Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 luyện tập tu từ so sánh trong v...

Tài liệu Skkn một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 luyện tập tu từ so sánh trong văn miêu tả

.PDF
21
155
152

Mô tả:

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẬU LỘC   Mét sè kinh nghiÖm h-íng dÉn häc sinh líp 5 luyÖn tËp tu tõ so s¸nh trong v¨n miªu t¶ Hä vµ tªn: Hoµng Anh S¬n Chøc vô: Gi¸o viªn §¬n vÞ c«ng t¸c: Tr-êng TiÓu häc Ng- Léc 1 SKKN thuéc m«n: TiÕng ViÖt N¨m häc: 2010 - 2011 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lời mở đầu Ở Tiểu học Tập làm văn là một môn học cơ sở, rất quan trọng trong chương trình dạy học. Để làm một bài văn hay, đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng các kiến thức liên môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học tự nhiên. Vì các kiến thức liên môn này sẽ giúp cho học sinh có được tư liệu để viết bài văn và biết cách sử dụng ngôn từ thế nào để trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch lạc, rõ ràng, sáng ý và hấp dẫn. Thế nhưng, chỉ có những kiến thức liên môn nói trên thì vẫn chưa đủ. Tập làm văn còn là phân môn có tính độc lập, có hệ thống lí thuyết riêng nhằm xây dựng các thể loại như: Văn miêu tả (bao gồm các kiểu bài: miêu tả đồ vật, cây cối, con vật, tả cảnh, tả người), văn kể chuyện, viết thư,... và ở từng loại bài lại đòi hỏi phải rèn luyện để có kỹ năng cần thiết. Một bài văn hay, có giá trị không phải chỉ ở chỗ trình bày mạch lạc, dễ hiểu; mà cái quan trọng hơn là sức truyền cảm. Và sự truyền cảm này có được là do tính chân thực, tính nhân bản, cao hơn nữa là cái "chất văn, hơi văn". Để viết được bài văn hay, các em cần phải rèn luyện sao cho có được năng lực quan sát (để nhận biết được cái đặc trưng của sự vật, hiện tượng) năng lực cảm thụ, năng lực thu thập thông tin, năng lực tưởng tượng - liên tưởng, năng lực phân tích tổng hợp, năng lực linh cảm, đặc biệt là việc vận dụng các biện pháp tu từ vào quá trình làm bài như: phép tu từ so sánh, nhân hoá... và các khả năng biểu đạt, bố cục... Ngay từ lớp 2, học sinh đã được làm quen với thể loại văn miêu tả thông qua việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi. Đến lớp 3, 4, 5 thì nội dung này lại được cụ thể hơn và yêu cầu cũng cao hơn. Bên cạnh đó, ở lớp 3, sách giáo khoa Tiếng Việt đã giới thiệu sơ bộ về phép tu từ so sánh. Ở đây chưa đi sâu về lí thuyết của phép tu từ so sánh mà chỉ hình thành những hiểu biết và kỹ năng ban đầu về so sánh thông qua hệ thống các bài tập thực hành. So sánh được xem là một trong những phương thức tạo hình, gợi cảm gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh, đẹp đẽ cho con người. Qua đó giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của những hình ảnh thơ văn đồng thời giúp học sinh vận 2 dụng phép tu từ so sánh vào quan sát các sự vật, hiện tượng và con người xung quanh các em, từ đó giúp các em thể hiện vào bài văn miêu tả được tốt hơn, sâu sắc và sinh động hơn. Để nâng cao chất lượng bài văn, việc tìm ra các bước hướng dẫn học sinh lớp 5 luyện tập về phép tu từ so sánh trong làm văn miêu tả là rất cần thiết. Nhằm góp phần tháo gỡ những khó khăn của giáo viên và học sinh nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học văn miêu tả ở lớp 5, đã thôi thúc tôi nghiên cứu vấn đề này và đúc rút qua sáng kiến: "Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 sử dụng phép tu từ so sánh trong văn miêu tả". II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 1. Thực trạng Trong thực tế, cả giáo viên và học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc vận dụng phép tu từ so sánh vào dạy và học văn miêu tả. Vì vậy, hiệu quả của việc dạy và học văn miêu tả chưa cao. Học sinh chưa biết trong trường hợp nào nên vận dụng phép tu từ so sánh vào nói, viết đoạn văn, bài văn miêu tả của mình. Nếu có sử dụng hình ảnh so sánh thì cũng là phát hiện của người khác vì thế hành văn của các em chưa tạo được sự mới mẻ, độc đáo, chưa có dấu ấn cá nhân. Tìm hiểu về thực trạng dạy và học văn miêu tả trong trường Tiểu học, tôi phát hiện thấy một số vấn đề sau: 1.1. Về phía giáo viên Qua sinh hoạt chuyên môn, và dự giờ, trao đổi với giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi thấy rằng: Đa số giáo viên đều cho Tập làm văn là khó dạy, đặc biệt là thể loại văn miêu tả, không biết diễn đạt thế nào, lựa chọn hình thức học ra sao để học sinh dễ hiểu. Mặt khác, có thể thấy rằng: những hiểu biết về mặt lí luận của giáo viên về văn miêu tả và phép tu từ so sánh đang còn là một khoảng trống với họ. Vì thế, việc vận dụng vào thực tiễn dạy học còn gặp nhiều khó khăn. Trong quá trình dạy học văn miêu tả, giáo viên chưa khai thác hết các biện pháp dạy học, chưa vận dụng triệt để các biện pháp tu từ so sánh vào quá trình 3 luyện tập thực hành cho học sinh, chưa khai thác tối đa việc cho học sinh được trực tiếp quan sát đối tượng miêu tả. Hình thức dạy học và đồ dùng trực quan còn nghèo nàn nên học sinh không có những hiểu biết, những hình dung cụ thể và rõ nét về đối tượng miêu tả. Bởi vậy, học sinh nói và viết mơ hồ, chung chung, không có sắc thái biểu cảm hay nói cách khác trong mỗi bài làm chưa thể hiện được cái riêng. 1.2. Về phía học sinh Qua dự giờ, thăm lớp đặc biệt là tìm hiểu từ các bài viết của các em học sinh, chúng tôi nhận thấy rằng bài làm của các em còn mang nặng tính công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu tính chân thực. Nó được thể hiện qua các khía cạnh sau: - Vay mượn ý tứ của người khác, thường là một bài mẫu. Nói cách khác học sinh sẵn sàng học thuộc một bài văn mẫu, một câu văn mẫu, khi làm bài các em sao chép ra và biến thành bài làm của mình, không kể đầu bài quy định như thế nào. Với cách làm ấy, các em không cần biết đến đối tượng miêu tả, không quan sát không có cảm xúc gì về chúng. Chấm bài không tinh, thầy cô giáo dễ khen nhầm văn của người khác mà cứ tưởng là văn của học trò mình. Đây là điều không chỉ xảy ra với văn miêu tả mà hầu hết các thể loại văn khác cũng tương tự như thế. - Miêu tả hời hợt, chung chung không có một sắc thái riêng biệt nào của đối tượng được tả... Vì thế, bài làm ấy gán cho đối tượng miêu tả nào cùng loại cũng được. Một bài miêu tả như vậy đọc lên ta cảm thấy nhợt nhạt, mờ mờ. Nguyên nhân chủ yếu là vì các em không được quan sát, không biết cách hồi tưởng kinh nghiệm sống của mình hoặc không biết cách quan sát nên không có những nhận xét cụ thể và tinh tế. 2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên Ngay vào đầu năm học 2010 - 2011, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về học sinh lớp tôi chủ nhiệm với mục đính nắm được thực chất chất lượng. Từ đó tìm ra phương pháp, biện pháp phù hợp để nâng cao chất lượng bài văn miêu tả cho học sinh. 4 Tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng với đề bài: Tả cây bàng ở sân trường em trong thời gian 40 phút. Kết quả khảo sát được thể hiện rõ qua bảng dưới đây: Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm Số HS làm bài 30 Dưới 5 Số lượng 11 Tỉ lệ 36.7 Điểm 5- 6 Số lượng 12 Tỉ lệ 40 Điểm 7- 8 Số lượng 5 Tỉ lệ 16.7 Điểm 9-10 Số lượng 2 Tỉ lệ 6.6 Qua bảng trên, chúng ta dễ nhận thấy chất lượng bài văn của học sinh còn rất thấp, số học sinh đạt điểm khá và giỏi còn rất ít. Trong khi đó, số học sinh đạt điểm yếu còn nhiều. Kết quả trên cho thấy sự cần thiết phải có những biện pháp để nâng cao chất lượng bài văn miêu tả của học sinh. 5 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ 2. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi hình thức dạy học 3. Tìm hiểu nội dung và vai trò của phép tu từ so sánh trong văn miêu tả 4. Hướng dẫn học sinh luyện tập về pháp tu từ so sánh trong văn miêu tả II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Để thực hiện tốt các giải pháp trên cũng như giải quyết vấn đề của đề tài, tôi xây dựng một số biện pháp cụ thể sau đây: 1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ * Tăng cường bồi dưỡng tư tưởng chính trị, tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của người giáo viên. Trước hết tôi phải học tập, nắm bắt, quán triệt các nghị quyết, thông tư, chỉ thị, hướng dẫn nhiệm vụ năm học của nhà trường, của các cấp, các ngành một cách nghiêm túc. * Tăng cường học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Bản thân tôi luôn có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ qua những việc làm như: - Tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn hạn hoặc dài hạn nhằm nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, về trình độ lí luận, tin học, tham gia các đợt tập huấn do Sở hoặc Phòng Giáo dục tổ chức, nhất là các lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, tích cực tiếp thu các chuyên đề do nhà trường, tổ khối triển khai. - Tự học, tự bồi dưỡng một cách thật sự nghiêm túc, thường xuyên nắm bắt chắc chắn về mục tiêu, nội dung, chương trình sách giáo khoa Tiểu học mới và phương pháp dạy học cụ thể của từng môn học, từng bài học. Tham gia thao giảng thường xuyên; tăng cường dự giờ thăm lớp; tham gia sinh hoạt chuyên môn, rút kinh nghiệm các tiết dạy của đồng nghiệp. Tham gia hội thi "Giáo viên giỏi" các cấp. Tích cực nghiên cứu khoa học, đúc rút sáng kiến kinh nghiệm,... - Thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn: dạy đúng theo chuẩn kiến thức, đúng theo kế hoạch giáo dục, phân phối chương trình day học, thời khóa biểu, kế hoạch bài học và qua các hoạt động giáo dục khác. 6 - Bám sát các văn bản chỉ đạo chuyên môn của ngành, của nhà trường, của tổ. Thực hiện xây dựng kế hoạch bài học theo tinh thần đổi mới. 2. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi hình thức dạy học Dạy học theo hướng đổi mới ngoài việc dạy kiến thức và kĩ năng cho học sinh còn dạy các em phương pháp tự học, thông qua các hoạt động học tập phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của học sinh. Bởi vậy trong việc đổi mới phương pháp dạy học; tích cực áp dụng các phương pháp dạy học mới đồng thời phát huy những ưu điểm của giáo dục truyền thống. Trong quá trình dạy học, tôi luôn phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác, tìm tòi sáng tạo của học sinh và giúp các em tham gia học tập một cách tự giác, chủ động và sáng tạo. Giáo viên giữ đúng vai trò chủ đạo của mình trong giảng dạy, là người định hướng giúp đỡ học sinh trong học tập và tuyệt đối không làm thay học sinh. Xây dựng các hình thức học tập cũng vậy, tôi luôn tìm hiểu một cách sâu sắc về vai trò, tác dụng của từng hình thức dạy học cụ thể để có thể áp dụng vào mỗi dạng bài, mỗi đơn vị kiến thức khác nhau của từng môn học sao cho phù hợp, khai thác hết nội dung nhằm đạt triệt để mục tiêu bài học. 3. Tìm hiểu nội dung và vai trò của phép tu từ so sánh trong văn miêu tả Việc tìm hiểu rõ nội dung và vai trò của phép tu trừ so sánh trong văn miêu tả giúp giáo viên chủ động trong quá trình dạy học đặc biệt đó là cơ sở, là nguyên tắc giúp việc xây dựng các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả. So sánh tu từ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng. Nhờ phép so sánh, chúng ta có thể tái hiện lại đối tượng phản ánh làm cho đối tượng miêu tả trở nên cụ thể hơn. Từ đó, có thể biểu lộ những nhận thức sự cảm thụ cũng như gửi gắm những tâm sự rất riêng của mình, giúp cho bài làm có được nét tinh tế, độc đáo và phong cách riêng. Để một bài văn miêu tả có cái mới, có chiều sâu, giàu sức sống thì mỗi học sinh, mỗi người viết phải có được những kĩ năng nhất định. Cùng với kĩ năng 7 quan sát, kĩ năng lập dàn ý, giàu vốn từ thì sử dụng phép tu từ so sánh là một kĩ năng hết sức cần thiết mà người viết nói chung và học sinh nói riêng cần có. Đây là kĩ năng giúp cho học sinh có bài nói bài viết hay không chỉ trong khuôn khổ của bậc học Tiểu học mà nó còn giúp các em nâng cao chất lượng giao tiếp mãi về sau này. 4. Hướng dẫn học sinh luyện tập về phép tu từ so sánh trong văn miêu tả 4.1. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng Trong miêu tả thì quan sát là một trong những bước quan trọng nhất. Kết quả quan sát chính là yếu tố quan trọng để viết nên bài văn. Kết quả của mỗi lần quan sát sẽ làm giàu thêm kho biểu tượng của các em mà mỗi khi cần miêu tả các em sẽ dễ dàng thiết lập được hình ảnh so sánh giữa chi tiết, bộ phận hay sự vật cần miểu tả với hình ảnh có sẵn trong vốn biểu tượng phong phú của mình. Sử dụng phương pháp này nhằm phát huy khả năng ngôn ngữ của học sinh, phát huy trí tưởng tượng phong phú, khả năng sáng tạo tinh tế của các em. Từ thực tế nghiên cứu giảng dạy, tôi thấy những câu văn hay, sống động, giàu hình ảnh là những câu văn được quan sát thực tế một cách tinh tế, tỉ mỉ. Chính vì vậy, tôi luôn chú ý "Tổ chức cho học sinh quan sát". Để làm được điều này, tôi luôn chú ý tạo điều kiện cho học sinh đến tận nơi quan sát đối tượng trước khi miêu tả và coi đó là nguyên tắc khi giảng dạy văn miêu tả của mình. Chỉ trên cơ sở thu nhận trực tiếp các nhận xét, các ấn tượng cảm xúc về sự vật, hiện tượng thì cảm xúc mới nảy sinh, có như thế bài viết mới có cảm xúc thực sự. Khi cho học sinh quan sát thực tế, tôi hướng dẫn các em chọn vị trí như thế nào cho thuân lợi, ghi lại đầy đủ những điều quan sát được từ đối tượng quan sát, phối hợp các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác,...) trong quá trình quan sát. Chẳng hạn, dùng mắt để nhận biết màu sắc (xanh, đỏ, tím, vằng,...) hình dạng (cao thấp, lớn, bé,...) hay hoạt động của đối tượng miêu tả,... Dùng tay để sờ, nắn để cảm nhận cảm giác thật hơn,... Ví dụ: Với đề bài: Tả một cảnh đẹp ở quê hương em. 8 Với đề bài trên, trước tiên, học sinh phải xác định cảnh đẹp mình định tả. Và tôi hướng dẫn các em cách lựa chọn vị trí để quan sát: - Em tả cảnh gì? (cánh đồng lúa,...) - Để tả cánh đồng một cách chi tiết, đầy đủ, bao quát em phải lựa chọn vị trí như thế nào để quan sát? (lựa chọn nơi thấy rõ toàn cảnh cánh đồng nhất) - Nhìn từ xa em thấy những gì? (lúa, rau, kênh mương, người làm việc, đàn cò trắng, trâu, bò,...) - Trên cánh đồng, em tả những gì? (những ruộng lúa, đàn cò, người nông dân làm việc,...) - Để tả được những cảnh đó chi tiết, cụ thể em phải làm gì? (lại gần để quan sát) ... Hướng cho học sinh phối hợp các giác quan trong quá trình quan sát. Ví dụ: Với đề bài Tả cảnh biển, khi hướng dẫn học sinh quán sát cảnh biển, tôi đặt các câu hỏi gợi ý như: - Em cảm giác thế nào khi đón nhận những làn gió từ biển thổi vào?(những làn gió mát lạnh như bàn tay mềm mại luồn vào mái tóc, mơn man trên khuôn mặt,...) - Khi mặt trời lên mặt biển trông như thế nào? (mặt biển sáng lấp lánh như một tấm thảm khổng lồ dệt bằng những sợi kim tuyến,....) - Các em hãy lắng nghe để ghi lại âm thanh từ biển?(tiếng sóng vỗ vào bờ đê ầm ập, gió thổi rì rào, lá cờ trên trụ buồm phần phật bay,... ) ... Việc lựa chọn tốt vị trí quan sát và phối hợp nhiều giác quan trong quá trình quan sát sẽ góp phần giúp học sinh viết được đoạn, bài văn cụ thể, sinh động hơn. Bên cạnh đó, một yêu cầu rất quan trọng nữa cần hướng dẫn các em trong qua trình quan sát đó là: - Lựa chọn trình tự quan sát: + Trình tự không gian: Từ quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại; quan sát từ trái sang phải hay trên xuống dưới hay ngoài vào trong hoặc ngược lại. 9 + Trình tự thời gian: Quan sát tả cảnh vật, cây cối theo mùa trong năm, quan sát theo thời gian trong ngày: buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều. Dù quan sát theo trình tự nào cũng cần tập trung bộ phận chủ yếu và trọng tâm, hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát. Ví dụ: Với đề bài Hãy tả một cơn mưa. Tôi đặt câu hỏi để hướng dẫn các em quan sát một cách có trình tự: - Khi tả một cơn mưa, các em cần quan sát như thế nào? (quan sát khi trời sắp mưa, khi trời mưa và khi cơn mưa tạnh) - Khi trời sắp mưa, em nhìn thấy những gì? (mây đen kéo đến, bầu trời xám xịt, những tia chớp xuất hiện,...) - Lúc mưa em quan sát thấy những gì? (không khí mát lạnh, mưa rơi rào rào,...) - Khi trời tạnh em quan sát thấy những gì? (trời rạng dần, chim chóc bay ra hót râm ran, ánh nắng lấp lánh trên vòm lá,...) - Các em đã sử dụng những giác quan nào trong quá trình quan sát của mình? (thị giác, thính giác, xúc giác,...) Như vậy qua cách đặt câu hỏi trên, tôi đã giúp các em biết quan sát cơn mưa theo trình tự thời gian, cũng như phối hợp nhiều giác quan trong quá trình quan sát. Hay với đề bài Em hãy tả cánh đồng lúa, tôi hướng dẫn các em quan sát như sau: - Em quan sát cánh đồng lúa như thế nào? (từ xa đến gần, từ gần đến xa, từ bao quát đến cụ thể,...) - Nhìn từ xa, em thấy cánh đồng lúa như thế nào? (như một tấm đệm màu xanh mềm mại,...) - Lại gần, cảnh vật trên cánh đồng lúa hiện ra trước mắt em như thế nào? (những mảnh ruộng vuông vắn, những cụm lúa mỡ màng đang rì rào trong gió, những chú cò trắng lúc bay lúc đậu,...) ... Trong lúc quan sát, tôi đặt câu hỏi gợi mở để các có thể phát huy sự hiểu 10 biết, vốn ngôn ngữ, kết hợp khả năng liên tưởng cảm xúc để cho việc quan sát tốt hơn. Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn các em quan sát thông qua các bài tập. Ví dụ: Đề bài: Tả loại trái cây mà em yêu thích - Tiếng Việt 5, tập 2- trang 99. Giáo viên có thể cho học sinh quan sát và điền theo yêu cầu trong bảng sau: Hình dáng:.............................................................................................. Đặc điểm Bên ngoài Bên trong Hình ảnh so sánh Màu sắc Vị Tác dụng ..... Đối với những học sinh yếu, tôi cho học sinh hệ thống câu hỏi gợi ý, các em dựa vào đó để quan sát. Ví dụ: Hãy quan sát quả mà em định tả và cho thầy giáo biết: - Quả đó có hình dáng như thế nào? (tròn, dài, ..) - Quả đó to hay nhỏ? To bằng chừng nào? Bây giờ nó có màu gì? Nó có thay đổi màu sắc khi chín không? Em hãy quan sát thật kĩ bên ngoài quả đó và cho biết: Quả đó có những bộ phận nào? Mỗi bộ phận đó có đặc điểm gì? Nó giống với đồ vật nào,... - Bây giờ em hãy quan sát bên trong và cho thầy biết những đặc điểm bên trong. - Quả này thường được dùng để làm gì? (ăn, làm thuốc, ...) - ... Tóm lại, quan sát giúp cho học sinh có cái nhìn chính xác và sâu sắc hơn về đối tượng tả. Qua đó, các em có thể thể hiện những điều mà các em đã cảm nhận, đã nghĩ bằng vốn ngôn từ nghệ thuật của mình để làm hiện rõ trước mắt người đọc về đối tượng phản ánh một cách chân thực và sinh động nhất. 11 Trong quá trình hướng dẫn học sinh quan sát trực tiếp hoặc thông qua các bài tập ngoài việc giúp các em có được kết qua quan sát tốt, tôi luôn chú ý khắc sâu cách quan sát để sau những lần như vậy các em dần hình thành cho mình khả năng quan sát độc lập. 4.2. Hướng dẫn học sinh liên tưởng, tưởng tượng tới đối tượng miêu tả 4.2.1. Hướng dẫn học sinh biết liên tưởng Liên tưởng có thể có nhiều cách khác nhau. Đó là: + Liên tưởng tương tự; liên tưởng cặp đôi; liên tưởng trái ngược; từ những hình ảnh này liên tưởng đến những hình ảnh khác,... Với mức độ học sinh lớp 5, trước tiên tôi giúp các em hiểu thế nào là liên tưởng: "liên tưởng" là từ chuyện này nghĩ tới chuyện khác, từ chuyện người ngẫm ra chuyện mình. Liên tưởng trong văn miêu tả là từ một câu, một đoạn, một bài văn gợi ra những suy nghĩ, cảm xúc về những gì con người đã sống, đã cảm nhận, đã thấy, đã trải qua. Và quan trọng nhất là việc lấy ví dụ cũng như chỉ ra cái hay của đoạn văn cũng như chỉ rõ hình ảnh, sự vật, sự việc được liên tưởng. Ví dụ: Thấy hình ảnh dê con đang chăm chú kéo xe hàng của mình ở chiếc cặp, cậu học sinh liên tưởng đến chuyện dê con như đang muốn nhắc nhở mình phải thật chăm học. Tôi chỉ rõ cho các em thấy "dê con đang chăm chú kéo xe hàng" là hình ảnh ban đầu đã cho bạn học sinh liêng tưởng đến sự việc "mình phải thật chăm học" Hay từ hình ảnh ban đầu, thực tế "bạn con" cho hình ảnh liên tưởng đến là "con mình" trong câu: "Thấy bạn con đến thăm, người mẹ bật khóc nhớ đến đứa con của mình đã hy sinh". Tôi cũng giúp các em hiểu có nhiều loại liên tưởng khác nhau. Đó là: liên tưởng trái ngược: Ví dụ: Khi miêu tả cảnh biển lúc dịu êm ta có thể liên tưởng đến cảnh biển lúc dữ dội, đáng sợ của những ngày bão tố. Hay liên tưởng tương tự, ví dụ: Khi miêu tả cảnh quê hương hình ảnh cây 12 đa đầu làng được liên tưởng tới hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang trấn giữ, bảo vệ quê hương. Hay từ hình tượng này liên tưởng đến hình tượng khác. Tôi đưa ví dụ: Trong bài Tre Việt Nam (Tiếng Việt 4, tập 1), viết về hình tượng tre Việt Nam với sự ngay thẳng, đoàn kết, chịu khó,... tác giả muốn nói đến, muốn liên tưởng đến hình tượng người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất, chính trực, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ,... Giáo viên phải tích cực trong việc lấy ví dụ cũng như dừng lại ở những câu văn thể hiện sự liên tưởng trong bài tập đọc, đoạn văn mẫu hay trong một bài viết nào đó mà chúng ta thấy hay,... Chỉ khi thầy, cô tỏ ra tâm đắc và dừng lại chỉ ra cái hay, cái ý nghĩa của sự liên tưởng đó thì học sinh mới thật sự chú ý, dần cảm nhận và bắt chước, học làm theo. 4.2.2. Hướng dẫn học sinh tưởng tượng Để các em phát huy được trí tưởng tượng, trước hết, tôi giúp các em hiểu rõ: Tưởng tượng là tạo ra hình ảnh về những cái không có trước mắt hoặc chưa hề có. Lấy các ví dụ cụ thể về hình ảnh tưởng tượng để học sinh hiểu như là: Con người sẽ tạo ra một loại xe mà vừa đi được trên đường vừa có cánh để bay qua rừng núi lại có khi bơi được trên sông hồ như tàu thuyền,... Chính qua những ví dụ này cũng đã góp phần kích thích trí tưởng tượng ở các em. Đồng thời tôi luôn chú ý trính dẫn các ví dụ về tưởng tượng từ các bài tập đọc, những đoạn văn mẫu,... và chỉ ra cái hay, cái đẹp cái giá trị về câu, đoạn văn có hình ảnh tưởng tượng đó. Ví dụ: "Ngày mai Chiếc đập lớn nối liền hai khối núi. Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên." (Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà, Tiếng Việt 5, tập 1) Tôi giúp cho học sinh thấy hình ảnh tưởng tượng của tác giả "Biển nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên" và chỉ cho các em thấy cái hay, cái giá trị của hình ảnh trên. Hay hình ảnh "người khổng lồ đi lạc vào vương quốc của những người tí hon" trong đoạn văn: "...Loanh quanh trong rừng chúng tôi đi vào một lối đầy 13 nấm dại, một thành phố nấm lúp xúp dưới bóng cây thưa. Những chiếc nấm to bằng cái ấm tích, màu sặc sỡ rực lên. Mỗi chiếc nấm là một lâu đài kiến trúc tân kì. Tôi có cảm giác mình là một người khổng lồ đi lạc vào kinh đô của vương quốc những người tí hon. Đền đài, miếu mạo của họ lúp xúp dưới chân..." (Kì diệu rừng xanh - Nguyễn Phan Hách - Tiếng Việt 5, tập 1) đã cuốn hút, hấp dẫn người đọc. Tạo cho người đọc có cảm giác như chính mình là nhân vật trong truyện,... Cùng với việc lấy ví dụ, tôi khuyến khích các em phát huy trí tưởng tượng, tạo tình huống để các em được tưởng tượng. Tôi cho các em nói, viết về sự vật không có trước mắt hoặc không có trong thực tế. Ví dụ: "Em hãy viết một đoạn văn khoảng 5 câu tả về ngoại hình của nhân vật Thủy Tinh trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh." Tóm lại, giáo viên cần chú ý khuyến khích học sinh sử dụng vốn tri thức, kinh nghiệm sống của mình để phát huy trí tưởng tượng và khả năng liên tưởng của mình. 4.3. Hướng dẫn học sinh thiết lập các hình ảnh so sánh Trên cơ sở của việc quan sát, liên tưởng, tưởng tượng tôi hướng dẫn học sinh thiết lập các hình so sánh. Để thực hiện được mục tiêu này, tôi đưa ra các đoạn văn cùng viết về một cảnh nhưng có sự khác nhau đó là có và không có sử dụng phép tu từ so sánh để học sinh nhận xét và thấy được giá trị của phép tu từ này. Ví dụ: Tả một cảnh đẹp ở quê hương em. Tôi đưa ra hai đoạn văn cùng tả về cánh đồng lúa. Đoạn thứ nhất: Cánh đồng lúa làng em rất rộng, nhìn hút tầm mắt mà không hết. Cả cánh đồng phủ một màu xanh. Những thửa ruộng được be bờ cẩn thận. Những chú cò trắng lúc bay, lúc đậu. Đi dạo trên cánh đồng em rất thích, gió mát và thoáng. Đoạn thứ hai: Cánh đồng làng em rất rộng, nhìn hút tầm mắt mà không hết. Cả cánh đồng lúa đang thì con gái được phủ một màu xanh trông như tấm thảm không lồ mềm mại dưới làn gió. Những thửa ruộng được be bờ cẩn thận vuông vức xếp liền nhau thẳng tắp như một chiếc thang lớn được bắc về phía 14 chân trời. Đàn cò trắng nổi bật trên thảm lúa xanh lúc bay, lúc đậu làm cho bức tranh buổi sáng trên cánh đồng thêm sinh động. Đứng giữa cánh đồng hít thở bầu không khí trong trẻo và đón những là gió mát rười rượi của buổi sáng em thấy sảng khoái kì lạ. Tôi cho học sinh đọc hai đoạn văn và đặt câu hỏi để các em nhận xét: - Đoạn văn thứ nhất tả về những gì? (bao quát cánh đồng, từng đám ruộng, cây lúa, đàn cò,...) - Đoạn thứ hai tả về những gì? (Cũng tả như đoạn thứ nhất: cánh đồng, ruộng lúa, cây lúa, đàn cò,...) - Em thấy đoạn văn nào tả hay hơn? (Đoạn thứ hai tả hay hơn) - Vì sao em thấy đoạn văn thứ hai tả hay hơn? (Có sử dụng phép tu từ so sánh) - Em hãy chỉ ra các câu được sử dụng phép tu từ so sánh trong đoạn văn trên. (Cánh đồng... như tấm thảm khổng lồ..., Những mảnh ruộng.....) ... Như vậy, qua cách đưa ra những đoạn văn cụ thể cho học sinh so sánh, đối chiếu và nhận xét, tôi đã giúp các em thấy rõ vai trò, giá trị của phép tu từ so sánh và kích thích, tạo hứng thú sử dụng biện pháp so sánh cho các em khi viết văn miêu tả. Ở mức độ cao hơn, tôi đưa ra một đoạn văn chưa sử dụng phép tu từ so sánh và yêu cầu các em viết lại cho đoạn văn hay hơn bằng cách sử dụng các hình ảnh so sánh. Ví dụ: Tôi đưa đoạn văn tả cảnh biển: Biển quê em rộng lớn bao la. Nước biển quanh năm xanh thẳm. Những ngày giông bão nước biển đục ngầu, sóng cuồn cuộn dâng. Hướng dẫn các em tìm các hình ảnh so sánh để viết lại đoạn văn cho hay hơn. Chẳng hạn: - Biển rộng lớn, bao la,... ta có thể sửa thành: Biển bao la như tình mẹ dành cho những đứa con thơ hay Biển trông như một tấm thảm màu ngọc bích khổng lồ lấp lánh dưới ánh mặt trời,.... 15 - Biển luôn luôn xanh thẳm,... ta sửa thành: Biển trẻ mãi, xanh tươi mãi mãi như những đứa trẻ. - Khi giông bão, biển đục ngầu, sóng cuồn cuộn dâng,.. Ta viết Biển có lúc dữ dội như người khổng lồ nóng nảy quái dị, gọi sấm, gọi chớp,... Tóm lại, trong một bài văn tả, không nhất nhất chỉ sử dụng một dạng so sánh mà có thể kết hợp, tuỳ theo đối tượng cần tả mà sử dụng dạng so sánh này nhiều, dạng so sánh kia ít. Viết thế nào để không những khắc hoạ rõ nét đối tượng được tả mà còn thể hiện tính cách, tâm trạng nhân vật,... và cả tình cảm của mình đối với đối tượng được miêu tả. 4.3 1. Tạo điều kiện để học sinh tích luỹ vốn từ ngữ để miêu tả Trong quá trình dạy học, tôi luôn chú trọng tích lũy vốn từ cho học sinh thông qua tất cả các môn học. Những môn (phân môn) tôi chú ý khai thác nhiều nhất đó là Tập đọc và Luyện từ và câu. Khi dạy Tập đọc, tôi chỉ cho học sinh các từ ngữ miêu tả, chọn một trong những trường hợp đặc sắc nhất để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Ví dụ: Khi dạy bài Mùa thảo quả, hình ảnh : "... Thảo quả chín dần. Dưới đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thỏa quả đỏ chon chót, như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng..." của nhà văn Ma Văn Kháng, Tôi chỉ ra cho học sinh cách tác giả miêu tả cảnh thảo quả chín trở nên sống động. Qua việc phân tích nghệ thuật so sánh và cách dùng từ của nhà văn có thể tạo cho học sinh thêm cảm giác rạo rực, hứng khởi như đang được đứng giữa rừng thảo quả vậy (tựa như đột ngột, bỗng rực lên, như chứa lửa, chứa nắng, lửa hắt lên từ...). Hay khi dạy bài Cây gạo của của nhà văn Vũ Tú Nam: “Cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ,... ánh nến trong xanh”. Tôi chỉ ra cho học sinh thấy tác giả miêu tả cây gạo trở nên sống động, có hồn, có thần và có “tình”. Bởi cách so sánh của ông khiến người đọc hết ngỡ ngàng này lại đến ngỡ ngàng khác. Tác giả còn gắn cây gạo với hình ảnh quê hương; với bến đò (cây đứng im lìm cao lớn, làm tiêu cho những con đò cập bến và cho những đứa con về thăm quê mẹ). 16 Qua các tiết học Luyện từ và câu cũng là một dịp để tôi giúp các em hiểu rõ hơn nghĩa của từ, đồng thời mở rộng chúng khi tìm các từ ngữ cùng nghĩa hoặc trái nghĩa. Ví dụ: Tôi hướng dẫn để các em thấy bên cạnh tính từ gầy nói về hình dạng một con người còn có nhiều từ ngữ khác tương tự: khô đét, xương xẩu, hom hem, lép kẹp. Bên cạnh tính từ đẹp còn hàng loạt tính từ khác: trông dễ mến, xinh xinh, xinh xắn, xinh xẻo, dễ coi,... lượng từ ngữ này giúp các em rất nhiều khi miêu tả các con vật, cây cối, tả người tả cảnh,... 4.3.2. Hướng dẫn học sinh lựa chọn từ ngữ khi miêu tả Có vốn từ ngữ nhưng phải biết dùng chúng đúng lúc, đúng chỗ. Muốn vậy phải coi trọng việc lựa chọn từ ngữ diễn đạt. Mỗi chi tiết khi miêu tả thường chỉ có một từ ngữ, một hình ảnh thích hợp, do đó có tác dụng gợi hình, gợi cảm nhất. Ví dụ: Để tả hình dáng một em bé đang tuổi tập nói, tập đi, học sinh viết "Bé Hà có dáng người béo mập". Trong trường hợp này, tôi đưa ra câu hỏi để các em thấy sử dụng từ "béo mập" là không hay, nên thay bằng từ "bụ bẫm" hay "mập mạp". Hay khi tả về khuôn mặt của bạn, một học sinh viết: "Bạn Thanh Thanh có đôi má bánh đúc" các em tả đúng thực tế, nhưng tả như vậy không hay. Tôi giúp cho các em hiểu và hướng dẫn các em sửa thành "Bạn Thanh Thanh có khuôn mặt bầu bĩnh của chú mèo Đô-rê-mon thông minh",... Cũng là so sánh nhưng rõ ràng cách so sánh thứ hai vừa đúng lại ngộ nghĩnh và đáng yêu hơn, phù hợp với đề bài Tả một người bạn thân của em trong lớp. Để có thể sử dụng được hình ảnh hay, độc đáo, phản ánh được đối tượng đang tả chúng ta cần xác định và tìm hiểu kĩ đối tượng tả là gì? Giáo viên cần hướng dẫn, uốn nắn để các em có thể cân nhắc, lựa chọn hình ảnh so sánh sao cho phù hợp với đối tượng tả. Khuyến khích học sinh sử dụng phép tu từ so sánh trong khi nói và viết đoạn văn miêu tả nhưng không quá lạm dụng làm cho đoạn văn, bài văn trở nên gượng ép. 4.4. Hướng dẫn sử dụng phép tu từ so sánh trong nói, viết văn miêu tả 4.4.1. Hướng dẫn học sinh nói đoạn, bài văn miêu tả 17 Sau khi đã quan sát, lựa chọn từ ngữ khi miêu tả, trước khi viết tôi hướng dẫn học sinh nói. Muốn làm tốt bước này, tôi luôn chú ý để tổ chức giờ học sao cho tự nhiên, gây hứng thú, tạo cho học sinh có nhu cầu nói, nhu cầu giao tiếp. Để giờ làm được như vậy, tôi luôn chú ý một số điểm sau: - Chuẩn bị phần mở đầu sao cho có thể thu hút người nghe hoặc gây tác động kích thích lớp học sôi nổi. Thường thì tôi cho những em bạo dạn, nói tốt để mở đầu,...(làm mẫu). - Tạo không khí sôi nổi, tôn trọng học sinh để kích thích các em nói. - Hướng dẫn học sinh sử dụng lời nói của mình thành câu ngắn gọn, thể hiện ngữ điệu tự nhiên, đời thường khi gặp các câu hỏi, câu cảm,... Chú ý hướng dẫn học sinh nói đúng phong cách và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tránh sử dụng từ ngữ lai căn, sáo rỗng... - Nhắc nhở các em: Nói đúng yêu cầu của đề bài (nội dung súc tích, ý mạch lạc,...), chọn cách nói phù hợp đối tượng (người nghe), phong cách tự nhiên, biết cách điều khiển giọng nói (ngữ điệu, âm sắc, cao độ, cường độ, trường độ,...). Tóm lại, để bài nói của học sinh tốt, cả giáo viên và học sinh phải có sự chuẩn bị tỉ mỉ, công phu,... Cho học sinh luyện tập qua nhiều lần, qua nhiều dạng đề khác nhau. Và cứ sau mỗi bài tập như thế, tôi cùng các em nhận xét, đánh giá để qua đó các em đúc rút kinh nghiệm. 4.4.2. Hướng dẫn học sinh sử dụng hình ảnh so sánh trong miêu tả Trước một đối tượng miêu tả cụ thể, các em đã được giáo viên hướng dẫn qua các bước: Quan sát, liên tưởng, tưởng tượng, lựa chọn hình ảnh so sánh, chọn từ ngữ. Ở bước này, các em vận dụng những hiểu biết đã có ở các bước trên vào bài viết của mình. Đây là một khâu quan trọng học sinh nhớ lại những điều đã quan sát được viết thành đoạn, bài văn hoàn chỉnh sao cho người đọc cảm thấy đã gặp, đã chứng kiến những điều mà các em vừa đem đến cho họ. Ngoài những việc làm trên, tôi lưu ý cách trình bày để bài viết có bố cục đẹp, rõ ràng, hợp lý, lưu ý sử dụng câu chuyển để giữa các đoạn văn có sự móc nối, liền mạch, câu chữ diễn đạt ngắn gọn, súc tích, tránh viết dài dòng, không đúng trọng tâm của đề bài. Đồng thời động viên, uốn nắn, ân cần chỉ bảo phương 18 hướng, khơi gợi vốn hiểu biết, cái nguồn biểu tượng sẵn có để các em hồi tưởng lại,... các em phấn khởi dồn hết tâm trí vào bài làm. Tóm lại: Để học sinh làm văn miêu tả có hiệu quả, tạo được hứng thú với các em cần luyện tập phép tu từ so sánh thông qua việc hướng dẫn cho các em quan sát đối tượng miêu tả, hướng dẫn các em liên tưởng, tưởng tượng, thiết lập các hình ảnh so sánh, tích luỹ vốn từ, lựa chọn từ ngữ miêu tả; và nói viết đoạn văn, bài văn miêu tả. C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết quả nghiên cứu Sau một thời gian áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp Năm, qua các kết quả kiểm tra, đề tài đã thu được một số kết quả nhất định. Học sinh có những chuyển biến rõ rệt trong việc học kiểu bài miêu tả của chương trình Tập làm văn lớp Năm. Dưới đây là kết quả của việc áp dụng các biện pháp trên vào trong quá trình dạy học văn miêu tả ở lớp của tôi - lớp 5B với 30 học sinh. Kết quả bài kiểm tra viết của học sinh trong tháng 03/2011. Đề bài: Tả một người bạn thân ở trường của em. Bảng 2: Kết quả khảo sát tháng 3 Điểm Số HS làm bài Yếu Số lượng 30 0 Trung Bình Tỉ lệ 0 Số lượng 11 Tỉ lệ 36.7 Giỏi Khá Số lượng 12 Tỉ lệ 40 Số lượng 6 Tỉ lệ 20 Kết quả trên đã phản ánh hiệu quả học tập của học sinh trong phân môn tập làm văn nói chung và văn miêu tả nói riêng là khá rõ rệt mặc dù thời gian áp dụng là chưa dài. Số học sinh yếu giảm hẳn trong khi đó số học sinh khá và giỏi 19 đều tăng rõ rệt. Kết quả kên cho thấy việc sử dụng việc luyện tập cho học sinh khả năng sử dụng phép tu từ so sánh vào trong dạy văn miêu tả là có tính khả thi. 1. Bài học kinh nghiệm Đồng thời, bản thân tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau: - Tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi hình thức tổ chức dạy học,... - Trong nhà trường tiểu học, văn miêu tả là một trong những thể loại chủ yếu của chương trình, thông qua văn miêu tả, còn hình thành và rèn luyện cho học sinh một số năng lực cần thiết như: Quan sát, hồi tưởng, tưởng tượng, sáng tạo, cách lựa chọn hình ảnh so sánh,... và đặc biệt là góp phần quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát triển mới quan tâm của các em với thiên nhiên, khơi gợi các em lòng yêu cái đẹp, khả năng phát triển ngôn ngữ. - Việc nắm vững lý thuyết về văn miêu tả và đặc điểm của văn miêu tả cũng như việc hướng dẫn học sinh vận dụng phép tu từ so sánh vào làm các kiểu bài văn miêu tả: cây cối, đồ vật, con vật, con người và tả cảnh là một trong những điều kiện cần thiết đối với giáo viên Tiểu học. Nhằm nâng cao chất lượng bài văn của học sinh, hạn chế tình trạng bài văn của các em sáo rỗng, rập khuôn, máy móc, dựa vào văn mẫu vì vậy bài làm của các em na ná giống nhau. - Để vận dụng các bước hướng dẫn học sinh lớp 5 luyện tập về phép tu từ so sánh trong tập làm văn miêu tả phải đảm bảo một số yêu cầu: Thứ nhất, các bước hướng dẫn phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học. Thứ hai, khi tổ chức hướng dẫn học sinh lớp 5 luyện tập về phép tu từ so sánh trong tập làm văn miêu tả cần thực hiện tốt các yêu cầu: + Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả. + Hướng dẫn học sinh liên tưởng, tưởng tượng đối tượng tả. + Hướng dẫn học sinh thiết lập các hình ảnh so sánh. + Hướng dẫn học sinh nói, viết đoạn văn, bài văn miêu tả có sử dụng phép tu từ so sánh. 2. Kiến nghị, đề xuất - Văn miêu tả trong nhà trường cần được xem xét từ góc độ là một văn bản. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng