Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong...

Tài liệu Skkn một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học

.PDF
34
133
73

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NAM TRỰC TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM ĐỒNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nam Đồng MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với xu thế phát triển của thời đại, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Xuất phát từ yêu cầu của xã hội hiện nay, việc hình thành và phát triển kĩ năng sống trở thành một yêu cầu quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người hiện đại. “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết, phù hợp với mục tiêu giáo dục. Mỗi người khi sinh ra đều không có khả năng làm được mọi thứ một cách ngẫu nhiên. Đó là kết quả của quá trình tiếp thu, thích nghi với các tri thức, kinh nghiệm xã hội lâu dài. Trẻ em khi sinh ra không thể tự nhiên có được kĩ năng sống như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng trình bày ý kiến, kĩ năng tự chăm sóc bản thân... Càng có những kĩ năng này sớm bao nhiêu thì trẻ càng có nền tảng vững chắc để phát triển toàn diện. Mặt khác, khi trẻ lớn dần, nhu cầu hòa nhập xã hội, tiếp xúc với thế giới bên ngoài càng cao. Thông tin ngoại cảnh không chỉ có những cái tốt đẹp mà còn bao gồm cả những cái xấu, cái không tốt. Vì vậy, việc dạy và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là vô cùng cần thiết. Rèn kĩ năng sống cho học sinh giúp cho học sinh thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề sức khoẻ, môi trường, tệ nạn xã hội,...để các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên Trong thực tế hiện nay việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã được chú ý đến, song nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học”. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu thực trạng nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học. Từ đó, đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. - Nghiên cứu, tìm hiểu các kĩ năng sống phù hợp với độ tuổi học sinh tiểu học. - Nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, rèn kĩ năng sống trong trường tiểu học. - Thiết kế một số bài học và tiến hành thực nghiệm sư phạm để làm rõ việc áp dụng các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu nội dung chương trình các môn học, các hoạt động giáo dục và các hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các trường tiểu học trên địa bàn huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp lí luận: Thu nhập tài liệu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa nội dung giáo dục, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh tiểu học trong chương trình các môn học và các hoạt động giáo dục ở tiểu học. 5.2. Phương pháp thực tiễn - Phương pháp quan sát - Phương pháp trò chuyện - Phương pháp điều tra - Phương pháp thực nghiệm 6. Cấu trúc của đề tài nghiên cứu Phần 1: Mở đầu Phần 2: Nội dung: gồm 4 chương Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Chương 2: Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học Chương 4: Thực nghiệm sư phạm Phần 3 : Kết luận và kiến nghị PHẦN 2: NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC I. Cơ sở lý luận 1. Cơ sở pháp lí Chỉ thị số 40/CT-BGD ĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 -2013 có nội dung và mục tiêu quan trọng đó là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được ngành Giáo dục và Đào tạo đặt ra từ lâu, nhưng lâu nay do Bộ Giáo dục và Đào chưa ban hành bộ chuẩn về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để định hướng chung nên mỗi trường dạy mỗi kiểu. Cùng với đó, việc giáo dục kĩ năng sống tại các trường tiểu học mới chỉ dừng lại ở các tiết học về đạo đức. Từ năm học 2010 - 2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống đại trà vào các trường bằng cách tích hợp vào các môn học và các hoạt động giáo dục. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. 2.Tổng quan về kĩ năng sống 2.1. Quan niệm về kĩ năng sống Thuật ngữ kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam từ những năm 1995 - 1996. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục kĩ năng sống gắn với giáo dục những vấn đề xã hội khác. Vậy kĩ năng sống là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống, cụ thể: + Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực, giúp cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước những nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. + Theo UNICEF, kĩ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Kĩ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong não bộ của con người. Kĩ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua học tập hoặc rèn luyện của con người. + Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), kĩ năng sống gồm có 4 trụ cột của giáo dục, đó là: học để biết, học làm người, học để sống với người khác và học để làm. Từ những quan niệm trên có thể thấy, kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lý bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. 2.2. Phân loại kĩ năng sống. Có nhiều cách phân loại kĩ năng sống, tùy theo quan niệm về kĩ năng sống mà có những cách phân loại khác nhau. Theo UNESCO, WHO, UNICEF, có thể xem kĩ năng sống gồm các kĩ năng cốt lõi sau: + Kĩ năng giải quyết vấn đề + Kĩ năng suy nghĩ hay tư duy phê phán + Kĩ năng giao tiếp hiệu quả + Kĩ năng ra quyết định + Kĩ năng tư duy sáng tạo + Kĩ năng giao tiếp, ứng xử cá nhân + Kĩ năng tự nhận thức hay tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị. + Kĩ năng thể hiện sự cảm thông + Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc Trong giáo dục ở vương quốc Anh, kĩ năng sống được chia thành 6 nhóm chính là: + Hợp tác nhóm + Tự quản + Tham gia hiệu quả + Suy nghĩ hay tư duy bình luận, phê phán + Suy nghĩ sáng tạo + Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề Trong nền giáo dục của nước ta, những năm vừa qua, kĩ năng sống thường được phân theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau: + Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình bao gồm các kĩ năng sống cụ thể như: tự nhận thức xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm hỗ trợ, tự trọng, tự tin, .... + Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác bao gồm những kĩ năng sống cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn; thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác, .... + Nhóm kĩ năng ra quyết định bao gồm các kĩ năng sống cụ thể như: tìm kiếm và xử lý thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, .... 2.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói riêng 2.3.1. Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Kĩ năng sống là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thàtnh thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của mình. Ngược lại, người thiếu kĩ năng sống thường bị vấp ngã, dễ thất bại trong cuộc sống. Kĩ năng sống không những thúc đẩy sự phát triển của cá nhân mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội và bảo vệ quyền con người. Việc thiếu kĩ năng sống của cá nhân là một nguyên nhân nảy sinh các vấn đề tiêu cực trong xã hội. Việc giáo dục kĩ năng sống sẽ thúc đẩy những hành vi tích cực, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm các vấn đề tiêu cực trong xã hội. Giáo dục kĩ năng sống còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được ghi trong Luật pháp Việt Nam và Quốc tế. 2.3.2. Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thể hệ trẻ Giáo dục kĩ năng sống đang trở nên cấp thiết đối với thể hệ trẻ bởi vì: - Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là những người quyết định sự phát triển của đất nước. Nếu không có kĩ năng sống, các em sẽ không thực hiện tốt trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. - Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động, .... Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ chịu nhiều tác động đan xen giữa yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn phải đặt mình vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức. Nếu không được giáo dục những kĩ năng sống, thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực, bạo lực và lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cấn thiết, giúp các em thực hiện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. Việc giáo dục kĩ năng sống càng sớm bao nhiêu thì trẻ càng có nền tảng vững chắc để phát triển toàn diện. 2.3.3. Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống phù hợp với mục tiêu giáo dục phổ thông. Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông. II. Cơ sở thực tiễn 1. Thực trạng lối sống và đạo đức của học sinh hiện nay Trong những năm trở lại đây, tỷ lệ trẻ em phạm tội, trẻ em dính vào các tệ nạn xã hội, bỏ nhà, hư hỏng ngày càng nhiều. Không chỉ có học sinh PTTH, PTCS mà tuổi trẻ em hư dường như đang ngày càng trẻ hóa. Thật đáng buồn khi mà chúng ta phải chứng kiến các em học sinh còn trong độ tuổi tiểu học cũng đánh nhau, bỏ nhà và thậm chí là có những hành động rất cực đoan như là tự tử. Khi bị cha mẹ, thầy cô có nhắc nhở các em lập tức thể hiện thái độ căng thẳng, chống đối. Có lẽ chúng ta không thấy lạ khi đi ngang qua cổng trường thấy các em cả nam, nữ văng tục, chửi bậy. Có không ít học sinh hút thuốc, tóc nhuộm xanh đỏ, bỏ tiết học đi chơi... Trên một số trang báo mạng, chúng ta bàng hoàng khi nghe con cái của mình nói: “Teen quan hệ sớm, ai cũng biết chỉ phụ huynh không biết”, bàng hoàng với các dòng tin với nội dung trẻ em bị xâm hại. Rõ ràng hiện nay, một bộ phận không nhỏ học sinh đang phát triển nhân cách rất lệch lạc. Và thực tế cũng cho thấy, học sinh bây giờ đang rất thiếu kĩ năng sống. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ngày càng trở nên bức thiết khi mà xã hội đang tác động tới các em từ quá nhiều phía. 2. Thực trạng của giáo dục kĩ năng sống trong các nhà trường Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nội dung, mục tiêu quan trọng của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Thực hiện mục tiêu đó, trong những năm qua Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định đã chỉ đạo các trường chú trọng, quan tâm lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào từng tiết học và các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Công tác giáo dục kĩ năng sống đã có nhiều chuyển biến. Các nhà trường đã chú trọng tố chức nhiều hơn các hoạt động ngoại khóa, nhiều trò chơi dân gian đang có nguy cơ bị mai một dần, giờ chơi ở sân trường nhộn nhịp hẳn lên với các trò chơi đá cầu, chơi chuyền, chơi ô ăn quan, nhảy dây, … Học sinh được quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất để “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đi đôi với việc tăng cường tổ chức các hoạt động vui chơi cho học sinh, các nhà trường trong huyện, trong tỉnh còn hướng các em tham gia các hoạt động xã hội, tìm hiểu thêm về quê hương, đất nước, con người, tham gia giúp đỡ trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Học sinh được tự trải nghiệm, rút ra được bài học cho bản thân, trang bị cho mình những kĩ năng cần thiết để ứng dụng vào cuộc sống nên đa số đều rất hứng thú với các hoạt động nhà trường tổ chức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tại một số nơi, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chưa được nhận thức một cách nhất quán. Điều này thể hiện rõ trong việc tổ chức các hình thức giáo dục hay việc tạo điều kiện để giáo dục kĩ năng sống ở các cơ sở giáo dục. Tuy là một nội dung được chính thức đưa vào chương trình giáo dục nhưng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh gần như được thực hiện theo kiểu “mạnh ai nấy làm”. Vì thế, kết quả của việc giáo dục kĩ năng sống chỉ tùy thuộc vào tâm huyết và năng lực của giáo viên. Ở một số đơn vị giáo dục, việc giáo dục kĩ năng sống mới chỉ được xem như một phong trào để được đánh giá thi đua. Mặt khác, trong thực tế một vài giáo viên chưa quen với việc giảng dạy lồng ghép các nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Nhiều người quan niệm việc lồng ghép các nội dung đó là chỉ lồng ghép vào các môn học có tính giáo dục như đạo đức hoặc những môn học thuộc nhóm khoa học xã hội như Tiếng Việt, Lịch sử và Địa lý, Khoa học. Nhưng thật ra bất kỳ môn học nào, bất kỳ hình thức giảng dạy nào cũng có thể lồng ghép giáo dục kĩ năng sống được. Điều quan trọng là ở người lên lớp và tổ chức. Rõ ràng việc giáo dục kĩ năng sống hiện nay đang trong tình trạng vừa học vừa làm. Một số giáo viên chưa được đào tạo căn bản về nội dung và cả phương pháp giáo dục kĩ năng sống mà phải tự nghiên cứu tìm hiểu, ứng dụng theo cách thức và hoàn cảnh riêng của mình. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục KNS cho HS dẫn đến có một bộ phận HS trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của nhiều HS. Hơn thế nữa, giáo dục kĩ năng sống cần có sự phối hợp của các lực lượng giáo dục, trong đó có vai trò của gia đình. Nhưng thực tế không ít gia đình vẫn khoán trắng cho nhà trường, gây ra nhiều khó khăn cho thầy cô. Không chỉ thiếu hợp tác mà nhiều phụ huynh học sinh còn làm những điều ngược lại với cách giáo dục của nhà trường làm cho các em thấy hụt hẫng và hoang mang. Học sinh tỏ ra căng thẳng, các em dần dần đánh mất sự tự tin vốn có của mình. Giáo dục kĩ năng sống không chỉ đơn thuần là cung cấp tri thức mà phải tạo điều kiện cho các em trải nghiệm và thực hành cụ thể. Nếu việc thực hành kĩ năng sống chỉ theo phong trào, không đi vào bề sâu và không duy trì thường xuyên thì kết quả sẽ hạn chế, thậm chí chẳng mang lại kết quả gì. Chương II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC. I. Các kĩ năng sống cần trang bị cho học sinh tiểu học 1. Phân loại kĩ năng sống theo nội dung hoạt động thì các kĩ năng sống cần rèn cho học sinh tiểu học là: + Kĩ năng học tập: kĩ năng tự kiểm tra; đánh giá năng lực của bản thân; xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân; kĩ năng phân tích; kĩ năng tổng hợp; kĩ năng xây dựng kế hoạch; kĩ năng hệ thống hoá; kĩ năng trình bày một vấn đề. + Kĩ năng lao động, lao động tự phục vụ: kĩ năng thao tác những hoạt động tự phục vụ như tự lấy nước uống, tự xúc cơm ăn, tự mặc quần áo, tự đi giầy, tất (lớp 1, 2); tắm gội (lớp 3, 4, 5),..., + Kĩ năng sử dụng có hiệu quả một số dụng cụ chăm sóc cây xanh, chăm sóc vật nuôi trong gia đình, lao động vệ sinh trường lớp,... + Kĩ năng vệ sinh, giữ gìn sức khoẻ: trẻ tự thực hiện được một số hoạt động như: chải đầu, đánh răng rửa mặt, tắm giặt,..., chơi trò chơi lành mạnh, ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh, thực hiện giờ giấc vui chơi, học tập lao động vừa sức hợp lý tránh được sự căng thẳng,.... + Kĩ năng về hành vi, ứng xử: kĩ năng giao tiếp (nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp tình huống, biết cách chào thầy cô giáo, cách xưng hô nói năng đúng mực với những người lớn tuổi,... ), kĩ năng từ chối, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng vận động, kĩ năng kiềm chế sự tức giận, kĩ năng biểu lộ cảm xúc,... 2. Trong lĩnh vực tâm lý có thể phân loại kĩ năng sống cần rèn cho học sinh tiểu học như sau: + Nhóm kĩ năng nhận thức: Kĩ năng nhận thức bản thân, tự xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, kĩ năng đặt ra mục tiêu, kĩ năng xây dựng kế hoạch, thời gian biểu, kĩ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu, kĩ năng phân tích tổng hợp, tư duy sáng tạo. + Nhóm kĩ năng xã hội: Kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp không lời, kĩ năng thuyết trình trước tập thể, kĩ năng từ chối, kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng biểu lộ, diễn đạt cảm xúc, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng vận động và gây ảnh hưởng. + Nhóm kĩ năng quản lý bản thân: Kĩ năng làm chủ cảm xúc, vượt qua lo lắng, sợ hãi, khắc phục sự tức giận, kĩ năng thực hiện tốt thời gian biểu, kĩ năng bảo vệ sức khoẻ. II. Một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống hiệu quả Giáo dục kỹ năng sống không phải là để nói cho trẻ biết thế nào là đúng thế nào là sai như ta thường làm. Cũng không phải là rao truyền nhưng lời hay ý đẹp để chúng vào tai này rồi ra tai kia. Các phương pháp cổ điển như giảng bài, đọc chép sẽ thất bại hoàn toàn vì chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng cách còn rất lớn. Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác nhau. Quyết định phải phát xuất từ trẻ. Vì thế học phải hết sức gần gũi với cuộc sống hay ngay trong cuộc sống. Nội dung phải phát xuất từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần có điều kiện để cọ xát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành, áp dụng. trẻ phải tham gia chủ động vì có thế trẻ mới thay đổi hành vi. Có nhiều phương pháp được áp dụng để thực hiện yêu cầu như trên . Cụ thể: 1. Hoạt động nhóm 1.1. Phương pháp Các nhà khoa học đã khẳng định rằng nhóm nhỏ là một môi trường thuận lợi nhất để thay đổi hành vi. Trong nhóm nhỏ (không quá 7- 9 người) người ta mới tham gia tích cực, các mối tương tác giữa các thành viên trong nhóm làm ảnh hưởng lẫn nhau, và bắt chước nhau. Các nhà nghiên cứu đã tổng kết về các thuận lợi trong học tập theo nhóm như sau: + Trẻ dễ trở nên thân thiện với nhau và với người hướng dẫn. + Trẻ được khuyến khích hợp tác hơn là cạnh tranh + Thầy và trò có mối quan hệ tốt, làm cho việc học thuận lợi hơn. + Trẻ dễ tập trung và người hướng dẫn dễ theo dõi phản ứng của trẻ. + Trẻ bạo dạn hơn để đặt câu hỏi. + Trẻ có cơ hội phát