Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn kinh nghiệm chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng quản l...

Tài liệu Skkn kinh nghiệm chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng quản lí và đổi mới phương pháp dạy học trong trườngtiểu học

.PDF
18
153
105

Mô tả:

PHẦN THỨ NHẤT ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Công tác quản lí giáo dục luôn là công việc đòi hỏi người cán bộ quản lí phải đầu tư công sức, sáng tạo trong công việc, đổi mới trong tư duy và linh hoạt trong chỉ đạo. Thực hiện chủ đề năm học 2008- 2009 "Năm học ứng dụng công nghệ thông tin và đổi mới quản lí tài chính” thực sự đã đặt ra cho mỗi cán bộ quản lí những trăn trở, suy nghĩ trong công việc của mình. Theo ông Lê Tiến Thành - Phó Vụ trưởng Vụ giáo dục tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo( BGD&ĐT) thì: “Mục đích của việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lí; giúp các thầy cô giáo nâng cao chất lượng dạy học; trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử dụng máy tính như một công cụ nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kì hiện đại hoá”. Qua 2 năm học thực hiện chủ đề năm học ứng dụng CNTT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi nói riêng và các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Thanh Hoá nói chung đã và đang phát huy hết nội lực có thể song đang ở bước đi đầu tiên trên một chặng đường dài, hiệu quả của việc ứng dụng CNTT so với mục tiêu mà ngành đề ra đang còn nhiều hạn chế, tồn tại như cơ sở vật chất chưa đảm bảo, trình độ tin học của đội ngũ còn yếu, giáo viên Tin học còn thiếu, nhiều trường việc triển khai chỉ đạo của cán bộ quản lí còn lúng túng... Là một cán bộ quản lí ở trường Tiểu học, đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và những thành tựu to lớn mà nó đã đem lại trong mọi hoạt động của con người; Hoà chung với xu thế phát triển của thời đại, nhằm thúc đẩy tiến trình đổi mới nhà trường theo hướng hội nhập và nhằm khắc phục những thực trạng trên để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học 2010 - 2011, Ban Giám hiệu trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - Thành phố Thanh Hoá, trong những năm gần đây đã chọn nhiều biện pháp chỉ đạo các hoạt động giáo dục trong nhà trường nhằm đổi mới công tác quản lí, nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó Công tác chỉ đạo ứng dụng CNTT trong trường học là một trong những biện pháp ưu tiên hàng đầu.Với cách làm của nhà trường, bước đầu chúng tôi đã thu được kết quả đáng ghi nhận. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra“ Kinh nghiệm chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng quản lí và đổi mới phương pháp dạy học trong trườngTiểu học” 2. Mục đích của đề tài Khi đưa ra một số biện pháp chỉ đạo công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - Thành phố Thanh Hoá, tôi muốn cùng các đồng nghiệp chia sẻ những kinh nghiệm trong công tác quản 1 lí; trao đổi, bàn luận để tìm ra những biện pháp thiết thực, khả thi nhất về việc ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng quản lí và đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. PHẦN THỨ HAI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Luật giáo dục năm 2005 (Điều 5) quy định: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên". Trong xu thế hội nhập với thế giới của Việt Nam, lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong đó có giáo dục tiểu học không phải là ngoại lệ là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Điều quan trọng trong quá trình hội nhập này là bản thân chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ trong cách dạy, cách học và phương pháp quản lí giáo dục tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh đó, tuỳ theo hoàn cảnh thực tế của từng đơn vị mà các nhà quản lí áp dụng những biện pháp cụ thể sao cho đạt hiệu quả cao nhất như mong muốn. Một trong những đặc điểm nổi bật của xu hướng giáo dục hiện đại là sự thay đổi trong mô hình giáo dục. Trong triết lí giáo dục mới này, học sinh là trung tâm của mô hình giáo dục thay cho cho giáo viên trong mô hình giáo dục truyền thống. Sự thay đổi tư duy giáo dục này là hợp lí vì trong quá trình hội nhập, hiệu quả vận hành của một tổ chức hay cá nhân được đánh giá dựa trên kết quả, chất lượng. Học sinh là sản phẩm của trường học, chất lượng học sinh chính là thước đo, là tiêu chí đánh giá căn bản nhất đối với hoạt động của một đơn vị nhà trường. Với việc thay đổi mô hình giáo dục thì việc thay đổi môi trường giáo dục cũng là điều tất yếu. Mọi nguồn lực và chiến lược phát triển trong nhà trường đều nhằm tạo lập một môi trường học tập cởi mở, sáng tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại sẽ cung cấp tối đa khả năng tự học, tự tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh khi giáo viên chỉ hướng dẫn kĩ năng, phương pháp giải quyết công việc. Để hiện thực hoá điều đó thì công nghệ thông tin là một công cụ hữu hiệu. Với sự thay đổi căn bản về mô hình giáo dục, vai trò của CNTT trở nên đặc biệt quan trọng. CNTT là công cụ cần thiết, phục vụ hiệu quả các quy trình quản lí trong trường học. Đặc điểm nổi trội là thông qua dữ liệu, thông tin được lưu trữ, xử lí, các tiêu chí quản lí nhà trường được mã hoá từ định tính sang định lượng. Bên cạnh đó, sự minh bạch và chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các thành viên trong nhà trường sẽ làm tăng hiệu quả vận hành, quản lí và chất lượng giáo dục của nhà trường. Vì vậy ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường là việc làm thiết yếu, hữu dụng. 2.Thực trạng vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng quản lí và đổi mới phương pháp dạy học ở trường TH Nguyễn Văn Trỗi - Thành phố Thanh Hoá 2 2.1.Thuận lợi Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - Thành phố Thanh Hoá có bề dày truyền thống dạy tốt - học tốt, luôn đi đầu trong việc cải tiến các phương pháp dạy học, 18 năm liền nhà trường đạt Danh hiệu trường tiên tiến cấp Tỉnh. Năm học 2009 - 2010, trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn I. Phụ huynh học sinh của nhà trường tuy mức sống không cao song luôn có sự quan tâm đúng mức đến chất lượng học tập của con em, quan tâm đến công tác xã hội hoá giáo dục. Hơn nữa, nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, say sưa với công việc, tâm huyết với nghề, khả năng tiếp thu những phương pháp mới trong dạy học rất tốt đặc biệt là lĩnh vực khoa học CNTT. Học sinh với số lượng lớn, nhu cầu được học Tin học cao, chăm chỉ, chuyên cần học tập, thích khám phá những điều mới mẻ nhất là những thông tin trên máy vi tính. 2.2 Khó khăn Tuy nhiên để chỉ đạo tốt vấn đề ứng dụng CNTT trong nhà trường cán bộ quản lí chúng tôi vẫn còn gặp một số khó khăn: + Cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại như: máy tính, máy chiếu đa năng còn ít . + Khả năng thực hành đánh văn bản của giáo viên khá tốt song thiết kế những tiết học có ứng dụng CNTT của thầy cô trong trường còn hạn chế. + Việc khai thác, chia sẻ, trao đổi thông tin trên mạng một số giáo viên chưa thành thạo. 2.3. Thực trạng - Trong những năm gần đây, tình trạng giáo viên tiểu học trên toàn quốc nói chung và giáo viên trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - Thành phố Thanh Hoá nói riêng thực hiện chương trình dạy 2 buổi/ ngày, với việc chuẩn bị mỗi ngày 5 - 7 giáo án viết tay cùng với việc đứng lớp cả ngày quả là quá vất vả. Do đó thời gian nghiên cứu bài không nhiều, đồ dùng trực quan không được chuẩn bị chu đáo, tình trạng thầy dạy chay - trò học chay vẫn còn. Học sinh trong trường nhiều khối chưa được học Tin học do đó việc hướng dẫn các em học trên các phần mềm, hay tham gia các cuộc thi học sinh giỏi qua mạng internet gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, cơ sở vật chất nhà trường còn nhiều thiếu thốn đặc biệt là hệ thống máy tính, máy chiếu đa năng, những công cụ thiết yếu của việc ứng dụng CNTT.... - Nhận thức của cha mẹ học sinh chưa đồng đều, một bộ phận phụ huynh do chưa thấy được ích lợi của việc học Tin học nên chưa coi trọng môn học tự chọn này. - Đối với cán bộ quản lí, ngoài việc chỉ đạo các hoạt động dạy và học trong nhà trường thì quá bận rộn với việc lập kế hoạch, viết báo cáo, làm hồ sơ công tác quản lí nhân sự, quản lí giáo viên, học sinh, hồ sơ công tác điều tra Phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi ... không còn nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu cải tiến chất lượng dạy và học. - Từ thực trạng trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vấn đề này thành chủ đề năm học 2008 - 2009: Năm học ứng dụng công nghệ thông tin, với 3 tinh thần giao nhiệm vụ cho từng cấp học, từng bậc học, từng nhà trường, từng cán bộ quản lí và mỗi giáo viên để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. Điều đó đã thúc dục sự tìm tòi, học hỏi vươn lên của cán bộ giáo viên nói chung và quản lí các nhà trường nói riêng, tìm hiểu, khám phá để đến với những ứng dụng một thế giới mới của tri thức đó là CNTT. 3. Giải pháp thực hiện Để làm tốt việc ứng dụng CNTT nâng cao chất lượng quản lí và đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường, chúng tôi tiến hành các giải pháp cơ bản sau đây: 3.1. Ban Giám hiệu quán triệt chủ trương và thống nhất biện pháp triển khai công tác ứng dụng CNTT trong nhà trường - Cán bộ quản lí nhà trường nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao cho, tìm hiểu, nghiên cứu về những ứng dụng của CNTT nói chung và ứng dụng trong nhà trường nói riêng. Chúng tôi nhận thấy CNTT đã mang lại những ứng dụng thiết thực và lập kế hoạch cụ thể và bàn bạc thống nhất từng bước đi cụ thể để đổi mới công tác quản lí, từng bước làm thay đổi nhận thức lệch lạc của một số phụ huynh học sinh, đồng thời khuyến khích họ làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, mua sắm trang thiết bị hiện đại như máy tính, máy chiếu đa năng, các thiết bị trợ giảng... phục vụ cho quá trình dạy và học trong nhà trường, bồi dưỡng trình độ CNTT cho đội ngũ CBGV giúp họ nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT và các kĩ năng thực hành, động viên các thầy cô giáo ứng dụng CNTT trong giảng dạy, mở rộng quy mô việc dạy và học Tin học.... 3.2. Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dạy và học môn tự chọn Tin học Ban Giám hiệu nhà trường xác định, dạy và học Tin học là bước đi đầu tiên trong việc ứng dụng CNTT đổi mới công tác quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục. Đó là đào tạo thế hệ trẻ, nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Những năm 2006 về trước nhà trường đã từng triển khai việc dạy và học Tin học song chưa quy mô, giáo viên dạy Tin học chưa được đào tạo cơ bản mà chọn một giáo viên trong trường biết về Tin học để dạy các em với chương trình đơn giản là học sinh được tiếp cận với máy vi tính, tập đánh văn bản...Song với nhận thức của một cán bộ quản lí, nếu học sinh không được học Tin học thì nhà trường chưa làm tròn nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho học sinh, chưa đáp ứng được những yêu cầu đổi mới của nền giáo dục, các em sẽ thiệt thòi so với các bạn cùng trang lứa được học ở những môi trường tốt và càng lạc hậu trước sự phát triển của CNTT. Trong khi ngành giáo dục vẫn chưa có chỉ tiêu biên chế giáo viên Tin học cho các nhà trường song học sinh lại rất yêu thích và mong muốn được học bộ môn Tin học. Ban Giám hiệu phải làm tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh sự cần thiết và vai trò của bộ môn trong chương trình giáo dục 4 toàn diện học sinh. Do đó phụ huynh đã thống nhất cao việc hợp đồng giáo viên dạy Tin học và trả lương từ quỹ Tin học do phụ huynh đóng góp. Được sự nhất trí của Hội phụ huynh, năm học 2007- 2008, nhà trường đã chủ động hợp đồng 1 giáo viên có chuyên môn vững vàng làm công tác giảng dạy bộ môn Tin học. Do số lượng máy tính còn ít nên nhà trường triển khai cho học sinh khối 5 học trước, kết quả học tập của khoá học này đã thuyết phục được sự tin tưởng của Ban giám hiệu vào năng lực giáo viên cũng như sự ham học của học sinh và đã chứng minh cho cha mẹ học sinh thấy được ý nghĩa của việc các cháu được học Tin học. Nhiều học sinh đã có thể làm được nhiều việc với máy vi tính một cách thành thạo mà một số phụ huynh chưa cập nhật được: Đánh máy và chỉnh sửa văn bản, sử dụng các phần mềm học tập khi không có thầy cô hay phụ huynh kèm cặp bên cạnh ( ví dụ làm bài tập Tiếng Anh và việc vào mạng internet tra từ, học trực tuyến môn Toán với đội ngũ chuyên gia, giáo viên giỏi trên khắp mọi miền tổ quốc... ) Do số lượng máy ít ỏi này vẫn chưa đáp ứng được nguyện vọng học tập cho con em của phụ huynh song với việc liên tục bổ sung máy cho mỗi năm học của Hội cha mẹ học sinh nên nhà trường sẽ căn cứ vào tình hình cụ thể của cơ sở vật chất mà mở rộng quy mô các khối lớp được học. Cứ như vậy, sau mỗi năm quy mô học Tin học của học sinh tăng thêm một khối, đến năm học 2010 - 2011 nhà trường đã hợp đồng 2 giáo viên dạy Tin học cho học sinh từ khối 5 đến khối 2 và đúng như dự kiến thì năm học mới 2011- 2012 thì học sinh toàn trường sẽ được học Tin học, môn học tự chọn nhưng vô cùng quan trọng, có sự chi phối rất lớn đến tất cả các môn học khác trong chương trình và là môn học khơi dậy trong học sinh tính sáng tạo, niềm đam mê khám phá tạo nên mẫu người năng động trong tương lai. Quy mô dạy và học Tin học trong nhà trường Số lượng Giáo viên ( Hợp đồng) HS được học môn Tin học Năm học 2007- 2008 Năm học 2008 - 2009 Năm học 2009 - 2010 Năm học 2010 - 2011 1 1 1 2 khối 5 khối 4, 5 khối 3,4,5 ( 182 HS) ( 371 HS) (606 HS) Chất lượng môn Tin học Năm học 2007- 2008 2008 - 2009 2009 - 2010 2010 - 2011 Giỏi 81,7% 83,5% 85,5% 88%( Học kì 1) khối 2,3,4,5 (785 HS) Kết quả học tập Khá Trung bình 16,3% 2,0% 15,0% 1,5% 14,5% 12%( Học kì 1) Yếu 5 3.3. Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục - xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị Năm học 2007- 2008 khi nhà trường bắt đầu đưa Tin học vào học một cách bài bản, khi đó phòng máy có số lượng còn quá ít và cũ kĩ, đến thời kì thanh lí không còn sử dụng được nữa, song với quyết tâm cải thiện cơ sở vật chất đã được Ban Giám hiệu đưa vào kế hoạch năm học, nhà trường đã tổ chức hội nghị cha mẹ học sinh toàn trường xin chủ trương, xây dựng kế hoạch huy động: Bằng cách xã hội hóa giáo dục, Hội cha mẹ học sinh nhà trường thống nhất kêu gọi phụ huynh toàn trường mua 10 bộ máy tính để nhà trường đưa vào dạy thí điểm môn tự chọn Tin học theo đúng tinh thần của Bộ Giáo dục và Đào tạo, kể từ năm tiếp theo, mỗi năm Hội sẽ bổ sung cho phòng máy của nhà trường 5 - 7 bộ máy vi tính từ sự đóng góp của các bậc cha mẹ học sinh bắt đầu vào vào lớp Một.Với cách làm linh hoạt này đã tạo được sự đồng thuận của phụ huynh ở một địa phương có mức sống chưa cao song họ có truyền thống hiếu học. Do đó số lượng máy tính của trường năm sau cao hơn năm trước và cho tới năm học 2010 - 2011 nhà trường đã có 30 chiếc máy( 25 máy dùng cho học sinh và 5 máy dùng cho các phòng chức năng và bộ phận văn phòng) được kết nối Internet sử dụng hết công suất trong suốt cả năm học. Như vậy với cách triển khai ban đầu 3 - 4 HS/ máy tính khi học thực hành thì giờ đây là 1-2 em/máy. Như vậy, nghị quyết của Hội phụ huynh học sinh nhà trường đã thực sự trở thành hiện thực và bước đầu là chỗ dựa vững chắc về cơ sở vật giúp thầy và trò nhà trường làm tốt công tác chuyên môn, góp phần đào tạo cho địa phương một thế hệ học trò phát triển toàn diện, năng động, là những chủ nhân tương lai của đất nước. Tương tự như cách làm của việc huy động mua sắm máy tính, đầu năm học 2010 - 2011, với 2 bộ máy chiếu mà nhà trường hiện đang có được ( 1bộ được địa phương trang bị,1 bộ do chương trình Tiếng Anh làm quen PHONIC cấp) nhà trường khó có thể triển khai việc sử dụng ứng dụng CNTT đồng bộ. Ban Giám hiệu đã tư vấn với Hội cha mẹ học sinh làm cuộc cách mạng đột phá về trang thiết bị dạy học kỹ thuật cao. Nhà trường đã đưa ra phương châm: Thầy cô và phụ huynh cùng chung tay góp sức, thầy cô tự trang bị máy tính xách tay, Hội cha mẹ học sinh trang bị thêm máy chiếu. Nhờ vào sự hợp tác tích cực này, trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi hiện nay đã có thêm 10 máy chiếu đa năng, 22 màn chiếu gắn cố định ở tất cả các phòng học và 2 bộ máy chiếu di động để thuận lợi cho các tổ chức ngoại khoá khác - là đơn vị nhà trường có số lượng máy chiếu đa năng cao nhất của bậc tiểu học thành phố hiện nay - bước đầu đáp ứng được nhu cầu sử dụng máy chiếu để ứng dụng CNTT vào giảng dạy của giáo viên. Về phía giáo viên, 100% giáo viên nhà trường đã có máy tính để bàn kết nối mạng internet, 20/50 giáo viên đã mua được máy tính xách tay, đang bước đầu tự thiết kế các tiết dạy có ứng dụng CNTT, 48/50 đồng chí có khả năng giảng dạy được các tiết có ứng dụng CNTT lấy từ kho học liệu điện tử của nhà trường. Ngoài ra, nhà trường còn sử dụng nhiều băng đĩa, phần mềm 6 như: phần mềm phổ cập giáo dục, phần mềm tài chính kế toán và các phần mềm dạy học khác có