1. Tên giải pháp: “Một số biện pháp hiệu quả giáo dục và rèn luyện kỹ năng
sống cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non”.
2. Ngày giải pháp được áp dụng lần đầu: Ngày 14/09/2020.
3. Các thông tin cần bảo mật: Không có.
4. Mô tả giải pháp cũ thường làm:
4.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch giáo dục kĩ năng sống cụ thể.
- Tình trạng sử dụng giải pháp: Xây dựng nội dung giáo dục kĩ năng sống theo
từng chủ đề. Việc lựa chọn các nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp độ tuổi là
điều kiện đầu tiên giúp giáo viên đạt được hiệu quả trong tổ chức hoạt động, bởi nó
đáp ứng được mục tiêu giáo dục theo độ tuổi. Lồng ghép các hoạt động rèn kĩ năng
sống vào hoạt động học. Giải pháp này đã được tôi sử dụng trong Chuyên đề giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ và đã mang lại hiệu quả nhất định.
- Tồn tại- Hạn chế của giải pháp: Tuy đã mang lại hiệu quả, xong tôi tự nhận
thấy trong kế hoạch mình xây dựng còn một số hạn chế như: Nội dung giáo dục rèn
kĩ năng sống thể hiện 1 phần nhỏ, chưa có nội dung cụ thể theo các nhóm kĩ năng
sống. Chưa bám sát, thể hiện nội dung đáp ứng đầy đủ kết quả mong đợi và 100 nội
dung đánh giá trẻ. Nội dung rèn kĩ năng sống chủ yếu lồng ghép trong nội dung
CSGD trẻ. Chưa được xây dựng cụ thể, riêng biệt; Nội dung giáo dục kĩ năng sống
đơn điệu. Tổ chức hoạt động rèn kĩ năng sống chủ yếu qua hoạt động lao động và
hoạt động vệ sinh đề tài chưa phong phú, chưa chú ý đến các đề tài hiệu quả phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Số lượng hoạt động rèn kĩ năng sống tổ
chức trong năm học ít.
4.2 Giải pháp 2: Rèn kĩ năng sống trong các thời điểm trong ngày.
- Tình trạng sử dụng giải pháp: Để thực hiện giải pháp này, tôi phân nhóm các
kỹ năng sống và lồng ghép vào các hoạt động phù hợp: Trong giờ đón trả trẻ tôi
lựa chọn rèn nhóm kĩ năng tự phục vụ, giao tiếp; Trong hoạt động học lồng ghép
giáo dục kĩ năng sống; Thực hiện rèn kĩ năng sống trong hoạt động lao động, vệ
sinh.
- Tồn tại- Hạn chế của giải pháp: Khi thực hiện giải pháp này, giáo viên chủ
yếu quan tâm rèn kĩ năng tự phục vụ và kĩ năng giao tiếp. Giáo viên thường thụ
động nhắc trẻ thực hiện các kĩ năng mà chưa chú ý quan sát khả năng trẻ thực hiện
kĩ năng đó như thế nào? Đưa ra giải pháp ra sao nhằm rèn luyện kĩ năng sống cho
từng đối tượng trẻ?
Đề tài giáo dục kĩ năng sống còn nghèo nàn, chưa quan tâm khai thác tổ chức
các đề tài rèn kĩ năng sống phù hợp điều kiện thực tế của địa phương.
4.3 Giải pháp 3: Phối hợp với phụ huynh trong rèn kĩ năng sống cho trẻ:
- Tình trạng sử dụng giải pháp: Đây là giải pháp được nhiều giáo viên quan
tâm sử dụng. Bản thân tôi luôn chú trọng tuyên truyền qua góc tuyên truyền, trao
đổi trực tiếp với phụ huynh, họp phụ huynh về: kĩ năng sống, lễ giáo cơ bản cần
thiết cho trẻ.
Tôi thường in ấn các loại tài liệu tuyên truyền và thôn tin đến phụ huynh tại bảng
tin của lớp.
- Tồn tại- Hạn chế của giải pháp: Nội dung tuyên truyền phối hợp phụ huynh
rèn kĩ năng sống cho trẻ chủ chưa được giáo viên lựa chọn cụ thể theo thực trạng
trẻ tại lớp. Thường đi sâu rèn kĩ năng tự phục vụ và kĩ năng giao tiếp.
Với hình thức chủ yếu là gửi tài liệu tuyên truyền qua tin bài tại góc tuyên
truyền, trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, không có nhiều giáo viên
quan tâm đến việc dừng lại đọc 1 văn bản giấy. Do vậy hình thức này làm giảm hiệu
quả công tác tuyên truyền.
5. Sự cần thiết của giải pháp
Việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ rất cần thiết, là yếu tố quyết
định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của trẻ. Giúp trẻ sớm
có ý thức làm chủ bản thân, có ý thức tự giác, sống tự tin, hợp tác và có trách nhiệm
hơn trong mọi hoàn cảnh mà không cần phải có sự nhắc nhở của cô giáo hay của cha
mẹ .
Là giáo viên phụ trách lớp mẫu giáo lớp 5-6 tuổi A2 (trường MN Hương Vỹ,
tôi nhận thức được sự cần thiết của việc giáo dục kỹ năng sống đối với sự phát triển
của trẻ. Đối với trẻ 5-6 tuổi ngoài việc dạy trẻ biết thế nào là đúng, thế nào là sai như
ta thường làm, cần phải hướng dẫn trẻ từng thao tác , tổ chức cho trẻ trải nghiệm từ
đó trẻ mới nhận thức được mình nên làm gì khi gặp phải một vấn đề nào đó xảy ra
với trẻ. Trẻ biết tự mình phải ứng phó như thế nào trong hoàn cảnh đó.
Tuy nhiên việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ hiện nay còn chưa thực sự hiệu
quả do trẻ được nuông chiều, bao bọc bởi người lớn dẫn đến trẻ ích kỉ, không lắng
nghe, chia sẻ, ít có các kĩ năng sống, tự bảo vệ, hợp tác 1 cách độc lập. Nội dung và
hình thức giáo dục kĩ năng sống của giáo viên chưa phong phú, chưa sinh động để
thu hút được sự tham gia của trẻ.
Đề tài “Một số biện pháp hiệu quả giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ
5-6 tuổi tại trường mầm non” nhằm giúp cho trẻ có được sự trải nghiệm những kĩ
năng sống cần thiết từ đó trẻ có thể vượt qua những khó khăn, biết vận dụng, biến
những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống sao cho
phù hợp. Hình thành những kĩ năng sống ban đầu cho trẻ để trẻ có một thái độ và
hành vi sống tích cực nhất trong một xã hội đầy biến động nguy hiểm hiện nay. Giúp
trẻ sống có trách nhiệm hơn với bản thân và cộng đồng, trở thành người có ích cho
xã hội trong tương lại.
6. Mục đích của giải pháp
Xuất phát từ sự cần thiết phải áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, tôi đã xây dựng một nhóm các giải
pháp nhằm mục đích:
- Khắc phục các tồn tại, hạn chế của một số giải pháp cũ đã thực hiện nhưng
còn tồn tại, hạn chế, chưa mang lại hiệu quả cao, như: Nội dung giáo dục chưa được
cụ thể hóa phù hợp theo từng chủ đề; Chưa chú ý rèn từng cá nhân trẻ mọi lúc, mọi
nơi; Chưa quan tâm lựa chọn nội dung giáo dục kĩ năng sống cần sự phối hợp của
phụ huynh rèn trẻ mọi lúc mọi nơi.
- Đề xuất thêm 1 số giải pháp mới trong giáo dục nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non nhằm giúp trẻ thích
nghi tốt hơn với môi trường xung quanh, hòa đồng với bạn bè và trở lên tự tin hơn
trước khi trẻ vào lớp 1; giúp trẻ rèn luyện tính kiên trì, bền bỉ, năng động, tự tin tham
gia các hoạt động nhóm, tập thể… chủ động ứng phó đảm bảo an toàn cho bản thân;
giúp trẻ nâng cao nhận thức, phân biệt đúng- sai, mạnh dạn đưa ra ý kiến cá nhân,
thông qua đó trẻ biết quan tâm yêu thương mọi người xung quanh, biết giao tiếp lịch
sự, lễ phép trong cuộc sống, góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện
cho trẻ sau này.
7. Nội dung.
7.1 Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến:
7.1.1: Nội dung giải pháp:
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi, tôi đã lựa chọn các giải pháp chính như sau:
* Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch nội dung giáo dục kĩ năng sống phù hợp
theo chủ đề.
* Giải pháp 2: Lựa chọn hình thức, phương tiện giáo dục phù hợp với từng
nhóm kĩ năng sống.
* Giải pháp 3: Tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ vào các thời
điểm trong ngày.
* Giải pháp 3: Xây dựng môi trường thuận lợi cho việc giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ.
* Giải pháp 4: Tăng cường úng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục kĩ năng
sống.
* Giải pháp 5: Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh trong rèn kĩ năng sống
cho trẻ.
7.1.2. Các bước tiến hành thực hiện giải pháp
Trước khi thực hiện, bản thân tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ tại nhà trường và nhận thấy thực tế công tác giáo dục KNS cho trẻ
tại trường MN như sau:
a. Thuận lợi:
Ban Giám hiệu thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, chuyên đề lồng
ghép kĩ năng sống cho trẻ.
Giáo viên có lòng yêu thương trẻ, nhiệt huyết và có trang bị những kiến thức
quan trọng thực hiện kĩ năng sống cho trẻ mầm non.
Giáo viên luôn sáng tạo, làm đồ dùng đồ chơi theo từng chủ điểm phù hợp để
cho trẻ hoạt động các kĩ năng sống dễ dàng.
Lớp học luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các bậc cha mẹ học sinh trong
việc phối kết hợp với nhà trường để giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao hơn.
Đa số trẻ trong lớp đều khỏe mạnh, đi học đều.
b. Khó khăn
* Đối với trẻ:
Một số trẻ quen dựa dẫm vào bố mẹ không có tính tự lập.
Một số trẻ hiếu động, còn chưa chú ý và chưa nghe theo lời hướng dẫn của cô
giáo; Trẻ chưa biết đoàn kết khi tham gia các hoạt động cùng bạn.
Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống phát triển hiện đại như: Internet, tivi, các trò
chơi điện tử.
Các kĩ năng sống đơn giản: tự cởi mặc quần áo, rửa mặt, đánh răng, tự xúc cơm,
cầm thìa, sử dụng nhà vệ sinh, xếp gọn đồ dùng cá nhân, đồ dùng trong lớp chưa
thực hiện tốt, các kỹ năng phòng tránh những nơi hay đồ vật nguy hiểm, kỹ năng
phòng tránh xâm hại tình dục, kỹ năng giao tiếp, tự tin... của trẻ còn nhiều hạn chế,
trẻ chưa chủ động tự thực hiện các kĩ năng này trong cuộc sống hàng ngày.
* Đối với phụ huynh
Một số phụ huynh còn nuông chiều, chưa quan tâm dạy các kĩ năng cần thiết
cho trẻ, còn làm thay trẻ;
Một số phụ huynh đi làm công ty cả ngày, trẻ chủ yếu ở với ông bà nên việc
phối hợp thực hiện rèn các kĩ năng sống cho trẻ mọi lúc- mọi nơi gặp nhiều khó khăn;
Bên cạnh đó có một số phụ huynh ở nông thôn trình độ nhận thức còn hạn chế
nhất định, nên chỉ nghĩ con em mình đến trường chỉ ca hát, các cô trông trẻ là chính,
con chưa cần thiết phải học nên rất khó khăn trong việc tuyên truyền, phối hợp với
gia đình để làm tốt công tác giáo dục kĩ năng sống cho trẻ .
Một số cha mẹ trẻ chưa hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng
sống cho trẻ nên còn lơ là, ít chú tâm.
*Cụ thể kết quả khảo sát đầu năm trẻ đạt được:
Số
Nội dung
Áp dụng hình Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại
lượng
thức khi chưa
trẻ
đổi mới
Số trẻ
Tỉ lệ%
đạt
- Khả năng tự phục vụ bản
32
17
53.1
Phương pháp hướng dẫn của giáo
viên để trẻ trải nghiệm chưa được sâu
thân
sát, còn hạn chế.
- Khả năng tự bảo vệ bản
32
16
50
Nội dung và hình thức giáo dục còn
hạn chế.
thân khi bị bắt nạt hay gặp
nguy hiểm...
Khả năng tự lập của trẻ
32
16
50
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ cùng
phụ huynh, chưa để trẻ tự trải
nghiệm.
Khả năng giao tiếp, ứng
32
15
46.8
xử của trẻ.
Phương pháp giáo dục còn chung
chung, chưa cho trẻ vừa được quan
sát vừa được thực hành nên kết quả
chưa cao.
Sự mạnh dạn, tự tin của
32
14
43.7
trẻ
Chưa phát huy tính tích cực chủ
động của trẻ nhiều nên trẻ nhút nhát,
rụt rè.
+Kỹ năng biết từ chối
nhận quà và không đi
theo người lạ…
32
17
53.1
Nội dung giáo dục cũng như thực
hành ở trẻ còn hạn chế
=> Sau khi khảo sát thực tế, tôi đã áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng việc rèn kỹ năng sống của trẻ tại nhóm, lớp mình như sau:
* Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch nội dung giáo dục kĩ năng sống theo chủ
đề.
Khắc phục những hạn chế của giải pháp cũ về nội dung giáo dục kĩ năng sống
còn chưa phong phú, chưa cụ thể theo các nhóm kĩ năng. Thường được lồng ghép
chung chung trong nội dung giáo dục của chủ đề. Tôi đã cải tiến những hạn chế về
nội dung giáo dục kĩ năng sống bằng cách: Xây dựng nội dung giáo dục kĩ năng sống
theo 10 chủ đề trong năm học. Bám sát vào mục tiêu, kết quả mong đợi theo 5 lĩnh
vực phát triển của trẻ 5- 6 tuổi và 100 nội dung đánh giá trẻ để lựa chọn nội dung
giáo dục hiệu quả theo 5 nhóm kĩ năng. Các nội dung giáo dục đảm bảo tính phù hợp
với trẻ , khả năng của giáo viên, điều kiện thực tế của địa phương và theo nguyên tắc
đồng tâm. Cụ thể như sau:
Nhóm kĩ năng
STT Chủ đề Tự phục Tự bảo vệ
Tự tin
Hợp tác
Giao tiếp
vụ
1
Trường -Đi
vệ -
Một
Mầm
sinh đúng trường
non
nơi
quy không
số Nói tên, địa Phối hợp - Nghe cô,
hợp chỉ và mô với
an tả 1 số đặc trong
bạn bạn
Không
định. Biết toàn và gọi điểm
nổi nhóm
ngắt
đi
của chơi
người
xong người
giật, giội đỡ.
giúp bật
Thực trường, lớp
nước cho hiện
quy khi
được
sạch
của hỏi,
trò
định
trường, nơi chuyện.
nói.
lời
khác. Chờ
đến lượt
công cộng an
toàn.
2
Bản
Có 1 số Nguy cơ mất Nói
thân
hành vi và an toàn: chạy điểm giống giúp
thói quen nhảy,
trong
được Chia
sẻ, Biểu
lộ
đỡ cảm cảm
leo và khác của bạn trong xúc (vui,
vệ trèo
mình
với nhóm
buồn,
sợ
sinh,
bạn (dáng chơi
hãi,
phòng
vẻ
bên
giận, ngạc
ngoài, giới
nhiên, xấu
sinh răng
tính,
sở
hổ)
miệng,
thích
và
che miệng
khả năng)
bệnh:
vệ
tức
khi ho, hắt
hơi,
không nhổ
bậy
ra lớp…
3
Gia
Sử
dụng Tránh xa 1 - Nói được Yêu mến, Sử
đình
đồ
dùng số đồ dùng họ tên, tuổi, quan tâm được các
phục
ăn
dụng
vụ gây mất an giới
tính đến người từ: “Cảm
uống toàn: gas, ổ của
bản thân trong ơn”, “xin
thành thạo điện,
phích thân;
nước…
tên gia đình
lỗi”,
bố, mẹ, địa
“thưa”,
chỉ
nhà
“dạ”,
hoặc
điện
“vâng”…
thoại
phù
hợp
với
tình
huống
4
Nghề
Lấy cất đồ Không tự ý Kể rõ ràng, Biết vâng Hiểu và sử
nghiệp
dùng đúng sử dụng 1 số có trình tự lời,
nơi
giúp dụng các
quy đồ dùng gây về sự việc, đỡ bố mẹ, từ
định
nguy hiểm ( hiện tượng cô
liềm,
giáo quát,
cuốc, nào đó để những
đinh…)
khái
từ
trái nghĩa,
người nghe việc
vừa câu
đơn,
có thể hiểu sức
câu
mở
được
rộng, câu
phức
5
Thế
Tự
thay Cách phòng Giới thiệu Tìm cách Phát
giới
quần
động
khi bị ướt, con vật hung quanh bé
quyết mâu tiếng
có
vật
bẩn và để dữ
thuẫn
phụ
âm
vào
(dùng lời, đầu,
phụ
nhờ
cuối
áo tránh 1 số về con vật để
nơi
qui định
âm
giải được các
sự âm
can thiệp gần giống
của người nhau
khác,
và
các thanh
chấp nhận điệu
nhường
nhịn)
6
Nước-
Rót nước Bé
HTTN
vừa phải chơi gần ao trời mưa to, chia
để
uống, hồ
khóa vòi
không An toàn khi An
sấm chớp
ủi, Nghevui hiểu
và
với người đưa ra ý
kiến
cá
nước khi
thân, bạn nhân sử lí
không xử
bè
các
dụng
7
tình
huống.
Tết và Có một số Nhờ sự giúp Chúc
tết. Lắng nghe Dùng
vi, đỡ của người nói lời cảm ý kiến trao được câu
Mùa
hành
xuân
thói quen lớn khi bị ơn
trong
ăn lạc.
khi đổi, thỏa đơn,
được mừng thuận,
uống:
tuổi
câu
ghép, câu
chia
sẻ khẳng
Không
kinh
định, câu
đùa
nghiệm
phủ định,
nghịch,
với bạn
câu mệnh
lệnh…
không làm
đổ
vãi
thức ăn
8
Thế
Tự cài, cởi Kí
hiệu Kể
giới
cúc,
thực
dây giày, thường:Nơi
vật
cài
quai nguy hiểm, cây ăn quả hoa,
dép,
kéo lối ra- vào, bé biết
những loài trồng,
xâu thông
hoa,
cấm lửa…
khóa
về Cùng bạn Thể hiện
sắc
thái
rau, chăm sóc tình
cảm
đọc
cảnh, bảo thơ, đồng
vệ
(phéc mơ
cây khi
môi dao
trường
tuya)
9
Giao
Gấp chăn, Những đồ
thông
xếp
gối vật,
gọn gàng
Giúp
những bạn, người đồ
nơi không an khác
toàn;
đỡ Chia
nguy
cơ không an
sẻ Chào hỏi
chơi, lễ
phép.
khi cùng bạn Giao tiếp
tự tin với
toàn khi ăn gặp
uống
khó tạo ra sản người đối
và khăn
phẩm
diện
phòng tránh
10
Quê
Chải đầu, Không tự ý Tham
hương- buộc
gia Giao lưu Giới thiệu
tóc nhận quà, đi biểu diễn, các
lưu chơi
trò cảnh đẹp
đất
gọn gàng. theo người lạ giao
nước-
Mặc trang
Bác
phục phù
danh lam
Hồ-
hợp
thắng
văn nghệ
thời
thể.
tập của
quê
hương,
Trường tiết
cảnh của
tiểu
đất nước
học
=>Với nội dung giáo dục rõ ràng theo từng chủ đề, tôi chủ động hơn trong
việc xác định mục tiêu, xây dựng môi trường giáo dục, lựa chọn đề tài giáo dục cụ
thể, chủ động lồng ghép, thực hiện các nội dung giáo dục kĩ năng sống mọi lúc,
mọi nơi 1 cách linh hoạt. Cuối chủ đề các nội dung giáo dục kĩ năng sống đều được
đánh giá về mức độ thực hiện, kết quả đạt được theo 5 nhóm kĩ năng và những
điểm cần lưu ý để thực hiện tốt hơn trong chủ đề sau.
* Giải pháp 2: Lựa chọn đồ dùng, phương tiện giáo phù hợp giáo dục từng
nhóm kĩ năng sống.
Giải pháp này tôi thực hiện nhằm lựa chọn đồ dùng trực quan, phương tiện giáo
dục hỗ trợ phù hợp nhất, phát huy tối đa hiệu quả giáo dục từng nhóm kĩ năng sống.
Đảm bảo mỗi nội dung giáo dục kĩ năng sống có hướng khai thác riêng luôn mới lạ
với trẻ. Bởi hứng thú là yếu tố quan trọng quyết định nên thành công trong các nội
dung giáo dục của trẻ mầm non. Sau đây là 1 số minh chứng tôi đã khai thác sử dụng
loại đồ dùng, phương tiện phù hợp giáo dục hiệu quả đến các nhóm kĩ năng sống:
Sử dụng tranh ảnh, vật thật: Tôi xác định được nhóm kĩ năng tự bảo vệ là
nhóm kĩ năng trừu tương thường được mô phỏng lại qua tranh ảnh, vật thật. Nên tôi
đã lựa chọn ra những mối nguy hiểm thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày đối
với trẻ để giúp trẻ được mô phỏng qua tranh ảnh và 1 số đồ dùng trực quan nhằm
giúp trẻ nhận biết và có những hành động đúng với những trường hợp nguy hiểm
đang xảy ra như: ổ điện, quạt điện, bếp ga, phích nước nóng, bàn là, những vật sắc
nhọn( kéo, bút chì)…. Tôi cho trẻ kể tên về những đồ dùng trong gia đình nhà mình,
sau đó cho trẻ xem tranh về những đồ dùng đó, hỏi trẻ xem những đồ dùng này các
con có được sử dụng không? Vì sao?
Hình 1.Dạy trẻ kỉ năng bảo vệ bản thân tránh xa các đồ vật gây nguy hiểm
Sử dụng các tình huống: Các tình huống có vần đề là phương tiện để sau mỗi
ý kiến, cách giải quyết trẻ sẽ nhận ra cách tự bảo vệ bản thân được an toàn. Trong
cuộc sống hàng ngày, tôi dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất trắc mà trẻ có thể
gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở giúp trẻ tìm ra cách giải
quyết, không áp đặt, cấm đoán trẻ. Nhằm giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân, trẻ có
khả năng biết từ chối, xử lý những tình huống khi thấy không an toàn. Tôi tự đặt ra
một số tình huống để trẻ tự giải quyết vấn đề, và những tình huống khác, có liên quan
cũng được áp dụng trong suốt quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Ví dụ: Cô kể cho trẻ nghe câu chuyện: Bạn A được mẹ hứa đón về sớm, nhưng
mẹ bận họp đột xuất, chờ mãi mà không thấy mẹ. A đi ra cổng để đón mẹ, bỗng có
một người phụ nữ cho bạn A kẹo và nói “Hôm nay mẹ bận không đón con được, mẹ
nhờ cô đón con về, con ngoan ăn kẹo đi rồi lên xe cô chở con về”. Giáo viên dừng
lại và hỏi trẻ: bạn A có về với người phụ nữ đó không? Nếu con là bạn A con sẽ xử
trí như thế nào? Cho trẻ thảo luận và đưa ra cách xử lí tình huống
Sử dụng video, các bộ phim rèn kĩ năng sống, thông tin thời sự để giáo dục
kĩ năng bảo vệ, kĩ năng hợp tác:
Ví dụ: Thời gian gần đây một trong những mối lo lớn nhất của gia đình, nhà
trường cũng nhưng toàn xã hội là dịch bệnh covid 19 đang diễn biến hết sức phức
tạp. Tôi tổ chức cho trẻ xem những bản tin thời sự, lắng nghe diễn biến dịch bệnh,
những hướng dẫn của bác sĩ để phòng dịch hiệu quả. Từ đó trẻ được rèn luyện kĩ
năng tự bảo vệ như: Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, sát khuẩn tay, đeo khẩu
trang đúng cách…để đảm bảo an toàn.
Hình 2: Cho trẻ xem các thông tin dịch covid 19
Hay cô và trẻ cùng chuẩn bị băng dôn, khẩu hiệu để cổ vũ cho 1 trận bóng đá
quan trọng của đội tuyển Việt Nam. Qua đó cô giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác
của từng cá nhân góp phần thành công cho toàn đội.
Sử dụng đa dạng yếu tố trò chơi: Nếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức
trẻ dễ nhàm chán, mau quên. Trẻ chơi mà học sẽ khắc sâu kiến thức cô cung cấp. Trò
chơi là hoạt động hiệu quả giúp giáo dục, củng cố được các nhóm các nhóm kĩ năng
sống cơ bản.
VD:Với các trò chơi học tập như: “ai thông minh hơn”, “thi xem đội nào
nhanh”, “Loại bỏ những đồ dùng gây nguy hiểm cho trẻ”, hay trò chơi với tranh vẽ
“ Hãy gạch chéo vào đồ dùng mà bé không được sử dụng”…Trẻ sẽ rất tích cực tham
gia để củng có kĩ năng cơ bản tự phục vụ, hành vi đúng sai tự bảo vệ...Các trò chơi
học tập củng cố hiệu quả nhóm kĩ năng tự phục vụ và nhóm kĩ năng tự bảo vệ.
Hoặc với các trò chơi vận động, như: Kéo co, rồng rắn lên mây, chèo
thuyền…các trò chơi có luật tiếp sức thể hiện tinh thần đồng đội giúp đỡ nhau cùng
hoàn thành nhiệm vụ phát huy vai trò của từng cá nhân trong nhóm đến kết quả của
cả đội, phải có sự hợp tác của tất cả các thành viên trong nhóm để cả nhóm hoàn
thành nhiệm vụ nhanh nhất, hiệu quả nhất. Các trò chơi vận động này rèn luyện hiệu
quả nhóm kĩ năng hợp tác
Hình 3: Trẻ biết đoàn kết khi chơi trò chơi
=> Giải pháp này giúp tôi lựa chọn đồ dùng, phương pháp giáo dục phù hợp
tránh lãng phí, nhàm chán mà đem lại hiệu quả cao trong việc rèn luyện từng
nhóm kĩ năng sống. Tôi nhận thấy trẻ lớp tôi tăng khả năng hứng thú, tích cực
khám phá, trải nghiệm hoạt động mà tôi muốn chuyển tải đến trẻ. Đặc biệt, trong
từng nội dung tôi tổ chức, do tính phù hợp cao nên trẻ tiếp thu nhanh, đạt mục
tiêu mà tôi đưa ra.
* Giải pháp 3: Giáo dục kĩ năng sống trong các thời điểm trong ngày.
Trong giải pháp này tôi đã cải tiến việc tổ chức hời hợt, chưa quan sát nắm bắt
và đánh giá hiệu quả của từng thời điểm tổ chức. Từ đó kịp thời rút kinh nghiệm,
điều chỉnh nội dung, hình thức tổ chức rèn kĩ năng sống trong giai đoạn tiếp theo:
*Trong giờ đón, trả trẻ: Không chỉ đơn thuần rèn trẻ kĩ năng lễ giáo, tự phục
vụ đơn giản 1 cách qua loa. Không nắm bắt được cụ thể cháu nào có kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng phục vụ tốt- chưa tốt? Việc thực hiện của cháu đã trở thành kĩ năng
chưa? Hay cháu chỉ thực hiện thao phản xạ lời nhắc nhở của cô?. Xác định được điều
mục tiêu đó tôi tập cho trẻ những lời nói lễ phép, dạy trẻ nói đủ câu, không nói trống
không, tôi luôn quan sát, uốn nắn trẻ thường xuyên, khi thấy trẻ nói chưa đủ câu tôi
sửa cho trẻ ngay.
Tôi hướng dẫn, uốn nắn sát sao, thường xuyên như vậy đến khi
tất cả trẻ lớp tôi đã chủ động, tự tin biết thưa gửi, nói năng lễ phép hơn với cô giáo,
với ông bà, ba mẹ và những người xung quanh.
Hình 4.Trẻ biết chào hỏi lễ phép
Hoặc với nhóm kĩ năng tự phục vụ. Cháu sẽ được rèn luyện để chủ động xếp
dép ngay ngắn, cất đồ dùng gọn gàng đúng tủ cá nhân đã dán kí hiệu. Chủ động giúp
bạn đóng cánh tủ khi cánh tủ bị mở ra….
(Hình 5: Trẻ cất đồ dùng gọn gàng đúng tủ cá nhân)
*Trong hoạt động học: Cải tiến những nội dung giáo dục kĩ năng sống trước
đây thường lồng ghép trong các hoạt động học còn chưa linh hoạt, chủ yếu lồng ghép
trong phần giáo dục trẻ 1 cách chung chung. Chủ yếu lồng ghép giáo dục nhóm kĩ
năng tự phục vụ, nhóm kĩ năng an toàn, nhóm kĩ năng hợp tác. Tôi nắm bắt khả năng
của cá nhân trẻ nhằm rèn luyện nhóm kĩ năng tự tin, nhóm kĩ năng giao tiếp thông
qua việc khảo sát, nắm bắt đặc điểm giao tiếp, tự tin của từng đối tượng trẻ. Cụ thể
như sau: tôi quan tâm khơi gợi hứng thú để trẻ chủ động giơ tay phát biểu nói lên
suy nghĩ của mình, tự tin trả lời câu hỏi của cô giáo hoặc có thể trao đổi hỏi giáo viên
các vấn đề mà mình chưa hiểu hoặc thắc mắc. Đối với trẻ nhút nhát tôi thường quan
tâm, gọi trả lời nhiều hơn, khen, động viên khích lệ trẻ kịp thời để giúp trẻ tự tin với
bản bản thân hơn.
Hình 6.Trẻ tự tin giơ tay phát biểu
Cũng trong các hoạt động học, với những trẻ nhút nhát tôi tăng cường cho trẻ
được trả lời câu hỏi nhiều hơn và bằng những câu hỏi đơn giản nhất, khi trẻ trả lời
xong tôi và cả lớp khen ngợi bằng những tràn pháo tay rộn rã. Hoặc trong giờ hoạt
động âm nhạc, tôi giúp trẻ tự tin khi lên biểu diễn, khuyến khích trẻ tham gia vào các
hoạt động giải trí văn nghệ do trường lớp tổ chức, hoặc trong các hoạt động học tập,
khuyến khích trẻ tự tin sáng tạo các sản phẩm mà mình thích.
*Trong hoạt động chiều: Chủ yếu tổ chức hoạt động lao động, vệ sinh còn
nghèo nàn dẫn đến trẻ nhàm chán. Cải tiến đề tài hoạt động lao động, vệ sinh còn
nghèo nàn tôi đã lựa chọn đa dạng đề tài phù hợp với từng thời điểm và điều kiện
thuận lợi thực tế của lớp có được
Ví dụ: Do nhận được sự đồng thuận, ủng hộ từ phía phụ huynh. Từ nguồn đồ
dùng: cuốc, cào, sẻng…được làm tinh tế từ gỗ, đảm bảo chắc chắn, phù hợp sử dụng
với trẻ mầm non. Tôi tổ chức hoạt động lao động “ cuốc đất”. Hay từ con giống rau
được phụ huynh trực tiếp mang đến tặng. tôi tổ chức cho trẻ giao lưu với bác nông
dân và trồng rau trực tiếp trên quỹ đất “vườn rau sạch của bé” của trường dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của bác nông dân là hoạt động lao động trẻ rất thích thú. Hoặc
từ những bó lúa, gạo, rơm… phụ huynh ủng hộ tôi cho trẻ tham gia hoạt động lao
động: “Đập lúa”, “ sẩy gạo”, “bện chổi”….Bên cạnh đó, khi dịch covid 19 có diễn
biến phức tạp. Thì hoạt động vệ sinh: “Đeo khẩu trang đúng cách”, “Bé sử dụng nước
sát khuẩn tay như thế nào?”…Sẽ là những hoạt động vệ sinh trẻ tích cực tham gia,
rèn luyện do tính phù hợp thời điểm.
Hình 7: hoạt động lao động cuốc đất, đập lúa
Đặc biệt, trong khoảng thời gian của hoạt động chiều tôi tăng cường tổ chức
các hoạt động rèn kĩ năng sống được nâng cao cả về số lượng và chất lượng hoạt
động. Đây là hoạt động trẻ được trải nghiệm thực tế, giúp trẻ đảm bảo an toàn cho
bản thân, chủ động ứng phó trước những nguy hiểm có thể xảy ra như: Khi ở nhà 1
mình, bị lạc, bắt cóc…Các nội dung này được tôi đưa vào các đề tài giáo dục như:
“An toàn khi bé ở trường?” “Khi bị lạc bé sẽ làm gì?” “ Xử trí khi bị bắt cóc?”…
*Trong các thời điểm khác: Trong các thời điểm tổ chức hoạt động góc, hoạt
động ngoài trời, hoạt động ăn- ngủ- vệ sinh…đã được tôi quan sát, kết hợp rèn các
kĩ năng sống 1 cách nhẹ nhàng, linh hoạt. Đảm bảo yếu tố: Cô là 1 người bạn là tấm
gương mẫu mực trẻ học tập, không gượng ép, không mắng- phạt, luôn cởi mở, chia
sẻ, quan tâm phù hợp đến từng cá nhân trẻ. Từ việc đảm bảo các yếu tố đó giúp tôi
rèn luyên các nhóm kĩ năng sống 1 cách hài hòa và dần trẻ thực hiện thành kĩ năng
Ví dụ: Trong hoạt động góc, cô sẽ là 1 người bạn giúp trẻ giao tiếp tự tin, đúng
chuẩn mực xã hội với từng vai chơi. Cô sẽ là người thúc đẩy để việc các trẻ ngồi
chung 1 nhóm mà chơi độc lập, không có sự hợp tác để cùng tạo ra 1 sản phẩm hoặc
công trình như mong muốn.
Hình 8.Trẻ giao tiếp cởi mở mới bạn
=> Khi tôi luôn tự trau dồi chuyên môn, phẩm chất đạo đức, mọi hành vi đúng
chuẩn mực. Kết hợp với việc biết tổ chức giáo dục đúng thời điểm , dưới sự ủng hộ
từ phía phụ huynh. Việc rèn kĩ năng sống được trẻ tiếp thu 1 cách nhẹ nhàng, đạt
hiệu quả cao.
* Giải pháp 4: Xây dựng môi trường thuận lợi để dạy kĩ năng sống cho trẻ
Cải tiến môi trường giáo dục trước đây chủ yếu đáp ứng phù hợp chủ đề. Chưa
quan tâm bổ sung phù hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống theo chủ đề. Tôi đã trú
trọng xây dựng môi trường giáo dục kĩ năng sống cho trẻ như sau:
Cửa lớp được trang trí thân thiện, màu sắc hài hòa, Ngoài ra được bổ sung các
biểu tượng cảm xúc được gắn ngay cửa lớp trẻ được trải nghiệm cảm xúc ngay từ
cửa lớp. Việc lựa chọn hình ảnh để giao lưu cảm xúc của cô và trẻ như: cử chỉ bắt
tay, hôn lên má, âu yếm… sẽ làm tình cảm cô cô và trẻ trở lên gần gũi hơn, rèn trẻ
tự tin bày tỏ cảm xúc phù hợp .
Hình 9: Môi trường cửa lớp thân thiện
Trong lớp học các góc chơi trang trí sinh động, đa dạng đồ dùng đồ chơi theo
chủ đề. Đặc biệt quan tâm bổ sung môi trường hoạt động rèn kĩ năng sống. Tất cả đồ
dùng đồ chơi đều được bố trí trẻ dễ lấy, dễ cất tạo cảm hứng vui chơi cho trẻ rèn
luyện kĩ năng sống.
Hình 10: trang trí lớp học, sắp xếp đồ chơi phù hợp
VD: Trong chủ đề nghề nghiệp, tại góc Khám phá tôi chuẩn bị đa dạng đồ chơi
cho trẻ hoạt động rèn luyện: kĩ năng đan tết, cởi đóng cúc áo, buộc dây giày, bện
chổi, xảy gạo, ghép tranh dụng cụ, sản phẩm theo nghề….
Hình 11: Góc khám phá được bổ sung đồ chơi phù hợp chủ đề
Ngoài ra, lớp học còn được gắn các biển cảnh báo phù hợp: cấm sờ vào ổ điện,
an toàn khi lên xuống cầu thang, bình chữa cháy….Hoặc khu vệ sinh có minh họa 6
bước rửa tay, biển nhà vệ sinh trai- nhà vệ sinh gái; bé soi gương- chải đầu…
=>Môi trường giáo dục góp vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
giáo dục kĩ năng sống. Việc được trải nghiệm thường xuyên với môi trường, thiết
bị, hệ thống biển báo, hình ảnh trực quan phù hợp giúp trẻ được chủ động tìm tòi
và rèn luyện các nhóm kĩ năng giáo dục kĩ năng sống theo nhu cầu, sở thích của
trẻ.
d. Giải pháp 5: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục
KNS cho trẻ:
Đây là giải nhằm giúp giáo dục KNS trở lên hứng thú và đạt hiệu quả cao hơn.
Tôi đã sử dụng các đến yếu tố công nghệ thông tin 1 cách khoa học . Việc khai thác
các kênh có nguồn tư liệu phù hợp với trẻ mầm non như: Chương trình: “Con đã lớn
- Xem thêm -