huy khả năng lắng nghe và truyền đạt. + Trẻ sẵn sàng chia sẻ ý tưởng và kinh nghiệm. + Trẻ dễ phát huy sáng kiến. + Trẻ có nhận thức tốt hơn về bản thân và người khác + Trẻ bao dung hơn với bạn bè và quan tâm tới nhu cầu của chúng. + Các thành viên nhóm hỗ trợ lẫn nhau về mặt tâm lý và điều này giúp cho trẻ có quyết định đúng đắn. 1.2. Yêu cầu sư phạm Hoạt động nhóm nhỏ chỉ thực sự đem lại những kết quả khi được sử dụng một cách khoa học. Tâm lý phát triển nhóm là một nội dung khoa học, giáo viên người hướng dẫn phải nắm chắc mới phát huy được tác dụng của nhóm. Dù sinh hoạt theo nhóm, không ít giáo viên không thay đổi cách làm của người thầy đứng lớp, vẫn “dạy học” áp đặt ý kiến, quyết định thay cho trẻ. Mặc dù từ bên ngoài, ta cũng thấy các em vui chơi, nhảy múa nhưng mọi sự do thầy cô điều động, trẻ không thực sự chủ động. Tổ chức hoạt động nhóm là tạo điều kiện cho nhóm tự phát triển đúng hướng làm sao cho thông tin được thông suốt, có sự tham gia đồng đều, tránh sự chế ngự của một cá nhân hay thiểu số, tạo bầu khí thân thiện, hợp tác, bảo đảm dân chủ, quyết định phải xuất phát từ tập thể v,v.. Sai lầm là để cho nhóm hoàn toàn tự phát. Vì như thế, hoạt động sẽ rời rạc, sẽ xảy ra “độc diễn” của một cá nhân mạnh, hay sự kiểm soát của một thiểu số, đa số còn lại sẽ thụ động, thờ ơ. Như vậy sinh hoạt nhóm sẽ mất tác dụng. 2. Thảo luận nhóm 2.1. Phương pháp Phương pháp thảo luận nhóm là để học sinh bàn bạc, trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài học. Câu hỏi mà các em bàn bạc có thể là kiểu câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở. Các nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm đã chứng minh rằng nhờ việc thảo luận trong nhóm nhỏ mà: + Kiến thức của học sinh sẽ bớt chủ quan, phiến diện, tăng tính khách quan, khoa học. + Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm. Tổ chức thảo luận nhóm tiến hành theo các bước sau: + GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm. + Các nhóm tiến hành thảo luận. + Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác lắng nghe, chấp vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến. + GV tổng kết các ý kiến. 2.2. Yêu cầu sư phạm Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau. Cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo luận cho các nhóm. Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo màu sắc, theo biểu tượng, theo giới tính, theo vị trí ngồi,… Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 đến 8 học sinh là tốt nhất bởi lẽ số học sinh này đủ để đảm bảo tất cả các em có thể tham gia tích cực, đảm bảo rằng các em không bao giờ thiếu ý tưởng và không có gì để nói. Sẽ thuận lợi hơn nếu mỗi nhóm chọn một trong những thành viên trong nhóm làm trưởng nhóm. Nhóm trưởng điều khiển dòng thảo luận của nhóm, gọi tên các thành viên lên phát biểu, chuyển sang câu hỏi khác khi thích hợp, đảm bảo rằng mỗi thành viên trong nhóm kể cả những cá nhân nhút nhát, e ngại đều được phát biểu, có cơ hội để đóng góp. Trong một số trường hợp, khi thảo luận nhóm còn có ghi biên bản, ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận để trình bày trước cả lớp. Học sinh cần được luân phiên nhau làm ( nhóm trưởng ) và ( thư ký ) và luân phiên nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận. Kết quả thảo luận có thể trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời, đóng thay, viết hoặc vẽ trên giấy to,…; có thể do một người thay mặt nhóm trình bày, có thể nhiều người trình bày, mỗi người một đoạn nối tiếp nhau,… Trong suốt buổi thảo luận nhóm nhỏ, GV cần chú ý quan sát và lắng nghe ý kiến học sinh. Giáo viên có thể tham gia thảo luận cùng một nhóm. 3. Phương pháp động não 3.1 Phương pháp Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp hiệu quả trong việc nắm bắt thông tin. Phương pháp động não tiến hành theo các bước sau: + Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm. + Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt. + Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp. + Phân loại các ý kiến. + Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng. + Tổng hợp ý kiến học sinh, hỏi xem có thắc mắc hay bổ sung gì không. 3.2. Yêu cầu sư phạm Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kỳ một vấn đề nào, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong cuộc sống thực tế của học sinh. Phương pháp này có thể dùng cho cả câu hỏi có phần kết đóng và kết mở. Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một từ hay một câu thật ngắn. Tất cả mọi ý kiến đều cần được GV hoan nghênh, chấp nhận mà không nên phê phán, nhận định đúng, sai ngay. Cuối giờ thảo luận GV nên nhấn mạnh kết luận này là kết quả của sự tham gia chung của tất cả học sinh. Động não không phải là một phương pháp hoàn chỉnh mà chỉ là sự khởi đầu. Một khi danh sách các câu trả lời đã được hoàn thành, cần phải cho cả lớp dùng danh sách này để xác định xem câu trả lời nào là sai. Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những em nhút nhát, trở nên bạo dạn hơn; các em học được cách trình bày ý kiến của mình biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp trẻ dễ hoà nhập vào cộng động nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt 4. Phương pháp đóng vai 4.1. Phương pháp Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “ làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau phần diễn ấy. Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm như : + Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. + Gây hứng thú và chú ý cho học sinh + Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh . + Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực. + Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. Sử dụng phương pháp đóng vai theo các bước sau: + GV nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống và yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm. + Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. + Các nhóm lên đóng vai. + Lớp thảo luận, nhận xét. Bắt đầu thảo luận về cách ứng xử của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, rồi mở rộng phạm vi thảo luận những vấn đề khái quát hơn hay những vấn đề mà vở diễn chứng minh. + GV kết luận 4.2. Yêu cầu sư phạm Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”, lời thoại Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai. Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề. Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia. Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai. 5. Phương pháp nghiên cứu tình huống (hay nghiên cứu các trường hợp điển hình) 5.1. Phương pháp Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống “ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng casset mà không phải trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản. Tổ chức các bước nghiên cứu tình huống như sau: + Đọc (xem, nghe) tình huống thực tế. + Suy nghĩ về nó (có thể ghi lại một vài nội dung trước khi thảo luận điều đó với người khác). + Đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống (trong tài liệu viết hay từ giáo viên) + Thảo luận tình huống thực tế. + Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế. 5.2. Yêu cầu sư phạm Tình huống có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề. Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như: bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật ...? Vấn đề này có thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề? Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống rộng hơn. 6. Phương pháp trò chơi 6.1. Phương pháp Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của học sinh, nhất là bậc học tiểu học. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho trẻ em vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Qua trò chơi, trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là một phương pháp dạy học quan trọng Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính nhờ sự thể nghiệm này giúp hình thành ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống. Thông qua chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi. Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Trò chơi cũng giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo với học sinh. 6.2. Yêu cầu sư phạm Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề giáo dục, với đặc điểm và trình độ học sinh, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho học sinh. Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi. Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiến tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh. Sau khi chơi, GV cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi. 7. Phương pháp dự án 7.1. Phương pháp Phương pháp dự án được hiểu như là một phương pháp trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết với thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện Phương pháp dự án có 3 đặc điểm cơ bản sau: + Định hướng học sinh: Trong phương pháp dự án, học sinh tham gia tích cực và tự lực vào quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm và sáng tạo của người học. Giáo viên chủ yếu đóng vai trò tư vấn giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của học sinh và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Sử dụng phương pháp này cần chú ý đến hứng thú của học sinh, học sinh được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Hứng thú của các em cũng cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. Trong khi xây dựng và thực hiện dự án còn cần có sự hợp tác làm việc theo nhóm và sự phân công công việc giữa các thành viên của nhóm. Phương pháp dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng hợp tác của học sinh. + Định hướng hoạt động thực tiễn: Phương pháp dự án kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. Chủ đề dự án gắn liền với các vấn đề, tình huống, thực tiễn. Nhiệm vụ dự án cần phù hợp với trình độ và khả năng học sinh. + Định hướng sản phẩm: Trong phương pháp dự án, các sản phẩm được tạo ra theo định hướng sản phẩm. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà còn tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn thực hành. Phương pháp đề án có ưu điểm: Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội Kích thích động cơ, hứng thú học tập của HS Phát huy tính tự lực, tinh thần trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo, rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; kĩ năng hợp tác; năng lực đánh giá. HS có cơ hội rèn luyện nhiều kĩ năng sống quan trọng như: giao tiếp, ra quyết định, giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu … Các bước tiến hành: + Chọn đề tài và xác định của dự án: Giáo viên và học sinh cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích dự án. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học sinh lựa chọn và cụ thế hoá. Trong một số trường hợp, việc đề xuất đề tài có thể từ phía học sinh. + Xây dựng đề cương, kế hoách thực hiện: trong giai đoạn này, học sinh với sự hướng dẫn của giáo viên xây dựng đề cương, kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, cách tiến hành, người phụ trách mỗi công việc … + Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đề ra + Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện, dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo. Sản phẩm dự án cũng có thể là tranh, ảnh, pa-nô, … để triển lãm, cũng có thể là những sản phẩm phi vật thể như: diễn một vở kịch, một cuộc tuyên truyền, vận động thực hiện quy định, chính sách, pháp luật trong cộng đồng, … Sản phẩm dự án có được trình bày giữa các nhóm học sinh, có thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội. + Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện, kết quả và kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo. 7.2. Yêu cầu sư phạm Mục tiêu dự án phải rõ ràng và có tính thực tiễn, tính khả thi. Cần tạo cơ hội để tăng cường sự tham gia của học sinh trong dự án, tuy nhiên phải phù hợp với trình độ và khả năng của các em. III. Các hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học 1. Tích hợp trong các môn học. Tích hợp là sự hoà trộn nội dung giáo dục vào nội dung bộ môn thành một nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau. Cùng với các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm, giáo dục an toàn giao thông,…., nội dung giáo dục kĩ năng sống được tích hợp, lồng ghép vào các môn học ở 3 mức độ: - Tích hợp toàn phần: Khi mục tiêu và nội dung bài học phù hợp hoàn toàn với mục tiêu và nội dung của giáo dục kĩ năng sống. - Tích hợp bộ phận: Khi một phần của bài học thực hiện nội dung giáo dục kĩ năng sống. - Liên hệ: Chỉ khai thác nội dung bài học để liên hệ với nội dung giáo dục kĩ năng sống. Tích hợp giáo dục kĩ năng sống không phải là ghép thêm vào chương trình giáo dục như là một bộ môn riêng biệt hay một chủ đề nghiên cứu mà nó là một hướng hội nhập vào chương trình. Nguyên tắc tích hợp là khai thác và lồng ghép các nội dung giáo dục vào bài học một cách tự nhiên, phù hợp với nội dung bài học. Việc tích hợp làm cho bài học sinh động, gắn với thực tế hơn, không làm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng