao đã lột tả những vẻ đẹp ấy thông qua những chuyển biến
tâm trạng Chí Phèo : người đàn bà đích thực đối lập với "con quỷ cái" bà Ba, "hắn
muốn làm nũng thị như với mẹ". Thị Nở có đầy đủ phẩm chất của một người bình
thường : biết lo toan, thương hại, có phút "lườm", "e lệ" trong cảm giác tình yêu và
trên tất cả là tiếng cười tin cẩn như một phép màu giải thoát cho con người thoát ra
mặc cảm tội lỗi. Có thể nói Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở bằng bút pháp
hiện thực trữ tình để gửi gắm niềm tin của chính ông vào bản chất hướng thiện của
con nguời. Thực tế trong đời có lẽ khó kiếm ra người nào hội tụ những cái xấu
nhường ấy và đẹp nhường ấy. Nhưng cuối cùng Thị Nở vẫn phải trở về với mảnh
đất hiện thực - nơi Thị có một bà cô già năm mươi tuổi chưa chồng, để được nghe
lời phán xét tương lai cho mối tình Chí Phèo - Thị Nở. Nhân vật vẫn không có
phép màu như trong cổ tích để có thể kéo hẳn Chí Phèo ra khỏi hình hài lốt quỷ để
hoà nhập vào cuộc sống thân thiện của loài người, bởi bản thân Thị Nở cũng bị cả
xã hội kia xem như "con vật ghê tởm nhất". Ta chợt nhận ra : cái gọi là hạnh phúc
ở đời không dành sẵn cho những người như Chí Phèo - Thị Nở, đó là thông điệp
đầy phẫn uất của Nam Cao. Tuy căm uất dâng tràn nhưng vẫn phải cố nén xuống
trong giọng văn tỉnh rụi - bản lĩnh nhà văn đã không để ông can thiệp vào số phận
nhân vật của mình một cách thô bạo, Nam Cao muốn những nguời đọc có lương tri
phải thấu hiểu những khoảnh khắc xung đột của Thị Nở, của Chí Phèo sau giờ phút
"thị trút vào mặt hắn nguyên vẹn lời bà cô". Đó là khoảnh khắc nẻo về của Chí đã
bị chặn đứng bởi những định kiến xã hội về một con người đã có quá nhiều vết đen
trong quá khứ - một kẻ "không cha không mẹ", chỉ có mỗi một "nghề rạch mặt ăn
vạ". Đôi khi những định kiến thật tàn nhẫn, nó tước đoạt cơ hội cuối cùng của Chí
Phèo
trở
lại
cuộc
sống
bình
thường.
*
Nỗi
đau
Chí
Phèo
:
1/ Trong giờ phút tột cùng đau đớn của một người tuyệt vọng, nhà văn đã để nhân
vật có những khoảnh khắc tâm trạng thật khó quên : "Hắn ngẩn người ra rồi chợt
hiểu", "hắn sửng sốt đứng lên gọi Thị lại…". Chỗ dựa cuối cùng để Chí tưởng có
thể đứng vững trên hành trình trở lại cõi người giờ đây không còn nữa! Ta có thể
nhận ra nỗi bàng hoàng đến ê chề của Chí. Tất cả đều sụp đổ, hắn trở về với cuộc
sống đầy bóng tối của mình. Nhưng điều không bình thường là ngay trong giờ phút
ấy, "hắn thoáng hít thấy hơi cháo hành" - hơi cháo tình người đích thực mà Chí đã
được
ban
tặng
từ
Thị
Nở
2/ Lại rượu, lại say, Chí muốn mượn rượu để quên đi thực tại, trở về với cuộc sống
u mê lẫn lộn thật giả tốt xấu trắng đen thiện ác của loài quỷ dữ. Nhưng lương tri đã
hồi sinh. Hơi cháo hành cứ lẫn cùng men rượu. Tiếng khóc bật ra "Hắn ôm mặt
rưng rức khóc" . Chưa khi nào, Chí lại phải chịu đựng sự giằng xé của lương tâm
dữ dội như vậy. Chí đang phải đối diện với chính mình, trong sự phán xét nghiêm
khắc
của
lương
tâm.
3/ Tưởng chừng tội ác đã thắng thế khi trong hơi rượu, Chí lại xách dao ra đi,
miệng lảm nhảm ý định "đâm chết cả nhà con đĩ Nở". Nhưng hơi cháo hành đã
quyện vào trong tâm hồn Chí, để giờ đây, tội ác không còn có thể sai khiến được
hành động của anh. Phần người còn lại đã chiến thắng chất quỷ dữ, để sau bao
nhiêu năm lầm lỡ, giờ đây Chí nhận rõ mặt kẻ thù, hành động có vẻ vô thức đã báo
hiệu cho một tiềm thức sâu thẳm của người lương thiện trong Chí. Con quỷ dữ đích
thực đã tước đoạt cả nhân tính lẫn nhân hình của Chí là Bá Kiến
*
Bá
Kiến
:
1/Bản lĩnh của một nhà văn và khả năng nhận thức sâu sắc thực tại xã hội đã giúp
Nam Cao phác họa chân dung của giai cấp bóc lột một cách đầy đủ nhất so với các
nhà văn đương thời. Bá Kiến được đặt vào một vị trí trang trọng trong xã hội, khi
nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ già đời trong nghề bóc lột : gia đình
bốn đời làm tổng lý, bản thân Bá Kiến từng là lý trưởng, chánh tổng; cha truyền
con nối trong thủ đoạn đè đầu cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế, vẫn được gọi
bằng ông, bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của Bá Kiến không phải chỉ bó
hẹp trong phạm vi của một làng, mà "cụ Bá" là "bá hộ, tiên chỉ, chánh hội đồng kỳ
hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu " - đại biểu cho cả một bộ máy thống trị
tay sai thực dân. Một nhân vật như thế, không thể là một kẻ hợm hĩnh và ngu dốt
như Nghị Quế (Tắt đèn - Ngô Tất Tố) hay chỉ có tàn bạo và tham lam như Nghị
Lại
(Bưóc
đường
cùng
Nguyễn
Công
Hoan).
2/ Nam Cao đã phác họa bản chất Bá Kiến bằng những chi tiết khó quên từ bên
ngoài đến bên trong : cụ Bá có tiếng quát rất sang để "nắn gân người khác", có nụ
cười Tào Tháo giòn giã và "bản thân cụ cũng tự hào hơn đời cái tiếng cười ấy".
Bên trong vẻ sang trọng là một con quỷ dâm ô, có tới bốn bà vợ mà còn đi cướp vợ
người - khi còn làm lý trưởng đã không bỏ lỡ cơ hội ve vãn vợ Binh Chức. Nhưng
điều nguy hiểm nhất ở Bá Kiến là tội ác đã được hắn nâng lên thành một nghệ thật
cai trị kẻ khác : "mềm nắn, rắn buông", "dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò", "nắm
lấy đứa có tóc", đặc biệt là những thủ đoạn rất nham hiểm :"Hãy vất người ta
xuống sông rồi hãy vớt nó lên để cho nó đền ơn, hãy đập bàn đập ghế đòi cho được
năm đồng, nhưng được rồi hãy vất trả lại năm hào vì "thuơng anh túng quá"". Chưa
một nhà văn nào lại giúp người đọc hình dung ra tội ác đáng sợ đến ghê tởm như
Nam Cao. Với tất cả các thủ thuật trị người ấy, Bá Kiến quả là một kẻ "khôn róc
đời" và đã phá tan cơ nghiệp của biết bao gia đình, đập nát hạnh phúc của bao
nguời. Đáng sợ nhất là chính những nạn nhân của Bá Kiến lại bị hắn biến thành
công cụ đắc lực của tội ác: Năm Thọ, Binh Chức - với bản tính lưu manh và đỉnh
điểm là Chí Phèo - đã thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
3/ Để Chí Phèo đến nhà Bá Kiến vào chính giờ phút "cụ Bá" đang ghen với lũ trai
trẻ vì "bà Tư phốp pháp, hai má hây hây…" và cụ đang có ý định "bỏ tù hết mấy
thằng trai trẻ", đoạn văn quả có thể làm chúng ta bật cười vì sự ghen tuông của một
ông lão đã ngoài sáu mươi, nhưng ta bỗng giật mình vì chứng tích của sự ghen
tuông đáng buồn cười ấy bỗng hiện ra : một thằng điên, một thằng say, một con
quỷ dữ của làng Vũ Đại, sẵn sàng đâm chém bất cứ ai - ngày xưa nó cũng là một
thằng
trai
trẻ…
*
Cuộc
đụng
đầu
Chí
Phèo
Bá
Kiến
:
Tình huống tất yếu phải xảy đến đã được Nam Cao dày công chuẩn bị cho nhân vật
của mình. Khi sự thâm hiểm và tàn bạo đã bị bóc trần, khi những "tiếng cười và
tiếng quát rất sang" của cụ Bá không còn nắn gân người khác như mọi khi đuợc
nữa, đó cũng là khoảnh khắc thức tỉnh lương tri của một con người. Chí Phèo trong
cơn say có những hành động thật đáng sợ. Nhưng có một điều, tiếng nói vang lên
"dõng dạc" lại là của một con người hoàn toàn tỉnh táo, của một anh Chí đang đòi
lại quyền "làm người lương thiện" đã bị bọn cường hào như Bá Kiến tước đoạt. Sự
thật được nói lên, khiến Bá Kiến phải run sợ, "dịu giọng" để lảng tránh. Mặt nạ rơi
xuống, Bá Kiến hiện nguyên hình là con quỷ dữ nham hiểm và hèn nhát đang cố
trốn chạy sự trừng phạt của lương tri thức tỉnh. Nam Cao đã để cho Chí trong giờ
phút ấy cất lên những lời đau đớn : " Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất
những vết mảnh chai trên mặt này?". Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn
mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe
của xã hội. Muốn trở về, Chí "chỉ còn một cách" là giết chết con quỷ dữ trong
chính anh. Giờ phút Chí vung dao lên kết liễu đời Bá Kiến là hành động tất yếu
phải xảy đến, sau đó chính anh phải tự sát đã là một câu trả lời của Nam Cao giải
đáp rõ nguyên nhân bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội cũ - sự bế tắc,
quẩn
quanh
vẫn
đè
nặng
lên
cuộc
sống
của
họ.
*
Điều
còn
lại
sau
hai
cái
chết
:
Không dừng lại sau hành động nhân vật đâm chết kẻ thù và tự hủy chính mình,
Nam Cao đã dành khúc vĩ thanh để nói lên thái độ của mọi người sau hai cái chết
bất ngờ. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, những phe cánh cường hào hí hửng vì loại được
đối thủ mạnh mà không tốn công đổ sức. Cũng có nghĩa là làng Vũ Đại vẫn như
xưa, vẫn cái cảnh đám cường hào chức dịch "hè nhau bóc lột con em đến tận
xương tủy và nhè từng chỗ hở của nhau để trị". Một màu xám ảm đạm vẫn bao
trùm lên cuộc sống, nó khiến những người lương thiện phải lo âu "tre già măng
mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác…". Và như vậy, cái chết của Chí Phèo - Bá
Kiến
thật
vô
nghĩa.
Nhưng vẫn có một người nghĩ khác mọi người : Thị Nở. Chỉ có mình Thị còn lóe
lên trong tâm tư hình ảnh của một con người "hiền như đất". Suy nghĩ ấy như một
niềm an ủi cho vong linh Chí Phèo, ít ra cũng còn có một người thừa nhận anh là
người trong thẳm sâu lốt quỷ. Người ta chỉ thật sự chết khi bị cuộc đời lãng quên,
chối bỏ. Chí vẫn sống trong tâm hồn người đàn bà đích thực của cuộc đời anh. Có
thể nhận ra ở chi tiết này thái độ chiêu tuyết cho nhân vật của chính Nam Cao, là
niềm tin vào sự bất diệt của chất người sẽ không bao giờ bị hủy diệt.
C.
Hợp:
Chi tiết cuối cùng của tác phẩm lại là hình ảnh "cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà
cửa và vắng người qua lại…" là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao.
Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Trong cái nhìn
của Nam Cao ,chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc : nếu không thay đổi thực tại, sẽ
lại tiếp tục những bi kịch quẩn quanh không lối thoát của con người. Thị Nở có thể
chấp nhận Chí Phèo, nhưng không thể đối mặt với thành kiến, với tập tục của làng
xã. Bi kịch chửa hoang phải bỏ làng đi của con gái Tự Lãng vẫn còn đó. Cái lò
gạch cũ là chứng tích của bao số phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội
thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người
tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng
dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lý. Trong hoàn
cảnh hiện thực lúc bấy giờ, chúng ta không thể trách thái độ bi quan của nhà văn
trước hiện thực. Nhưng bản thân sự việc ấy đã gợi lên suy nghĩ nung nấu trong
lòng độc giả về sự cần thiết phải thay đổi hoàn cảnh để tránh cho con người khỏi sa
vào vòng luẩn quẩn. Đó cũng là ý nghĩa xã hội tích cực của tác phẩm Chí Phèo.
III.
Kết
thúc
vấn
đề
:
Đọc Chí Phèo, ta càng trân trọng tấm lòng đối với con người của nhà văn Nam
Cao, hiểu được thái độ dũng cảm đối mặt hiện thực của một người cầm bút chân
chính. Tác phẩm chính là minh chứng cho một quan niệm sáng tác đúng đắn của
nhà văn, để "người gần người hơn". Có lẽ xuất phát từ tấm lòng ấy, tác phẩm vẫn
sống
mãi
trong
lòng
bao
thế
hệ
độc
giả.
__________________
- Xem thêm -