hiệu quả. Cơ sở vật chất phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin ( Xã hội hoá giáo dục) Cơ sở vật chất Máy tính ( Chiếc) Máy chiếu (Bộ) Năm học 2007- 2008 Năm học 2008 - 2009 Năm học 2009 - 2010 Năm học 2010 - 2011 10 17 23 30 1 2 2 12 Tổng hợp các phần mềm nhà trường đã và đang ứng dụng trong công tác quản lí giáo dục, giảng dạy và học tập của CBGV - HS. STT 1 2 3 4 5 6 Tên các phần mềm Phần mềm quản lí VNPT School. Phần mềm phổ cập giáo dục Quảng Ích. Phần mềm kế toán Misa. Phần mềm luyện Toán Violympic không cần kết nối mạng internet. Phần mềm dạy học chương trình làm quen với Tiếng Anh: Phonics cho học sinh khối 1, 2. Các phần mềm dạy học môn Tin học: Vẽ (Paint), Soạn thảo văn bản (Word), học Toán (Learning Maths), Tập gõ 10 ngón (Mario), Trò chơi luyện kĩ năng quan sát (The monkey eyes), luyện khả năng tư duy, ý thức tìm tòi sáng tạo trong lao động và trong học tập( Sand castle builder) 4. Bồi dưỡng trình độ Tin học cho đội ngũ Cán bộ giáo viên Trong nhiều năm qua được sự chỉ đạo của Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT Thành phố Thanh Hoá đã thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn và bồi dưỡng cho đội ngũ những kỹ năng cơ bản để ứng dụng CNTT, phổ cập Tin học cho đội ngũ cán bộ, giáo viên các nhà trường với các khoá học: Tin học văn phòng, sử dụng phần mềm VNPT school quản lý cán bộ giáo viên và học sinh của trung tâm viễn thông Thanh Hoá, thiết kế giáo án điện tử, truy cập Internet...Cán bộ và giáo viên nhà trường tham gia đầy đủ, tích cực học tập các lớp tập huấn. Qua các lớp học này, trình độ tin học, phương pháp quản lý và giảng dạy của đội ngũ cán bộ giáo viên được nâng lên rõ rệt. Đến nay, 100% cán bộ giáo viên của nhà trường có chứng chỉ tin học văn phòng. Mặt khác, Ban Giám hiệu tổ chức bồi dưỡng trình độ Tin học cho đội ngũ tại chỗ bằng cách lấy giáo viên Tin học ra làm nòng cốt cho phong trào, tổ chức chuyên đề ứng dụng CNTT với các nội dung cơ bản: Đánh và chỉnh sửa văn bản bằng phần mềm Word, Excel; cách soạn và giảng dạy giáo án có 7 ứng dụng CNTT bằng Powerpoint; lập địa chỉ email và truy cập internet khai thác thông tin và trao đổi thông tin ... Ngoài ra, hằng tháng, trong nội dung sinh hoạt của tổ khối chuyên môn, nhà trường yêu cầu lồng ghép tổ chức các chuyên đề cấp tổ có ứng dụng CNTT trong sinh hoạt chuyên môn như: Báo cáo chuyên đề, dạy mẫu, trình bày nội dung tự học - tự bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động ngoại khoá... để cán bộ giáo viên từng bước tiếp cận với các ứng dụng khác nhau của CNTT. Hơn nữa, chúng tôi còn động viên đội ngũ cán bộ giáo viên làm tốt công tác tự học, tự bồi dưỡng học: Nhà trường cho kết nối Wifi trong phòng chờ của giáo viên để thầy cô có thể truy cập mạng internet hay trao đổi phương pháp dạy học cùng đồng nghiệp. Chúng tôi thiết nghĩ đây là lĩnh vực mới nên cần phải tạo ra môi trường học tập thân thiện và tích cực với phương châm người biết nhiều dạy cho người biết ít, người biết ít dạy cho người chưa biết, giáo viên trẻ học hỏi kinh nghiệm giảng dạy từ những đồng nghiệp nhiều tuổi và ngược lại những giáo viên nhiều tuổi lại học cách ứng dụng CNTT từ những đồng nghiệp trẻ của mình. Chính vì vậy mà nhà trường đã từng bước tạo nên một đội ngũ đồng đều về trình độ chuyên môn, thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động giáo dục. Kết quả của công tác bồi dưỡng CNTT cho đội ngũ CBGV ( số lượng CBGV được bồi dưỡng so với tổng số CBGV của trường ) Năm học Năm học Năm học Năm học 2007- 2008 2008 - 2009 2009 - 2010 2010- 2011 Chứng chỉ Tin VP A, B 5/34 10/35 47/47 50/50 CBGV có khả năng 5/34 10/35 47/47 50/50 soạn thảo văn bản CBGV có khả năng dạy 3/34 8/35 30/47 48/50 giáo án có UDCNTT CBGV có khả năng thiết kế các tiết dạy 1/34 4/35 8/47 20/50 UDCNTT CBGV có khả năng trao đổi thông tin trên 3/34 10/35 12/47 30/50 mạng Nội dung 5. Ứng dụng CNTT vào quá trình chỉ đạo và quản lý nhà trường 5.1. Đối với công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu: Trong năm học này, thể hiện tính tiên phong và tinh thần trách nhiệm người cán bộ quản lí giáo dục, khơi dậy tinh thần của tập thể giáo viên trong việc ứng dụng CNTT, ngay từ đầu năm học, tại hội nghị Cán bộ giáo viên, Ban Giám hiệu nhà trường đã minh họa việc đổi mới công tác quản lí bằng việc trình chiếu bản báo cáo tổng kết và phương hướng hoạt động, triển khai nhiệm vụ cho năm học mới với những số liệu, chỉ tiêu, kế hoạch, tiếp theo là 8 việc tổ chức các chuyên đề qua những hình ảnh, tư liệu cụ thể nhằm tuyên truyền về những tiện ích của CNTT và quán triệt với đội ngũ tinh thần làm việc: Mọi bộ phận cần ứng dụng CNTT để đạt hiệu quả cao công tác.Trong các buổi họp Hội đồng giáo dục cần triển khai những công tác trọng tâm, chúng tôi đều thực hiện dưới hình thức trình chiếu để giáo viên dễ theo dõi, ghi chép, nắm bắt nội dung đồng thời rút ngắn thời gian hội họp. Đồng thời triển khai cập nhật các phần mềm quản lí giáo dục như quản lí công tác nhân sự, quản lí học sinh và theo dõi quá trình học tập của học sinh qua phần mềm VNPT school, quản lí công tác phổ cập giáo dục bằng phần mềm Quảng Ích, quản lí công tác tài chính bằng phần mềm MISA... Việc trao đổi thông tin qua hộp thư điện tử được Ban giám hiệu sử dụng thường xuyên để cập nhật thông tin của cấp trên. Mặt khác, chỉ đạo các tổ chức đoàn thể, các tổ khối chuyên môn cũng cần phải ứng dụng gửi kế hoạch, báo cáo, sáng kiến kinh nghiệm... của bộ phận mình phụ trách, giáo viên gửi bài giảng điện tử, gửi tài liệu... xin ý kiến Ban Giám hiệu đều thông qua địa chỉ Email của nhà trường. Ngược lại, Ban giám hiệu cũng công khai địa chỉ Email cá nhân để khi cần, giáo viên có thể chủ động liên hệ, trao đổi công việc. Qua việc thực hiện trao đổi thông tin, chúng tôi đã nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhiều giáo viên, qua đó đã động viên và chia sẻ những khó khăn, vướng mắc của giáo viên trong quá trình giảng dạy và lĩnh vực công tác. Một số công việc được Ban Giám hiệu ứng dụng CNTT để triển khai TT 1 2 3 5 Nội dung Đối tượng tham gia Kế hoạch năm học Tất cả CBGV, nhân viên Người thực hiện Đ/c Nguyễn Thị Tuyết 2010 – 2011 ( Hiệu trưởng) Kế hoạch Hội nghị cán bộ Tất cả CBGV, nhân viên công chức Đ/c Nguyễn Thị Tuyết Hội nghị Cha Mẹ học sinh Đại diện Hội Cha mẹ học sinh các lớp Đ/c Nguyễn Thị Tuyết Chuyên đề: Đ/c Phạm Thị Như Ứng dụng CNTT trong nhà trường Hội thảo (Toàn trường) ( Hiệu trưởng) ( Hiệu trưởng) ( Phó Hiệu trưởng) Đ/c Trần Thị Hằng ( GV Tin học) 7 Sơ kết học kì I năm học 2010 – 2011 8 Tuyên truyền kỷ niệm ngày QTPN 08/03 Tất cả CBGV, nhân viên Tất cả CBGV, nhân viên Đ/c Nguyễn Thị Tuyết ( Hiệu trưởng) Đ/cTrầnThịNhiên-Chủ tịch CĐ 9 5.2. Về quản lý nhân sự và công tác đoàn thể Ban Giám hiệu thường xuyên chỉ đạo và yêu cầu bộ phận văn thư cập nhật những thông tin về giáo viên, học sinh để cập nhật kịp thời vào hồ sơ cá nhân trong chương trình quản lý cán bộ giáo viên - học sinh ( phần mềm VNPT school) Sử dụng những thành quả của chương trình để nhanh chóng phục vụ công tác thống kê, báo cáo theo yêu cầu của cấp trên. Nhà trường thành lập tiểu ban công tác phổ cập giáo dục, thành phần Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng, 2 giáo viên tin học, 1 văn thư nhà trường và một số giáo viên cập nhật số liệu phổ cập giáo dục tiểu học bằng phần mềm Quảng Ích đã tạo cho cán bộ quản lí cũng như các thành viên trong Ban phổ cập dễ theo dõi số liệu, hạn chế những nhầm lẫn, sai sót số liệu của một địa phương thường xuyên có sự thay đổi về dân số và để có cái nhìn tổng thể ở các độ tuổi làm cơ sở lập kế hoạch chiến lược phát triển của nhà trường. Ngoài ra, bộ phận văn thư cũng thường xuyên truy cập hộp thư điện tử của Phòng GD&ĐT để kịp thời nắm bắt những văn bản chỉ đạo, kế hoạch, các công văn, tài liệu ... thông báo để Ban Giám hiệu, các bộ phận trong nhà trường chủ động thực hiện công việc. Đối với các bộ phận trong nhà trường như: Thư viện - thiết bị, tài chính - kế toán đều sử dụng các phần mềm hỗ trợ tốt cho công tác chuyên môn và thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, quản lí của BGH. Ban Giám hiệu thường xuyên nhắc nhở và theo dõi việc truy cập mạng internet của các tổ chức đoàn thể như tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên...để khai thác những thông tin cần thiết: Tìm hiểu ý nghĩa của các ngày lễ kỷ niệm trong năm, sưu tầm tranh ảnh tư liệu phục vụ cho việc tuyên truyền, truyền thông, mít tinh, giáo dục đạo đức, giáo dục an toàn giao thông, thực hiện tuyên truyền và thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “ Cuộc vận động mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo” hay phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực.” ...CNTT đã góp phần làm phong phú về nội dung và hấp dẫn về hình thức chương trình hành động của các tổ chức. 6.Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động dạy và học. Nếu như ở những năm học trước nhà trường chú trọng đến vấn đề soạn và chỉnh sửa văn bản việc bằng việc hướng dẫn giáo viên soạn bài trên máy vi tính với phần mềm Word thì ngay từ đầu năm học 2010- 2011, với kế hoạch triển khai rộng rãi việc ứng dụng CNTT vào việc soạn giảng, truy cập internet khai thác thông tin và trao đổi chia sẻ thông tin trên mạng... nhà trường đã lấy giáo viên Tin học, khối trưởng, khối phó và giáo viên trẻ làm nhân tố chính để nhân rộng việc soạn giảng bằng các tiết ứng dụng CNTT. Tổ chức dạy chuyên đề, dạy mẫu, dạy thao giảng ở tổ khối và ở cấp trường tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội học hỏi đồng nghiệp qua những thiết kế bài giảng chọn lọc. Đồng thời phân công nhiệm vụ cho các đồng chí tổ trưởng chuyên môn là cán bộ nòng cốt của phong trào có trách nhiệm sưu 10 tầm những giáo án hay của các hội thi giáo viên giỏi cấp thành phố, cấp tỉnh để giáo viên tham khảo. Chỉ đạo các tổ khối chuyên môn lấy chất lượng học sinh đại trà, học sinh giỏi các cấp làm thước đo cho hiệu quả làm việc của mỗi tổ chuyên môn và cá nhân giáo viên ứng dụng CNTT đổi mới phương pháp để bình xét thi đua, nhằm khơi dậy tinh thần thi đua “Dạy tốt - học tốt.” 6.1. Ứng dụng CNTT trong giảng dạy Năm học 2010 - 2011, Ban giám hiệu động viên toàn thể giáo viên thực hiện ứng dụng CNTT soạn và dạy ở tất cả các khối lớp và dạy chéo khối trong các vòng thao giảng chọn giáo viên giỏi cấp trường. Mỗi giáo viên thực dạy ứng dụng CNTT ít nhất là 2 tiết/tuần và 6 tiết thao giảng/năm. Đồng thời khuyến khích động viên những giáo viên có khả năng dạy học thường xuyên ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Thực tế cho thấy, ứng dụng CNTT trong giảng dạy giúp giáo viên có điều kiện tốt để tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận nhóm, đóng vai, chơi các trò chơi học tập... phát huy tính tích cực, say mê hứng thú trong học tập và rèn luyện cho học sinh biết hợp tác khi làm việc. Đây là điểm yếu của mô hình giáo dục truyền thống mà chúng ta cần phải khắc phục. Mặt khác trong một tiết học giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh tiếp cận với một lượng kiến thức phong phú và sinh động. Ngược lại, bên cạnh việc động viên đội ngũ ứng dụng CNTT để giảng dạy Ban Giám hiệu luôn lưu ý giáo viên không lạm dụng việc sử dụng các bài giảng ứng dụng CNTT mà bỏ qua các thiết bị - đồ dùng hay phương pháp dạy học truyền thống; chỉ lựa chọn những bài có nội dung phù hợp, những bài cần nhiều tư liệu thông tin mà nếu không ứng dụng CNTT thì sẽ mất nhiều công sức chuẩn bị tranh ảnh, trang thiết bị minh hoạ khác...tránh việc coi việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy đơn thuần là trình chiếu nội dung các văn bản thay thế cho việc viết bảng của giáo viên thì chẳng những học trò không có sự hứng thú học tập mà gây sự nhàm chán khi nội dung bài cứ trôi qua tuồn tuột mà trên bảng không còn lưu giữ nội dung chính của bài. Dạy học các tiết có ứng dụng CNTT thực sự có hiệu quả khi giáo viên phải kết hợp tốt với các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, giáo viên luôn lấy học sinh làm trung tâm, luôn phải chú trọng đến năng lực tương tác của học sinh trong giờ học ấy. Nhà trường chỉ đề cao việc sử dụng các tiết dạy ứng dụng CNTT khi có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các các thao tác của giáo viên và thao tác của học sinh, giữa màn hình và bảng lớp, tránh tình trạng giáo viên - học sinh chỉ tập trung vào màn hình máy chiếu mà quên đi sự quan sát đầy nhạy cảm của nghề giáo từ ánh mắt của học trò còn học trò chỉ nhìn màn hình mà không có sự giao cảm với giáo viên. Ban Giám hiệu dành nhiều thời gian cho công tác dự giờ thăm lớp. Sau các tiết dạy của giáo viên, đặc biết là những tiết dạy cho đồng nghiệp dự cần tổ chức cho các tổ khối họp lại trao đổi rút kinh nghiệm, chỉ ra những ưu điểm 11 cần phát huy và những tồn tại cần khắc phục để những tiết học sau đạt hiệu quả hơn. Năm học 2010 - 2011, giáo viên toàn trường đã thực hiện dạy hàng nghìn tiết có ứng dụng CNTT ở tất cả các khối lớp. Đa số giáo viên đã ứng dụng một cách nhuần nhuyễn, các bài giảng có chất lượng cao, góp phần tạo hứng thú học tập cho học sinh, làm tăng hiệu quả trong hoạt động dạy học. Qua các tiết dạy, giáo viên biết phát huy tối đa những ưu thế của việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy, tạo cho lớp học thật sự sinh động với những hiệu quả về âm thanh, hình ảnh và màu sắc mà giảng dạy bằng phương pháp truyền thống không thể có được. Đặc biệt tạo được dấu ấn là các tiết dạy xuất sắc ở các môn: Tiếng Việt (Học vần lớp 1), (Tập đọc, Luyện từ và câu từ lớp 2 đến lớp 5), Tự nhiên xã hội, Khoa học, Lịch sử, Địa lí, các tiết Toán có nội dung hình học ... như : TT Môn Tiếng Việt Tiếng 2 Việt 1 Lớp Tên bài dạy Một Học vần: iêp - ươp Một Học vần: inh- ênh 3 Tập đọc Hai Cảnh đẹp non sông 4 Tập đọc Bốn Trước cổng trời 5 Tập đọc Năm Kì diệu rừng xanh 6 Tập đọc Năm Đất Cà Mau 7 Tự nhiên Một Cây hoa xã hội 8 Tự nhiên xã hội Ba Cá 9 Luyện từ và câu Hai Từ ngữ về loài thú, dấu chấm, dấu phẩy Luyện từ MRVT: Dân tộc Ba và câu hình ảnh so sánh Luyện từ MRVT 11 và câu Bốn Du lịch – thám hiểm 10 Hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao Dùng hình ảnh giảng từ: Rau diếp, tiếp nối, nườm nượp, ướp cá... Trò chơi trắc nghiệm “Bé chọn từ nào?” qua hệ thống các hình ảnh. Giới thiệu những cảnh đẹp theo chiều dài đất nước. HS biết hình ảnh: Cổng trời, vẻ đẹp văn hoá của các dân tộc trên mọi miền đất nước. Sự kì diệu của rừng: về cây cối, con vật... Giảng từ: nứt nẻ chân chim, một số loại cây chỉ có ở Nam bộ, cuộc sống của con người và đất Cà Mau Nhận biết các loài hoa qua trò chơi: “Đố bạn hoa gì?” Tìm hiểu về các bộ phận của cá: xương sống, mang, vây, đuôi; tìm hiểu tên các loài cá... - Tìm hiểu về các loài thú và đặc điểm của nó. Đặc biệt là các loài thú quý hiếm. Giới thiệu một số dân tộc ở Việt Nam và văn hoá các vùng miền... Giới thiệu các hình ảnh để HS phân biệt sự khác nhau Du lịch và thám hiểm; các nhà thám hiểm nổi tiếng . 12 12 Địa lý 13 Địa lý 14 Lịch sử 15 Lịch sử 16 Toán 17 Toán 18 Toán Hình ảnh: Vẻ đẹp thành phố Đà Lạt, tiềm năng kinh tế, du lịch. Trò chơi: “Giải ô chữ” tìm hiểu một số địa danh phát triển về kinh Bốn Thành phố Cần Thơ tế, văn hoá, khoa học ở TP Cần Thơ. Đinh Bộ Lĩnh dẹp Sơ đồ 12 sứ quân, cảnh đẹp của Cố Bốn loạn 12 sứ quân đô Hoa Lư xưa và nay Nhận biết ranh giới địa lí Đàng Cuộc khẩn hoang ở Bốn Trong - Đàng Ngoài, sự phát triển Đàng Trong kinh tế, văn hoá... HS dễ dàng nhận ra cách tính chu Chu vi hình tam Hai vi một hình trên cơ sở tính độ dài giác, hình tứ giác. đường viền bao quanh hình đó. Giáo viên xoay các góc ở các vị trí Góc vuông, góc khác nhau để học sinh nhận biết Ba không vuông góc vuông, góc không vuông và cách kiểm tra góc bằng Ê ke. Cắt, ghép hình để hình thành công Bốn Diện tích hình thoi thức tính diện tích. Bốn Thành phố Đà Lạt 6.2. Ứng dụng CNTTtrong công tác bồi dưỡng học sinh: Ngoài việc thực hiện dạy học tốt môn Tin học, Ban Giám hiệu chỉ đạo cho tổ khối chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm phối hợp giáo viên bộ môn xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh có năng khiếu như Toán, Tiếng Anh, Tin học, Mĩ thuật ngay từ đầu năm học để các em có cơ hội khai thác và sử dụng các phần mềm để nâng cao năng lực học tập, phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình, đồng thời thành lập đội tuyển, luyện tập để tham gia các kì Thi học sinh giỏi Toán, tiếng Anh trên mạng các cấp, hội thi “Tin học trẻ không chuyên”. 7. Vận dụng CNTT vào các hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những hoạt động không thể thiếu được, là hoạt động bổ trợ cho các hoạt động khác trong nhà trường, có tác dụng khích lệ và giáo dục toàn diện học sinh. Do đó, nhà trường luôn coi trọng việc chỉ đạo nâng cao hiệu quả các hoạt động ngoài giờ lên lớp giáodục kĩ năng sống cho học sinh. Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên chủ nhiệm kết hợp với tổng phụ trách ngoài việc tổ chức các hoạt động truyền thống như vui chơi các trò chơi dân gian, các hoạt động múa hát sân trường, thể dục giữa giờ... thì cần phải ứng dụng công nghệ thông tin làm phong phú nội dung, cải tiến hình thức. Ví dụ: Để tổng kết Tháng an toàn giao thông hoặc tuyên truyền giáo dục trật tự an toàn giao thông cho học sinh, với khuôn viên sân trường nhỏ, 13 hẹp, nhà trường rất khó tổ chức các tình huống giao thông để học sinh thực hành lý thuyết. Tuy nhiên với sự hỗ trợ của CNTT, thông qua các biển báo, câu hỏi và tình huống trình chiếu powpoint, hiển thị trên các side, học sinh đã có thể có được buổi cinh hoạt vui vẻ, lí thú và tự rút ra những bài học vận dụng từ lý thuyết vào thực tiễn một cách hiệu quả nhất. Nhà trường chỉ đạo lồng ghép các HĐNGLL với hoạt động chuyên môn, một trong những nội dung bắt buộc trong công tác Bồi dưỡng giáo viên của nhà trường năm 2010- 2011 là nghiên cứu thiết kế tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho học sinh. Trong trường, nhiều giáo viên đã có những ý tưởng hay hấp dẫn học sinh như: Trò chơi Rung chuông vàng, giao lưu Toán Tiếng Việt, Tuổi thơ khám phá, Cùng học cùng chơi...của các khối lớp vừa có tác dụng củng cố kiến thức các môn học vừa là sân chơi bổ ích và lí thú phù hợp với tâm sinh lí của lứa tuổi, bổ túc cho các em những hiểu biết, những kĩ năng sống bổ ích. PHẦN THỨ BA KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ 1. Kết quả đạt được Từ đầu năm học 2008 - 2009 đến nay, một trong các nội dung thực hiện việc đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục là khuyến khích và động viên đội ngũ CBGV ứng dụng CNTT trong quá trình quản lí và đổi mới phương pháp dạy học, trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - Thành phố Thanh Hóa đã có những bước chuyển biến khá tích cực. Việc bồi dưỡng đội ngũ đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên ứng dụng CNTT vào công tác giảng dạy. Học sinh được tiếp cận với môn học Tin học, nắm vững những kĩ năng thực hành trên máy vi tính và sử dụng các phần mềm thành thạo trong quá trình học tập với số lượng ngày càng đông và đi vào chiều sâu. Năm học 2010 - 2011, các hoạt động của nhà trường đều được ứng dụng CNTT như hồ sơ quản lí nhân sự, hồ sơ kế toán tài chính, hồ sơ phổ cập giáo dục, hồ sơ chuyên môn... Đây là một nỗ lực đáng khích lệ của toàn thể đội ngũ. Đặc biệt nhà trường biết lấy việc ứng dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại làm thay đổi phương pháp dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh từ đó nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tối đa tính sáng tạo của giáo viên - học sinh. Ứng dụng CNTT trong quản lý đã giúp cho Ban Giám hiệu và các bộ phận trong nhà trường liên hệ và phối hợp nhịp nhàng hơn, khoa học hơn, rút ngắn thời gian trong chế độ thông tin báo cáo, các số liệu được cập nhật thường xuyên hơn, phần nào giảm được một số chi phí trong việc in ấn một số tài liệu… Nhờ vào hệ thống internet, các thành viên trong nhà trường có được chiếcchìa khóa để khám phá nguồn tài nguyên vô cùng phong phú của tri thức 14 để vận dụng vào công việc của mình, giảm bớt cường độ lao động cho mọi người mà hiệu quả lại tăng lên. Giáo viên đã chủ động đầu tư soạn giảng có ứng dụng CNTT với những tiết học thật sự lôi cuốn học sinh. Nếu như trong suốt năm học 2006 2007, toàn trường chỉ có 06 tiết ứng dụng CNTT trong giảng dạy thì số lượng các tiết dạy có ứng dụng CNTT trong năm học này lên đến hàng nghìn tiết, trong đó có hàng trăm tiết đạt hiệu quả cao. Đối với công tác quản lý giáo dục, việc vận dụng CNTT đã tạo ra một phương thức quản lí nhẹ nhàng. Thay cho việc CBQL phải tập hợp các số liệu từ các tổ khối làm các loại báo cáo, làm hồ sơ giáo viên, hồ sơ phổ cập giáo dục, hồ sơ học sinh với các loại sổ sách thì giờ đây mọi thông tin được cập nhật nhanh chóng và chính xác bởi các phần mềm của máy tính. Những tiện ích của internet trong việc quản lý nhân sự, quản lí học sinh, cập nhật điểm, làm phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, quản lí chuyên môn... thêm quy cũ và khoa học. Đặc biệt các nội dung hội họp như: Hội nghị Cán bộ giáo viên, Hội nghị phụ huynh học sinh, các chuyên đề cấp trường với nhiều chỉ tiêu, số liệu...đều được thông tin hoá trên phần trình chiếu powepoint rõ ràng, sinh động, có sức hấp dẫn người nghe. Nhờ ứng dụng CNTT, việc tổ chức các HĐNGLL cho sinh toàn trường của giáo viên vô cùng thuận lợi; Đối với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" nhà trường đã tổ chức giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ giáo viên và học sinh thông những mẩu chuyện nhỏ, những thước phim tư liệu về tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác mà thầy và trò nhà trường cần phải học tập, làm theo. Với những kết quả đã đạt được khi vận dụng CNTT trong việc nâng cao chất lượng quản lí và đổi mới phương pháp dạy học đã chứng minh xu thế hội nhập của nhà trường là đúng đắn. CNTT trong những năm gần đây đã thực sự làm cho cả thầy và trò đều hứng thú trong công việc. Phụ huynh quan tâm hỗ trợ thiết bị, giáo viên nhiệt tình hăng say giảng dạy, học sinh tích cực tiếp thu kiến thức đã tạo cho nhà trường một sức sống mới.Với những nền tảng cơ bản này, nhà trường sẽ nỗ lực không ngừng để phát huy hơn nữa vai trò của CNTT trong công tác quản lý và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Bên cạnh đó sẽ tiếp tục bồi dưỡng về nhận thức, kiến thức và kỹ năng cơ bản về CNTT cho đội ngũ để các bộ phận và cá nhân mỗi cán bộ giáo viên có thể ứng dụng vào công việc của mình sao cho hiệu quả nhất trong tương lai để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về ứng dụng CNTT mà ngành đề ra. Trong những năm tới, nhà trường sẽ phấn đấu xây dựng Website nhằm cập nhật các thông tin thời sự trong nước và quốc tế; cập nhật các thông tin về nhà trường, tạo được sân chơi trí tuệ lành mạnh cho giáo viên, học sinh; tạo sự giao lưu rộng mở với các trường bạn; hỗ trợ phụ huynh trong việc theo dõi kết quả học tập của con em và tìm hiểu về các hoạt động của thầy và trò đồng thời thuận tiện trong việc tranh thủ xin ý kiến đóng góp của phụ huynh cho sự phấn đấu và trưởng thành của nhà trường. 15 Kết quả cụ thể về việc ứng dụng CNTT đổi mới phương pháp dạy học ( Số lượng tiết dạy so với số lượng tiết dự thi) Nội dung Số tiết dạy có UDCNTT Số tiết dạy UDCNTT thao giảng GVgiỏi cấp trường Số tiết dạy UDCNTT dự thi GV giỏi các cấp Năm học Năm học Năm học Năm học 2007- 2008 2008 - 2009 2009 - 2010 2010- 2011 10 30 400 1200 4/68 12/140 200/282 300/300 2/5 3/6 5/6 Không tổ chức thi Số lượng học sinh đạt giải so với số lượng thí sinh dự thi cuộc Giải Toán trên mạng internet trong 3 năm vừa qua. Học sinh giỏi Cấp Thành phố Cấp Tỉnh Cấp Quốc gia Năm học 2008 - 2009 32/35 9/32 2/2 Năm học 2009 - 2010 34/38 7/34 1/2 Năm học 2010- 2011 42/48 9/11 2 HS dự thi Số lượng thí sinh đạt giải so với số lượng thí sinh dự thi giao lưu Olimpic Tiếng Anh trên mạng internet Năm học HS giỏi cấp TP 2010 - 2011 17/19 HS giỏi cấp Tỉnh HS giỏi Quốc gia 15/17 4/5 2. Bài học kinh nghiệm Kết quả thu được sau 3 năm triển khai thực việc Ứng dụng CNTT trong nhà trường do ngành phát động cho thấy: Chất lượng công tác quản lí và hiệu quả công tác giảng dạy ở trường đã có nhiều chuyển biến, nhà trường đã khẳng định được vị thế của mình trong thứ tự các trường tiểu học có chất lượng cao của thành phố Thanh Hóa nói riêng, tỉnh Tỉnh Thanh Hóa nói chung. Điều đó đã khẳng định được cách làm đúng đắn, sự chỉ đạo sát sao của tập thể Ban Giám hiệu nhà trường. Là phó hiệu trưởng tham gia trực tiếp công tác chỉ đạo ứng dụng CNTT trong trường, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau: Ban Giám hiệu nhà trường cần nghiêm túc nghiên cứu thực hiện các chủ trương, đường lối mà Đảng và nhà nước, những chỉ thị, hướng dẫn của ngành, lập được kế hoạch dài hạn, ngắn hạn phù hợp với điều kiện của địa phương và của nhà trường. Phát huy cao độ tinh thần làm chủ, chủ động sáng tạo trong công việc, biết phát huy sức mạnh của tập thể cán bộ giáo viên, tiềm năng của địa 16 phương và đặc biệt là phụ huynh học sinh. Nhà trường cần làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để từng bước hiện đại hoá các phương tiện, đồ dùng dạy học tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giáo viên ứng dụng CNTT. Cán bộ quản lí nhà trường luôn cập nhật các mô hình quản lí có ứng dụng CNTT trên các phương tiện thông tin đại chúng để linh hoạt vận dụng vào thực hiện ở đơn vị mình. Đồng thời phải chịu khó học hỏi, tiên phong ứng dụng CNTT trong cách chỉ đạo các hoạt động giáo dục để chứng minh cụ thể những hiệu quả mà ứng dụng CNTT mang lại trong quá trình công tác. Chúng tôi, những cán bộ quản lí luôn là người bạn đồng hành, luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi, chăm lo bồi dưỡng đội ngũ để đội ngũ hoàn thành nhiệm vụ được giao với hiệu quả cao nhất.( Đầu tư chất lượng phòng học, phòng chức năng, phương tiện - thiết bị, trình độ chuyên môn nói chung và trình độ Tin học nói riêng cho CBGV nhà trường) Nhân rộng các gương điển hình ứng CNTT trong giảng dạy, công tác, để đội ngũ học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm thông qua các tiết thao giảng, chuyên đề, hội thảo...với những bài giảng có chất lượng cao, những chuyên đề có ý tưởng hay, tính khả thi tốt của đội ngũ đóng góp. KẾT LUẬN Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, việc hiểu biết và ứng dụng CNTT vào quản lý và giảng dạy là một việc làm cần thiết và đem lại hiệu quả thiết thực cho các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần chuẩn bị cho bản thân và tập thể một tinh thần cầu tiến và nhạy bén với cái mới, linh hoạt trong chỉ đạo, bồi dưỡng nhận thức đúng đắn cho CBGV, kích thích sự năng động, sáng tạo của đội ngũ trong việc ứng dụng CNTT vào công tác, đây là một thử thách và là nhiệm vụ của người cán bộ quản lí. Thực hiện tốt công tác này, chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả tích cực, góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới nhà trường theo hướng hội nhập đồng thời củng cố và phát triển bền vững chất lượng giáo dục Tiểu học trong tương lai. Sáng kiến: “Kinh nghiệm chỉ đạo ứng dụng CNTT nâng cao chất lượng quản lí và đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học” được tôi bám sát đường lối chủ trương của Đảng, nhà nước, sự định hướng chỉ đạo của ngành, đồng thời nghiên cứu cách làm của những trường ở các thành phố lớn để vận dụng linh hoạt vào thực tế của trường mình và đã thu được những kết quả bước đầu. Song với thực tế mỗi trường sẽ khác nhau về cơ sở vật chất, về đội ngũ giáo viên, chất lượng học sinh...chắc chắn bạn bè và đồng nghiệp sẽ có nhiều cách làm mới mẻ và sáng tạo hơn. Do đó sáng kiến của tôi có thể là chưa hoàn thiện, còn có những thiếu sót, rất mong được các đồng chí, đồng nghiệp tham gia góp ý để tôi hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình. 3. Đề xuất - kiến nghị - Các cơ quan có thẩm quyền bổ sung đội ngũ giáo viên biên chế dạy môn Tin học cho các trường Tiểu học. 17 - Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho các nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng CNTT. - Trong những năm tới nên đưa môn Tin học trở thành môn học chính thức của trường Tiểu học. - Tổ chức nhiều hơn nữa các chuyên đề về ứng dụng CNTT cho đội ngũ Cán bộ giáo viên của các nhà trường. Tôi xin chân thành cảm ơn! TP Thanh Hoá, ngày 15 tháng 4 năm 2011 Người viết Phạm Thị Như 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng