Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số thủ thuật giúp trẻ 5 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học...

Tài liệu Skkn một số thủ thuật giúp trẻ 5 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học

.DOC
23
981
85

Mô tả:

I/PHẦN MỘT - PHẦN MỞ ĐẦU I/ 1. Lý do chọn đề tài. Hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một hoạt động không thể thiếu đối với trẻ thơ, nhất là trẻ ở lứa tuổi mầm non. Nó đem lại cho trẻ những hiểu biết đầu tiên về cuộc sống xung quanh, là sự mở cửa cho trẻ thơ đi những bước chập chững đầu tiên vào thế giới các giá trị nghệ thuật phong phú, chứa đựng trong tác phẩm văn học. Là sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người ngay từ thủa ấu thơ, là hành trang cho trẻ trên suốt đường đời, bởi lẽ những hình ảnh được lưu giữ trong thời niên thiếu thường rất khó phai mờ đối với trẻ thơ. Vì thế văn học không chỉ góp phần làm giàu tâm hồn, nâng cao năng lực cảm thụ cái đẹp, mà còn giúp cho trẻ phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu biết và hướng tới một lối sống giàu lòng nhân ái. Vì vậy việc đem tác phẩm văn học đến với trẻ là một việc làm rất quan trọng và cần thiết. Trẻ được tiếp xúc với tác phẩm văn học phải từ dễ đến khó, từ dơn giản đến phức tạp, để từ đó trẻ bộc lộ khả năng cảm thụ văn học của mình. Khả năng cảm thụ đó là sự phát triển trực tiếp của trẻ về các lĩnh vực: Nhận thức – ngôn ngữ - tình cảm xã hội. Tuy nhiên khi đưa tác phẩm đến cho trẻ đòi hỏi người giáo viên phải có sự lựa chọn những tác phẩm hay phù hợp với lứa tuổi, có ý nghĩa giáo dục trẻ để từ đó đưa ra những phương pháp, biện pháp thích hợp nhằm giúp trẻ phát triển tốt khả năng cảm thụ tác phẩm văn học của mình. Qua đây nhằm từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống cho trẻ về những hình tượng tươi sáng, những bức tranh giàu nhạc điệu, những cung bậc cảm xúc trong những câu chuyện, bài thơ. Ở lứa tuổi mầm non trẻ đang học làm người. Vì thế, cần cho trẻ nhận thức được các chuẩn mực đạo đức của con người. Giúp trẻ hiểu được các khái niệm trừu tượng thuộc phạm trù đạo đức như: “Ngoan - hư, tốt - xấu, thiện - ác” quả là một việc làm khó khăn. Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có ý nghĩa rất lớn đối với trẻ, nhưng việc làm thế nào để thu hút trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực thì đây quả là một vấn đề hết sức khó khăn. Cùng với sự thay đổi liên tục của bậc học mầm non đây cũng chính là điều kiện tốt giúp giáo viên lựa chọn các phương pháp dạy học tích cực để thu hút trẻ vào hoạt động một cách tự nguyện, hứng thú, không gò bó. Xuất phát từ thực tế trên tôi nhận thấy văn học có ý nghĩa vô cùng lớn trong công tác giáo dục trẻ mầm non. Đây cũng chính là mục tiêu luôn thôi thúc tôi lựa chọn đề tài “Một số thủ thuật giúp trẻ 5 – 6 tuổi hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học” II/ 2. Mục tiêu, nhiệm vụ chọn đề tài: Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của trẻ về đạo đức, thẩm mỹ, ngôn ngữ. Đối với trẻ mầm non giáo dục đạo đức cần được gắn chặt với giáo dục thẩm mỹ, cần giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội đồng thời phải giáo dục trẻ biết làm theo tấm gương tốt, biết tôn trọng giữ gìn và bảo vệ thiên nhiên. Chức năng thẩm mỹ là chức năng quan trọng của văn học nghệ thuật. Bởi vì, sáng tạo thẩm mỹ trở thành mục tiêu bản chất của văn học nghệ thuật. “Cái đẹp là điều kiện Trang 1 không thể thiếu của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lý” (Biêlinski). Vì vậy cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là điều kiện tốt để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Theo nhà văn V. G.Biêlinski gọi tình cảm thẩm mỹ là cội nguồn của mọi cái đẹp, mọi cái vĩ đại. Những hình tượng tươi sáng của tác phẩm văn học, những bức tranh sinh động giàu nhạc điệu, giàu chất thơ, những từ ngữ sinh động biểu cảm trẻ thơ đều rất thích. Trẻ cảm nhận được cái đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật, ghi nhớ dễ dàng, nhanh chóng những câu chuyện, bài thơ... Từ đó, trẻ có khả năng hiểu, khả năng nghe và sử dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ để thể hiện nhận thức, tình cảm của mình trước cuộc sống. Bên cạnh đó, qua tác phẩm văn học, trẻ còn cảm nhận được cái đẹp trong mối quan hệ giữ người với người. Đó là tình cảm giữa những người thân ruột thịt, tình cảm giữ bạn bè với nhau, học trò với cô giáo, lòng kính yêu lãnh tụ, tình thân thiết quý mến giữa con người với con người. Tác phẩm văn học bên cạnh việc thoả mãn nhu cầu về nhận thức còn là nơi bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ cho trẻ thơ. Trong quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn học, các giác quan của trẻ ngày càng trở nên tinh tế, nhạy bén, các năng lực quan sát, cảm nhận khái quát ngày càng phát triển. Trẻ không những nhận ra cái đẹp, cái hay của tác phẩm mà còn biết khám phá ra cái đẹp, cái hay của thế giới, của cuộc sống. Trẻ dễ dàng nhạy cảm với vẻ đẹp của từng chiếc lá, giọt sương, ánh trăng lung linh huyền dịu, một tia nắng, do đó cũng không bao giờ nguội lạnh, thờ ơ với số phận con người, luôn luôn căm phẫn, đau đớn, xót xa vì cái xấu, cái ác và tha thiết yêu thương, hướng về cái tốt, cái đẹp. Ngoài ra, tiếp xúc với tác phẩm văn học còn là điều kiện để kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo, nuôi dưỡng và phát triển những ước mơ cao đẹp của trẻ thơ. Tiếp xúc với tác phẩm văn học, vốn từ của trẻ được mở rộng. Trẻ được biết cả những từ mới mà trong cuộc sống bình thường trẻ ít hoặc không hề biết và sử dụng. Sở dĩ trẻ được mở rộng vốn từ qua tiếp xúc với tác phẩm văn học là vì: Qua văn học, trẻ luôn được mở rộng nhận thức mà sự mở rộng nhận thức bao giờ cũng gắn chặt với mở rộng vốn từ. Qua tiếp xúc với tác phẩm văn học trẻ còn được rèn luyện khả năng nói đúng câu, diễn đạt mạch lạc, rõ ràng thông qua các hình thức như trả lời câu hỏi của cô, tập kể lại truyện, thơ… Từ đó trẻ học được cách diễn đạt biểu cảm, cách miêu tả, so sánh ngắn ngọn, cách nói câu giàu hình ảnh. Vì vậy việc chọn lựa, việc tổ chức cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm cần được giáo viên quan tâm sao cho tác phẩm văn học phát huy được tối đa tác dụng của nó đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Mục tiêu và nhiệm vụ quang trọng của đề tài này là trẻ hứng thú, tiếp thu bài tốt khi tham gia vào hoạt động. I/ 3. Đối tượng nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi I/ 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Trường đóng trên địa bàn xã vùng khó khăn của Huyện, đời sống kinh tế của nhân dân chủ yếu dựa vào nương rẫy. Toàn xã có 7 dân tộc sinh sống và trên 805 hộ dân sống thưa thớt trên các rẻo đồi. Trình độ dân trí thấp. Chính vì điều đó mà làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc sinh hoạt học tập và vui chơi của trẻ. Là một giáo viên mầm Trang 2 non giảng dạy ở vùng khó khăn điều kiện thực tế như vậy, nên bản thân tôi thiết nghĩ rằng mình phải làm thế nào để đẩy mạnh tinh thần phát huy cái đẹp về đạo đức, tâm hồn vào dạy trẻ xem đó là động lực thúc đẩy góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Dưới hình thức tổ chức làm quen với tác phẩm văn học như trước đây vốn kiến thức của trẻ thu hoạch được trong giờ hoạt động đạt kết quả chưa cao vì các mắt xích kiến thức còn quá lõng lẽo vì vậy mà muốn được thể hiện và quan tâm nên những hình ảnh tươi đẹp, giàu cảm xúc trong các tác phẩm văn học phải thực sự trẻ được khám phá những điều mới lạ về kiến thức cần thiết thì trẻ thoả mãn được nhu cầu tìm hiểu khám phá, vì vậy giáo viên là người giúp trẻ tiếp thu, lĩnh hội tri thức một cách dễ dàng, xúc tích nhất cũng chính là vấn đề quan trọng mà người giáo viên như tôi lưu tâm để dạy trẻ trong lớp tôi chủ nhiệm và những quan niệm đó được tôi biến thành hành động để trình bày trước hội đồng sư phạm nhà trường về sáng kiến của tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến để sáng kiến của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Nghiên cứu vấn đề này là để tìm cách vận dụng phương pháp giáo dục áp dụng vào bài dạy, hướng dẫn trẻ trong lớp tôi chủ nhiệm làm quen với tác phẩm văn học đạt kết quả cao. I/ 5. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu qua các tài liệu tham khảo, bồi dưỡng thường xuyên, phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các giờ hoạt động của trẻ trên lớp để có biện pháp tác động đến đề tài. Về vấn đề lý luận nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề tiếp theo. Nghiên cứu, đánh giá việc sử dụng một số thủ thuật giúp trẻ 5 – 6 tuổi hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. II/PHẦN THỨ HAI - PHẦN NỘI DUNG: II/ 1. Cơ sở lý luận – cơ sở pháp lý: Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ, giúp trẻ cảm nhận về tác phẩm, cảnh đẹp của quê hương, đất nước, hiểu được cuộc sống lao động của con người trong xã hội, nhận ra cái đẹp trong cuộc sống. Văn học giáo dục, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, tính trung thực, lòng nhân ái, sự biết ơn… Văn học còn giáo dục cho trẻ những hình tượng nghệ thuật trong sáng, những từ ngữ ngợi cảm, những bức tranh thiên nhiên phong phú, đầy màu sắc… có tác dụng rất lớn đến tâm hồn trẻ là một bộ phận của văn hoá tinh thần. Chính vì thế là một giáo viên mầm non tôi luôn nghĩ rằng việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có tác dụng góp phần giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ. Thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học đem đến cho trẻ ấn tượng về cái đẹp và những cảm xúc chân thật, những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách con người Việt trong thời đại mới. Đây là những vấn đề quan trọng mà người giáo viên mầm non như tôi luôn lưu tâm. Để thực hiện tốt những nội dung nêu trên tôi xây dựng một số bước cần thực hiện khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học như sau: * Bước 1: Nghiên cứu kỹ nội dung của tác phẩm cần truyền đạt cho trẻ. * Bước 2: Xem tác phẩm cung cấp cho trẻ cần sử dụng thủ thuật và nhóm phương pháp nào là phù hợp Trang 3 * Bước 3: Cách thức sử dụng thủ thuật của các nhóm phương pháp khi tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. * Bước 4: Kết quả đạt được trên trẻ khi giáo viên sử dụng thủ thuật và các nhóm phương pháp phối kết hợp với nhau. * Bước 5: Hướng khắc phục khi sử dụng các thủ thuật và các phương pháp * Bước 6: Kế hoạch thực hiện một số thủ thuật và các nhóm phương pháp cho thời gian tiếp theo trong giờ hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Căn cứ vào Thông tư số 23/2010/TT-BGD&ĐT, ngày 23/7/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về việc ban hành Quy định Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi và Công văn số 481/BGDĐT-GDMN ngày 29/01/2011 của Bộ GD&ĐT về việc hướng dẫn triển khai thực hiện Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi yêu cầu khi cuối độ tuổi mẫu giáo cần đạt được những yêu cầu mà bộ chuẩn đã quy định. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẫm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ nắng sống phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Muốn trẻ em phát triển một cách toàn diện theo và cho việc học tập suốt đời. Như vậy trẻ muốn phát triển toàn diện cần có sự kết hợp trong công tác giáo dục của cả ba môi trường “Gia đình, nhà trường và xã hội” nếu làm được điều này thì chất lượng giáo dục của trẻ ngày một nâng lên. Từ những cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý nêu trên là một giáo viên đứng lớp chịu trách nhiệm trước nhà trường về công tác chăm sóc – giáo dục của trẻ 5 tuổi tôi luôn cố gắng để thực hiện cho có hiệu quả việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ góp phần thực hiện nhiệm chung giáo dục chung của nhà trường. II/ 2. Thực trạng a. Thuận lợi - Khó khăn. - Nhờ vào các đợt bồi dưỡng tập huấn nghiệp vụ và nhiệm vụ cụ thể của từng năm học do nghành giáo dục mầm non huyện nhà tổ chức. - Nhờ vào những buổi dự giờ thao giảng, được sự đóng góp ý của đồng nghiệp nên tôi đã học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm bổ ích phục vụ cho giờ dạy ngày càng tốt hơn. - Được sự quan tâm của ban giám hiệu, phòng giáo dục. - Trường nằm ngày trung tâm của xã, thuận lợi cho việc đưa đón trả trẻ. Cảnh quang nhà trường thoáng mát, sạch đẹp từ đó cung cấp cho trẻ những biểu tượng thể hiện sự hiểu biết của mình về thế giới xung quanh. - Về cơ sở vật chất: Là một trường nằm ở vùng sâu, vùng xa nên về cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa phong phú, chưa hấp dẫn trẻ một lúc chưa có thể tạo ngay môi trường tốt để trẻ học tập mà phải khắc phục và cải biến dần dần. - Về phụ huynh: Một số phụ huynh của học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn phó mặc cho giáo viên. Trang 4 - Về chương trình: Thay đổi liên tục, nên kinh nghiệm trong giảng dạy còn nhiều hạn chế, nên vẫn không tránh khỏi những khó khăn trong công tác giảng dạy đôi lúc tôi vẫn còn bỡ ngỡ chưa tiếp thu chương trình này một cách trọn vẹn lại sang chương trình khác có tính hoàn thiện hơn. - Về đối tượng trẻ: Đa số là con em đồng bào dân tộc thiểu số Ê đê phần đông là lần đầu tiên ra lớp nên quá trình tiếp thu và lĩnh hội kiến thức còn nhiều hạn chế. b. Thành công – hạn chế: Như chúng ta đã biết quá trình phát triển và nhận thức của trẻ mầm non là một quá trình vận động và phát triển lâu dài. Con người sinh ra không phải ai cũng có sẵn trong mình những đam mê văn học mà đòi hỏi phải được học tập và hoạt động ngay từ lúc còn nhỏ thì những khả năng cảm thụ văn học mới được bộc lộ và phát triển một cách toàn vẹn. Tuy nhiên đối với trẻ nhỏ, thì sự kiên trì và khả năng chú ý của chúng chưa tốt nên cũng dễ dẫn đến sự nhàm chán và không hào hứng với hoạt động. Hiểu được những điều đó nên khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi luôn tạo cho trẻ một tâm thế thoải mái, hứng thú vào hoạt động. Vì thế giờ hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đạt kết quả cao. c/ Mặt mạnh – mặt yếu: Ngay từ lúc còn nhỏ trẻ đã được nghe những bài thơ, câu chuyện thấm đượm tình người, thiên nhiên, cỏ cây hoa lá. Lớn lên một chút trẻ được sống trong thế giới kỳ diệu của những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích… những ước mơ của trẻ cứ thế cháp cánh bay xa. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, trẻ luôn có những cảm xúc rất đặc biệt với những tác phẩm văn học ly kì nhiều tình tiết, nó mang lại cảm xúc và ấn tượng mạnh đối với trẻ thôi thúc trẻ tiếp cận và tiến gần với tác phẩm. Tạo điều kiện để trẻ thường xuyên tiếp xúc các tác phẩm văn học để từng bước cung cấp các biểu tượng phong phú về đối tượng bằng cách huy động sự tham gia của các giác quan, các quá trình tâm lý khác nhau, để lĩnh hội các khía cạnh của tác phẩm. Tạo cơ hội để trẻ khám phá tác phẩm qua: Quan đọc kể, nghe, hỏi, và tự diễn đạt nhận thức cảm xúc của mình về tác phẩm. d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học có vai trò rất lớn trong giáo dục đạo đức cho trẻ sẽ hình thành nhiều đức tính tốt như: Tình thân thiết quý mến giữa con người với con người, bạn bè với nhau, lòng kính yêu Bác Hồ… biết phân biệt cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu, biết lắng nghe ý kiến của người lớn, biết nhường nhịn kiên nhẫn và lòng kiên trì, biết đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó hình thành thái độ đúng đắn với công việc ở trẻ. Chính vì vậy trong các giờ hoạt động của trẻ tôi luôn lấy trẻ làm trung tâm luôn gần gũi, trao đổi cùng trẻ để giúp trẻ tháo gỡ những vướng mắc. Ngoài ra giáo viên thường xuyên tiếp xúc trao đổi cùng phụ huynh về quá trình học tập vui chơi của trẻ trên lớp qua đó phụ huynh cùng với giáo viên phối kết hợp để giúp trẻ thực hiện tốt hơn trong các lĩnh vực. Ngoài ra giáo viên làm tốt công tác tham mưu với ban giám hiệu nhà trường tạo điệu kiện thuận lợi cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Trang 5 e/ Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng: Nghiên cứu đề tài Một số thủ thuật giúp trẻ 5 – 6 tuổi hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học từ năm học 2015 – 2016 thông qua các giờ hoạt động như: hoạt động có chủ đích, giờ dạo chơi thăm quan, giờ hoạt động góc, lúc đón trả trẻ… được tôi khảo sát, kiểm tra đánh giá trẻ lớp tôi đạt kết quả như sau: Số trẻ Tích cực, hứng thú trong hoạt động Năm học: 2012 – 2013 28 Tốt 2/28 cháu = 7,14% 28 Khá 3/28 cháu = 10,7% 28 Trung bình 16/28 cháu = 57,14% 28 Yếu 4/28 cháu = 14,2% Từ kết quả trên tôi đưa ra một số biện pháp, giải pháp để thực hiện tại lớp nhằm giúp trẻ hứng thú trong khi làm quen với tác phẩm văn học như sau: 3. Giải pháp, biện pháp: 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: Từ thực trạng và kết quả khảo sát để đưa ra mục tiêu chính của biện pháp, giải pháp là đánh giá việc sử dụng một số thủ thuật giúp trẻ 5 – 6 tuổi hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp: Từ những thực tế ở trên để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen làm quen với tác phẩm văn học bản thân sẽ đưa ra một số biện pháp, giải pháp sau để thực hiện. * Biện pháp thứ nhất : Nắm bắt kịp thời các văn bản của các cấp về chương trình giáo dục mầm non và các phương pháp hướng dẫn cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Những năm đầu khi bắt đầu thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới theo Thông tư số : 17/2009/TT-BGD&ĐT, ngày 25/7/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Chương trình Giáo dục mầm non, lúc bầy giờ các trường mẫu giáo đã bắt đầu thực hiện thí điểm. Đã được tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non mới lúc còn là sinh viên sư phạm song đưa vào thực tế tại lớp của mình là cả một vấn đề không dễ. Ở một điều kiện nhất định trong mấy năm qua là một thuận lợi cho bản thân song tôi luôn tìm hiểu những thay đổi về điều kiện của địa phương, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và thực tế của nhà trường để bản thân thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình. Trong những năm qua khi được tham dự các lớp tập huấn trong thời gian hè do phòng Giáo dục và Đào tạo huyện tổ chức bản thân luôn nắm bắt kịp thời các văn bản về việc điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi trong chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ để đưa vào thực hiện tại đơn vị. Đối với việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đã được bồi dưỡng thường xuyên qua các chuyên đề - nhất là việc lựa chọn tác phẩm văn học, nội dung, phương pháp,…để truyền thụ cho trẻ . Tuy rằng về yêu cầu cần đạt đối với trẻ thì tương tự nhau nhưng về hình thức tổ chức thì có thay đổi bởi thời gian gần đây có đưa lồng ghép chữ viết vào trong khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Trang 6 Chính những lý do nêu trên mà bản thân đã cố gắng nắm bắt kịp thời các văn bản, kế hoạch về những thay đổi của các cấp. Vừa là một giáo viên và là một tổ trưởng chuyên môn khối lá trong những năm qua đã nghiên cứu kỹ nội dung các tài liệu để triển khai trong khối và thực hiện có hiệu quả tại lớp. Với thời gian quy định tại Thông tư số:48/2011/TT-BGD&ĐT, ngày 25 tháng 11 năm 2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về quy định thời gian làm việc của giáo viên mầm non. So với ngày xưa giáo viên chỉ làm 01buổi/ngày, hiện nay phải làm đủ 8h/ngày. Ngoài thời gian gian trực tiếp giảng dạy trên lớp bản thân luôn trau dồi kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ cũng như tin học qua nghiên cứu tài liệu, sách báo, qua thực tiễn nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn công việc của mình. Tìm các câu chuyện có nội dung sinh động, hấp dẫn trên các tạp chí giáo dục mầm non của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục Đăk lăk để đưa vòa truyền thụ cho trẻ. Hiện nay lớp học được trang bị đầy đủ các phương tiện để thực hiện giảng dạy trên máy tính, đối với các câu chuyện khó dùng máy tính để cho trẻ xem truyện theo các bức tranh sáng tạo để gây sự hứng thú cho trẻ. Có được kinh nghiệm đúc rút trong thời gian qua về kết quả của việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tại lớp mình phụ trách, có những trẻ lần đầu đến trường còn ngại giao tiếp với cô và bạn, không giám thể hiện khả năng của mình cho nên việc thu nhận kiến thức từ tác phẩm văn học do cô truyền thụ còn hạn chế. Đặc thù của địa phương có một số trẻ là người đồng bào Dân tộc thiểu số nên khi cô gọi lên kể chuyển trẻ còn chưa dám thể hiện vai, chưa kể được hết nội dung hoặc chưa nói chưa rõ lời…Chính những lý do trên bản thân đã biết cách lựa chọn các nội dung phù hợp để truyền đạt cho trẻ - nhất là việc năm bắt kịp thời các văn bản của cấp trên để truyền thụ làm sao cho hiệu quả đây là một trong những điều kiện để đưa chất lượng của trẻ tại lớp ngày một đi lên. * Biện pháp thứ hai :Lựa chọn tác phẩm văn học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và thực tế của nhà trường để dạy trẻ. Như chúng ta đã biết hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo là hoạt động vui chơi. Thật vậy! trẻ mẫu giáo “học mà chơi – chơi mà học” thông qua hoạt động vui chơi giúp trẻ hình thành nhân cách trong cuộc sống. Thông qua tác phẩm văn học giúp trẻ phát triển toàn diện trên 5 lĩnh vực, người giáo viên phải biết lựa chọn tác phẩm văn học phù phù hợp với độ tuổi và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để dạy trẻ như: Tác phẩm phải ngắn gọn, rõ ràng: Sự ngắn gọn, rõ ràng không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện sâu trong cả câu, từ. Văn xuôi thường thể hiện bằng câu đơn ngắn, ít dùng câu phức hợp. Dạng phổ biến của thơ viết cho trẻ là thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, rất gần gũi với đồng dao, câu ngắn gọn, vui nhộn, trẻ vừa đọc, vừa chơi, dễ thuộc, dễ nhớ. Sử dụng từ ngữ chọn lọc, trong sáng, dễ hiểu, những tác phẩm văn học viết cho trẻ mầm non phải có nhiều từ tượng hình, tượng thanh, nhiều động từ, tính từ, tính từ miêu tả chỉ màu sắc... tạo nên sắc thái vui tươi, kích thích trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ, tác động mạnh đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của trẻ. Ngoài việc lựa chọn về thể loại, độ dài,…của tác phẩm cần phải lựa chọn tác phẩm văn học có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Bởi từ ngày thực hiện chương Trang 7 trình giáo dục mầm non mới đã mở thêm cho chúng ta một hình thức chăm sóc – giáo dục rất hiệu quả đó là việc truyền thụ các nội dung giáo dục trong ngày được tích hợp với nhau làm cho trẻ dễ tiếp thu. Khi lựa chọn các tác phẩm văn học có nội dung giống các môn học khác có trong chủ đề chúng ta sẽ cảm thấy dễ giảng nội dung hơn, làm cho trẻ cảm thấy hăng say hơn khi tìm hiểu, khi các nội dung được tích hợp thì câu hỏi của cô đặt ra đều có nội dung tương đương nhau ví dụ : Đang học chủ đề “gia đình”, khi khám phá khoa học cho trẻ tìm hiểu về “gia đình của bé”, hoạt động tạo hình cũng vẽ về “gia đình của bé”, hoạt động giáo dục âm nhạc cũng hát và vận động múa “cháu yêu bà”, còn đối với văn học kể chuyện về “ba cô gái”…Tất cả các hoạt động trong ngày đã nói về gia đình thì khi lựa chọn tác phẩm văn học cũng phải nói về gia đình của bé. Chính bản thân đã được nắm vững chương trình giáo dục mầm non nên trong cách lựa chọn tác phẩm văn học để dạy trẻ đã cân nhắc rất ký lưỡng, nội dung tác phẩm lúc nào cũng sát với nội dung chủ đề cần truyền đạt cho trẻ. Trong thời gian vừa qua chính vì làm tốt việc lựa chọn tác phẩm văn học để dạy trẻ nên trẻ của lớp ngày càng hăng say hơn trong khi làm quen với tác phẩm văn học. Tại lớp mình phụ trách bản thân đã nhận thấy trẻ hứng thú hơn khi được cô tổ chức hội thi kể chuyện, trẻ đã mạnh dạn hơn khi tập đóng vai nhân vật trong cốt truyện, trả lời câu hỏi rõ ràng hơn và đặc biệt là những trẻ Dân tộc thiểu số nhút nhát đã thay đổi cách phát âm khi kể những câu chuyện khó. Cần chú ý đến đặc điểm riêng của trẻ tại mình phụ trách, đối với trẻ đồng bào Dân tộc thiểu số khả năng diễn đạt còn hạn chế, trẻ hay nói sai dấu và phụ âm đầu cho nên khi lựa chọn các câu chuyện, bài thơ để dạy trẻ thường chú ý đến thể thơ có ít từ láy, tìm những câu chuyện không quá dài và ít nhân vật trong cốt truyện. Những tác phẩm ấy có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của trẻ để trẻ nắm bắt nội dung một cách dễ dàng, làm cho ngày càng hứng thú hơn trong học tập. Điều quan trọng nữa không thể bỏ qua khi lựa chọn tác phẩm văn học để dạy trẻ là phải bám vào mục tiêu cần đạt của độ tuổi để lựa chọn nội dung, phương pháp để truyền thụ cho trẻ, tuyệt đối không được đưa những tác phẩm văn học có nội dung nói về chuyện yêu đương của người lớn, những tác phẩm văn học có nội dung bạo lực…để đưa vào dạy trẻ. Để đưa những nội dung ngắn gọn, lành mạnh trong sáng, dễ hiểu vào cho trẻ nhận hiểu một cách dễ dàng hơn. * Biện pháp thứ ba: Xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng cho bản thân: Trẻ ở lứa tuổi mầm non việc được làm quen với tác phẩm văn học là một vấn đề hết sức quan trọng nhưng việc làm thế nào để thu hút trẻ hứng thú vào hoạt động một cách tự nguyện không gò bó quả là một vấn đề hết sức khó khăn. Chính vì điều này đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực cảm thụ, phân tích, đánh giá tác phẩm văn học. Để làm được điều đó thì đòi hỏi người giáo viên phải tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về mọi mặt. Tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ qua các buổi tập huấn do nghành giáo dục mầm non Huyện nhà tổ chức. Qua các buổi dự giờ thao giảng tại trường và học hỏi chuyên môn từ trường bạn được sự đóng góp ý của đồng nghiệp qua đó rút ra được những kinh nghiệm bổ ích phục vụ cho giờ dạy ngày càng tốt hơn. Luôn tìm tòi học hỏi tiếp thu những kinh nghiệm từ đồng nghiệp, sách báo, qua các phương tiện thông tin đại Trang 8 chúng… để làm giàu vốn kinh nghiệm cho mình là hành trang vững chắc tiếp bước cho người giáo viên. Trong những năm qua với trách nhiệm là một giáo viên đứng lớp vừa là một tổ trưởng chuyên môn khối lá bản thân luôn làm tốt công việc của mình, luôn tự trau dồi kiến thức để nâng cao tay nghề nhằm phục vụ công tác ngày một tốt hơn. Hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học không thể chỉ đơn thuần là việc cô kể chuyện cho trẻ nghe mà cần có sự phối hợp giữa năng khiếu của cô và dụng cụ để phục vụ hoạt động đó, tranh ảnh để minh họa cũng góp phần giúp trẻ cảm thụ tác phẩm sâu sắc hơn, từ đó giúp trẻ hứng thú hơn trong học tập. Làm được điều này mục đích là nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục tại lớp, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương. * Biện pháp thứ tư : Kết hợp hoạt động làm quen tác phẩm văn học với các hoạt động giáo dục khác : Muốn việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có hiệu quả cần kết hợp với các hoạt động giáo dục khác như làm quen với Toán, làm quen với chữ viết, môi trường xung quanh, ….đã trở nên phổ biến trong các hoạt động giáo dục thông qua chương trình giáo dục mầm non. Ví dụ : Hoạt động làm quen với toán, ta có thể sử dụng văn học giúp trẻ làm quen với các con số một cách tự nhiên, nhẹ nhàng thông qua các trò chơi tìm số lượng chữ và gắn số tương ứng, số người tham gia trò chơi…Nếu như có thêm phần kể chuyện cho hoạt động ngoài trời thì các vận động của trẻ sẽ trở nên dễ dàng và giúp trẻ hơn nhiều. Những lúc đó bản thân tôi đã mở những đoạn chuyện trên màn hình ti vi có nội dung hấp dẫn, lôi cuốn trẻ để cho trẻ kể theo. Với các hoạt động ngôn ngữ, âm nhạc có thể làm nền khi cô và trẻ kể chuyện, đọc thơ…Chính vì bản thân đã kết hợp giáo dục tác phẩm văn học với các hoạt động giáo dục khác trong ngày nên chất lượng giáo dục của lớp ngày một nâng cao. * Biện pháp thứ năm: Tổ chức hoạt động giáo dục tác phẩm văn học ngoại khóa : Trong quá trình tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ không chỉ đơn thuần trong tiết học ở lớp mà bản thân tôi còn biết tổ chức cho trẻ hoạt động ngoại khóa như : Hoạt động đọc thơ, kể chuyện ở mọi lúc, mọi nơi trong giờ thể dục sáng, trong buổi hoạt động ngoài trời, hoạt động ở góc thư viện, góc học tập; Tổ chức cho trẻ kể chuyện, đọc thơ sau mỗi chủ đề và vào ngày lễ, hội;… Bởi vì đọc thơ, kể chuyện ở đâu cũng giúp cho trẻ phát triển về tình cảm, hình thành nhân cách con người và trẻ có khả năng cảm thụ được cuộc sống xung quanh mình đang diễn ra, trẻ biết sống tự tin và sáng tạo, biết được cái đẹp, cái xấu... Do vậy bản thân đã tổ chức cho trẻ đọc thơ, kể chuyện ngoại khóa rất nhiều để tinh thần hăng say của trẻ ngày càng được nâng lên. Qua những buổi thi kể chuyện trẻ được trang phục, mặc những bộ quần áo đẹp làm cho bản thân của trẻ cảm thấy mình được sung sướng, thông qua hội thi trẻ được thêm một dịp cũng cố, rèn luyện các kỹ năng của bản thân. Đây cũng là dịp để trẻ được trải nghiệm cảm xúc mới mẻ, tăng cường khả năng cảm thụ các tác phẩm, mở rộng nhận thức cho trẻ. Tổ chức hội thi kể chuyện, đọc thơ Trang 9 còn giúp trẻ tăng thêm sự mạnh dạn, tự tin, trình bày trước người khác cũng như sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm. Với hoạt động này trẻ còn được nghe đọc thơ, kể chuyện qua các phương tiện truyền thông như tivi, băng đĩa, các buổi sinh hoạt nhóm ở mọi lúc, mọi nơi như hoạt động ngoài trời, giờ đón trẻ, giờ trả trẻ để làm quen với câu chuyện mới. Cô giới thiệu cho trẻ biết tên câu chuyện, tên tác giả, dẫn dắt trẻ nghe câu chuyện, bài thơ thông qua đĩa, ti vi với mục đích tập trung sự chú ý của trẻ đến nội dung, khơi gợi trí tưởng tượng và sự hình dung ở trẻ. Sử dụng biện pháp trực quan truyền cảm, cô kể kết hợp làm động tác minh họa trọn vẹn, kể đúng nội dung, kể diễn cảm câu chuyện sẽ thu hút sự chú ý của trẻ tới nhân vật chính trong câu chuyện, tạo cho trẻ tri giác câu chuyện một cách trọn vẹn, gợi lên sự hưởng ứng, cảm xúc, đồng cảm với hình tượng nhân vật, lôi cuốn trẻ vào tâm trạng cảm xúc chung của câu chuyện bởi vì tính truyền cảm diễn xuất ở trẻ phụ thuộc vào cử chỉ điệu bộ của giáo viên. Giáo viên sử dụng biện pháp luyện tập kết hợp với biện pháp dùng lời chỉ dẫn kỹ năng kể chuyện, đọc thơ, tính chất cảm xúc của tác phẩm cho trẻ. Đặc điểm của trẻ mầm non là chưa biết chữ, do đó phương pháp dạy đọc thơ, kể chuyện chung cho các lứa tuổi là dạy “truyền khẩu”. Đối với những tác phẩm ngắn, trẻ đã được làm quen từ trước, trẻ sẽ đọc theo cô liên tục cả bài, không dạy thuộc câu này mới sang câu khác làm gián đoạn tri giác. Dạy trẻ bằng cách cho trẻ đọc theo tự nhiện, để trẻ được thoải mái, không bị ức chế hay căng thẳng giúp các cháu học thuộc tác phẩm. Giáo viên tập cho trẻ bằng cách thể hiện giọng cho phù hợp khi kết hợp điệu bộ để minh họa. Giáo viên vừa đọc thơ vừa bắt nhịp bằng tay để giữ tốc độ đều cho các cháu đọc theo. Trong quá trình dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện cô có thể làm động tác minh họa kết hợp dùng tay đưa sang ngang làm động tác so sánh trực quan. Dạy trẻ phát âm và giải nghĩa từ khó giúp trẻ phân biệt từ đúng trong bài thơ với từ trẻ đọc nhầm kết hợp làm mẫu cách cấu tạo của từ đúng để trẻ bắt chước đặt môi lưỡi cho chính xác. Không nên nói với trẻ là “các con hãy đọc hay hơn nửa nào”. Vì câu nói này trẻ khó hình dung phải thể hiện như thế nào? Cô nên giải thích nêu rõ ý nghĩa của lời ca để trẻ thể hiện đúng phong cách. Trong quá trình học thuộc, cô sửa nếu trẻ đọc sai cần thay đổi hình thức đọc tổ, nhóm luân phiên tiếp để trẻ có dịp nghỉ ngơi, theo dõi, đánh giá hoặc biết hòa nhập đúng lúc với các bạn. Cần thay đổi tư thế ngồi hoặc đứng để trẻ đở mỏi, đở chán kết hợp với làm động tác minh họa nhẹ nhàng. Kỹ năng đọc thơ, kể chuyện được tiến hành không chỉ trong quá trình học thuộc mà cả khi củng cố ôn luyện. Khi đã học thuộc, cần dạy trẻ thể hiện diễn cảm để trẻ có thể biểu diễn dể dàng, hấp hẫn. Để tạo sự nhịp nhàng khi đọc thơ, kể chuyện cho trẻ làm cử chỉ điệu bộ minh họa. Thường xuyên tôi trao đổi với phụ huynh cho trẻ nghe băng đĩa ở nhà các câu chuyện, bài thơ mà trẻ yêu thích, bố mẹ có thể cùng trẻ thể hiện cùng một tác phẩm. Từ đó làm phong phú thêm vốn hiểu biết của trẻ. Trang 10 Ngoài ra cần kết hợp với phụ huynh sưu tầm băng đĩa có liên quan đến đề tài để tạo thêm phong phú trong các hoạt động khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. * Biện pháp thứ sáu: Sử dụng linh hoạt các phương pháp, truyền đạt đúng nội dung khi tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Để trẻ hào hứng, thoải mái và có nhu cầu tham gia vào hoạt động một cách tích cực thì điều đầu tiên người giáo viên phải giúp trẻ nắm được giá trị về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học được làm quen, từ đó nâng cao nhận thức của trẻ về tự nhiên và xã hội, bồi dưỡng cho trẻ những tình cảm lành mạnh, những ước mơ cao đẹp, giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp trong thiên nhiên, trong quan hệ xã hội và vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học. Cung cấp cho trẻ một số biểu tượng ban đầu về các thể loại văn học (Thơ, truyện, truyện cổ tích, đồng dao, ca dao…) làm quen với một số thuật ngữ văn học như (tựa đề, nhân vật…). Thì đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực cảm thụ và phân tích, đánh giá tác phẩm văn học. Giáo viên phải có năng lực nhận ra cái hay, cái đẹp của từng tác phẩm, phải có sự rung cảm thật sự với cái hay cái đẹp. Cô phải là người có năng lực sư phạm cần thiết nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học một cách phù hợp. Cô phải nắm vững phương pháp, nhiệm vụ, biện pháp hình thức tổ chức hoạt động. Có khả năng xử lý các tình huống sư phạm trong quá trình tổ chức, hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Ngoài ra giáo viên gợi cho trẻ những cảm xúc hứng thú khi tiếp xúc tác phẩm tạo ra mối quan hệ tin yêu đồng cảm giữa cô và trẻ. Để giờ học đạt kết quả cao thì các phương pháp và thủ thuật thu hút trẻ vào giờ học đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm. Nhóm phương pháp sử dụng lời nói: Là cách sử dụng giọng đọc lời kể nghệ thuật của giáo viên có kèm theo cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để truyền đạt ý nghĩ, tình cảm, thái độ, tâm trạng của tác giả gửi gắm trong tác phẩm và thái độ, tâm trạng của người đọc đến người nghe, giúp trẻ nhận thức tốt giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Trẻ mầm non chưa biết đọc, trẻ đến lớp với tâm hồn đón đợi hướng về cô giáo. Giáo viên là cầu nối trẻ với tác phẩm. Vì vậy phương pháp này được coi là phương pháp chủ đạo. Đó là sự sáng tạo của cá nhân làm cho tác phẩm văn học vốn là những ký hiệu thẩm mỹ sống dậy, cất tiếng nói. Giáo viên cần sử dụng mọi sắc thái của giọng đọc (kể) diễn cảm cùng với các hình thức biểu hiện khác tạo cho tác phẩm một bức tranh âm thanh tương ứng. Việc sử dụng phương pháp đọc kể diễn cảm có ý nghĩa quan trọng trong việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học. Vì thế cách đọc, cách kể có nghệ thuật của giáo viên góp phần lôi cuốn, gợi hứng cho trẻ. Nhờ có cách trình bày tác phẩm một cách có nghệ thuật, cô giáo giúp trẻ dễn dàng hiểu được nội dung, dễ dàng đi vào tưởng tượng nghệ thuật, giúp trẻ nhìn thấy được các hình tượng, các khung cảnh, các tình tiết và biết đánh giá chúng đúng đắn. Giọng đọc kể của cô còn góp phần giúp trẻ cảm nhận, rung động trước những giá trị nghệ thuật của tác phẩm, khơi gợi ở trẻ những xúc cảm thẩm mỹ tốt đẹp, định hướng nhận thức cho trẻ một cách rõ nét. Để đạt được những mục tiêu trên thì thủ thuật cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Để có thể đọc kể diễn cảm tác phẩm văn Trang 11 học, cần phải có sự nghiên cứu tác phẩm, nắm được giá trị của tác phẩm cũng như tư tưởng tình cảm mà tác giả gửi gắm trong đó. Mặt khác, đây là hoạt động nghệ thuật. Vì vậy cần phải học cách sử dụng thành thạo những thủ thuật sau: Giọng đệu cơ bản, ngữ điệu ngắt giọng, nhịp điệu, cường độ của âm thanh gôn ngữ. Đặc biệt đối với trẻ mầm non việc phối hợp thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ là một thủ thuật hỗ trợ tích cực. Giọng điệu cơ bản là tính chất chung của giọng đọc, giọng kể khi trình bày một tác phẩm văn học nghệ thuật. Đó là nền âm thanh mà trên đó người đọc dựng lên những bức tranh, những sự kiện riêng biệt, những nhân vật tham gia vào những sự kiện đó. Giọng đọc cơ bản này do nội dung và hình thức nghệ thuật của giáo viên xác định. Tuỳ theo tính chất của tác phẩm (chủ đề, nội dung, tư tưởng), tuỳ theo phong cách ngôn ngữ của tác phẩm mà giáo viên định ra giọng điệu cơ bản lúc trình bày. Các loại giọng điệu cơ bản rất phong phú, trang trọng, đầm thắm thiết tha, trầm lắng, vui tươi, dí dỏm, êm nhẹ… Ví dụ: Khi kể cho trẻ nghe câu chuyện “Qủa trứng” điều đầu tiên giáo viên phải xác định được giọng đọc (kể) kết hợp với thủ thuật thu hút trẻ vào hoạt động một cách nhẹ nhàng. Với câu chuyện này tôi sử dụng vỏ một quả trứng vịt chia làm hai nửa, rồi dùng đất nặn một chú Vịt con xinh xắn, ngộ nghĩnh bỏ vào trong vỏ trứng rồi đậy vỏ quả trứng lại với nhau. Khi giới thiệu dẫn dắt vào bài tôi sẽ tạo tình huống lý thú “Nhìn xem, nhìn xem”, “Xem gì, xem gì?” Qủa trứng xuất hiện lắc qua lắn lại rồi nghe một tiếng nổ nhẹ, đồng thời tách hai nữa vỏ quả trứng ra và tôi đặt quả trứng ở vị trí thật phù hợp sao cho tất cả trẻ trong lớp đều quan sát được sự kỳ diệu trong quả trứng, một chú Vịt con ló đầu ra khỏi quả trứng và kêu to Vít, vít, vít. Với thủ thuật gây hứng thú như trên trẻ lớp tôi mắt tròn xoe và chăm chú nhìn theo mỗi cử chỉ, di chuyển của cô và qua đó tôi kết hợp giới thiệu câu chuyện hôm nay trẻ được làm quen. Vào hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe tôi sử dụng thủ thuật đọc (kể) với giọng vui tươi, hồn nhiên pha lẫn chút ngạc nhiên, ngỡ ngàng của một chú vịt con khi chào đời và được nhìn thấy mọi vật xung qanh. Qua đó tôi kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan sinh động hấp dẫn trong quá trình kể chuyện cho trẻ nghe qua đó giúp trẻ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, tái tạo các hình ảnh có trong tác phẩm, giúp trẻ củng cố lại những điều đã được nghe, từ đó khắc sâu các ấn tượng nghệ thuật về tác phẩm cho trẻ. Khi đọc (kể) chuyện cho trẻ nghe giáo viên kết hợp với ánh mắt, nét mặt, cử chỉ điệu bộ phù hợp với nội dung câu chuyện qua đây sẽ tạo được ấn tượng mạnh đối với trẻ. Với quá trình tiết học diễn ra theo trình tự lôgic nhẹ nhàng trẻ lớp tôi rất hứng thú khi tham gia vào giờ hoạt động, kết quả mang lại như tôi mong muốn. Với bài thơ “Hạt gạo làng ta”, giọng điệu cơ bản là giọng trang trọng, thiết tha vì cảm xúc chủ đạo của bài thơ là tình cảm gắn bó với quê hương, là niềm kính trọng và biết ơn sâu sắc với người mẹ tần tảo một nắng hai sương, chịu thương, chịu khó. Với những bài thơ giọng điệu trang trọng, thiết tha, trầm lắng thì quá trình dẫn dắt vào bài đòi hỏi phải nhẹ nhàng và gây được sự chú ý đối với trẻ. Với bài thơ này tôi dẫn dắt bằng cách mở cho trẻ xem hình ảnh một cánh đồng lúa chính vàng qua đó cô kết hợp đặt câu hỏi, khợi gợi trẻ trả lời tiến gần đến nội dung của bài thơ trẻ làm quen trong giờ học ngày hôm nay. Qua hình ảnh cánh đồng lúa chính vàng cho chúng ta biết điều gì? Đây là sản phẩm của nghề nào? Để làm ra được hạt thóc, hạt gạo cung cấp cho bữa ăn hàng ngày thì người nông dân phải trải qua những giai đoạn làm Trang 12 việc như thế nào? Để biết được điều đó mời các con cùng khám phá nội dung bài thơ “Hạt gạo làng ta” của nhà thơ Trần Đăng Khoa nhé. Cô đọc diễn cảm lần một: Với giọng điệu trang trọng, thiết tha vì cảm xúc chủ đạo của bài thơ là tình cảm gắn bó với quê hương, là niềm kính trọng và biết ơn sâu sắc với người mẹ tần tảo một nắng hai sương, chịu thương, chịu khó để làm ra những hạt thóc, hạt gạo phục vụ cho đời sống con người và phục vụ cho chiến trường. Qua đó cô kết hợp giải thích nội dung bài thơ một cách nhẹ nhàng, truyền cảm, giúp trẻ cảm nhận sâu sắc về nội dung của bài thơ. Vì thế khi thể hiện tác phẩm giọng đọc kể chiếm một vị trí rất quan trọng đòi hỏi người giáo viên luôn phải lưu tâm. Ngữ điệu cũng chiếm một phần rất quan trọng trong việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Ngữ điệu là sắc thái thể hiện ý nghĩa và cảm xúc của lời nói. Nói là những sắc thái đa dạng trong giọng đọc kể, biểu lộ những tình cảm và ý nghĩa của người kể, giúp cho việc dựng nên những hình tượng nghệ thuật. Ngữ điệu giúp cho người đọc bày ra trước mắt người nghe ý nghĩa của tác phẩm: Miêu tả các nhân vật, cá tính, tâm hồn, hành động, trình bày thái độ của mình đối với các nhân vật đó. Nhờ ngữ điệu, giáo viên đọc kể tác phẩm còn có thể minh hoạ những hình tượng trong thơ, những cảnh đẹp thiên nhiên, những bối cảnh xuất hiện các sự kiện. Các yếu tố quy định ngữ điệu, hành động, tính cách nhân vật, nội dung miêu tả và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của tác phẩm. Các loại ngữ điệu rất phong phú: Vui, buồn, âu yếm và độc ác, tôn kính và khinh miệt, hoài nghi và khẳng định, hứng khởi, cương nghị và hèn nhát. Ví dụ: Trong chuyện “Ba cô gái” sự lựa chọn ngữ điệu cẩn thận tinh tế. Giọng nói của cô chị cả, chị hai khi nghe tin mẹ ốm được bắt đầu bằng ngữ điệu bình thản, pha chút ngạc nhiên, thể hiện sự thờ ơ, ít tình cảm với người mẹ, mặc dù nội dung câu nói vẫn là thương mẹ. Giọng nói của Sóc con khi nói với cô chị Cả, chị Hai cần phải được thể hiện bằng ngữ điệu cao và gay gắt, ngắt giọng ngắn, biểu lộ thái độ phê phán trước sự thiếu trách nhiệm đối với người mẹ của hai cô chị. Nhưng giọng của Sóc với cô thứ ba lại được thể hiện với ngữ điệu trầm ấm, tình cảm thể hiện sự yêu mến trân trọng trước tình cảm của cô Út. Ngữ điệu thay đổi của Sóc con khi nói với các nhân vật đã góp phần thể hiện một cách rõ nét chủ đề tư tưởng của truyện. Trong việc đọc kể tác phẩm văn học, ngắt giọng là một việc làm cần thiết, ngắt giọng là cách ghỉ, dừng lại giây lát khi đọc kể. Nhưng nó không đơn giản là nghỉ là dừng lại mà ngắt giọng là một phương tiện để bộc lộ tư tưởng của tác phẩm văn học, khi kể chuyện trẻ nghe giáo viên phải chú ý đến một số hình thức gắt giọng: Ngắt giọng lôgic là chỗ dừng lại, nghỉ lại dây lát sau các dấu chấm, dấu phẩy của câu văn. Ngắt giọng lôgic làm cho việc đọc tác phẩm được rõ ràng, mạch lạc. Ngắt giọng tâm lý: Là sự im lặng có tác dụng truyền cảm. Ngắt giọng tâm lý bắt nguồn từ trạng thái tâm hồn người đọc (kể). Nó phản ánh tâm trạng, thái độ và sự am hiểu của người đọc (kể) đối với các chi tiết các tính cách, các hình tượng trong tác phẩm. Ví dụ: Trong truyện “Dê con nhanh trí”, khi kể đến đoạn chó Sói đến nhà Dê con, lần thứ nhất Dê con định ra mở cửa vì nghe đúng câu mẹ dặn. Đây là chi tiết mà trẻ hồi hộp nhất, cho nên lúc đọc (kể) tôi sử dụng ngắt giọng tâm lý sau câu “Nhưng sao nó thấy tiếng ồm ồm chứ không phải là tiếng mẹ” và Dê con quyết định ra điều tra thêm. Sự gắt giọng tâm lý ở đoạn trên có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ đến trẻ. Ngắt giọng Trang 13 tâm lý còn được sử dụng sau khi đọc kể xong một tác phẩm văn học, để bài thơ, câu chuyện còn lắng đọng trong tâm hồn người nghe. Khi sử dụng ngắt giọng tâm lý tác động rất mạnh đến tình cảm của trẻ vì vậy giáo viên cần tránh lạm dụng, vì lạm dụng nhiều sẽ dẫn đến tình trạng làm mất tính sắc bén của ngắt giọng tâm lý, không bảo đảm được tính nhất quán của nội dung tác phẩm. Để trẻ chú ý vào tác phẩm và có ấn tượng sâu sắc về tác phẩm thì thủ thuật ngắt giọng thi ca và cường độ cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Ngắt giọng thi ca: Là chỗ dừng lại ở cuối mỗi câu thơ, có tác dụng giữ vững nhịp điệu là tốc độ nhanh hay chậm của giọng đọc, giọng kể, nhịp điệu là phương tiện hiệu nghiệm của tính truyền cảm nghệ thuật. Sử dụng các sắc thái khác nhau của nhịp điệu sẽ đem đến cho lời đọc kể một sức mạnh đặc biệt, đó là sự sinh động khi thể hiện nội dung tác phẩm. Ví dụ truyện “Tích Chu” khi kể cho trẻ nghe đến đoạn Tích Chu thấy bà hoá thành chim bay đi tìm nước, Tích Chu chạy đi theo gọi bà lại, giọng đọc kể lúc này phải thể hiện nhịp điệu nhanh, gấp gáp thể hiện đúng tâm trạng hoảng hốt ân hận của Tích Chu. Cường độ là độ vang, độ hoàn chỉnh của giọng, là khả năng điều chỉnh giọng làm cho nó có thể tạo ra được các bậc thang chuyển độ vang từ to đến nhỏ, và ngược lại từ nhỏ ra to trong quá trình đọc (kể) nội dung tác phẩm Cường độ giọng phụ thuộc vào nội dung tác phẩm. Dựa vào đặc điểm, tính cách của nhân vật, ta có thể định được cường độ giọng lúc trình bày Ví dụ: Truyện “Chú Dê Đen” Khi đọc đoạn đầu giới thiệu hoàn cảnh, giáo viên đọc (kể) với giọng vừa phải. Đoạn tiếp theo, Dê Trắng gặp Chó Sói, lúc này cường độ giọng đọc phải thay đổi cho phù hợp với tính cách của từng nhân vật. Dê Trắng nhút nhát. Lời nói của Dê Trắng phải thể hiện sự yếu đuối, nhút nhát nên đọc (kể) bằng cường độ nhẹ, độ vang yếu. Chó Sói hống hách, doạ dẫm, nên lời nói của chó Sói thể hiện rõ sự hống hách, đọc (kể) bằng cường độ mạnh, có độ vang. Giống như nhịp điệu, cường độ của giọng là một yếu tố của ngữ điệu giúp cho người giáo viên minh hoạ được rõ nét và sinh động hình tượng các nhân vật, tính cách và hành vi của họ. Khi sử dụng cường độ của giọng tôi luôn chú ý đến số lượng học sinh và địa điểm của lớp học. Số lượng học sinh đông thì tôi sử dụng giọng đọc kể to. Khi thể hiện một tác phẩm thì sự thể hiện nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của người giáo viên cũng chiếm một phần rất quan trọng. Các yếu tố giọng điệu, ngữ điệu, ngắt nhịp, nhịp điệu, cường độ là những thủ thuật ngữ âm giáo viên cần phải sử dụng khi đọc (kể) diễn cảm tác phẩm. Tuy nhiên sức truyền cảm của việc đọc (kể) tác phẩm của giáo viên còn phụ thuộc vào nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. Điều này đặc biệt phù hợp với đặc điểm nhận thức trực quan sinh động của trẻ. Nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của người giáo viên khi đọc (kể) là động tác, cử chỉ và sự thay đổi nét mặt cho phù hợp với sự thay đổi nội dung và sự phát triển của các tình tiết mà người đọc (kể) thể hiện trong quá trình đọc (kể) tác phẩm. Khi đọc kể tác phẩm yêu cầu người giáo viên phải tự nhiên, tạo được sự thoải mái khi thể hiện tác phẩm. Nét mặt ánh mắt vui tươi nếu là tác phẩm có nội dung tươi vui, kết thúc có hậu có tình tiết ngộ nghĩnh. Nét mặt buồn nếu tác phẩm có tính chất bi thương. Sự giao cảm giữa giáo viên người đọc (kể) với trẻ là người nghe chính là thể hiện ở nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ. Những cử chỉ đơn giản chân thực có nội dung sâu sắc sẽ tăng thêm sự biểu cảm cho Trang 14 tác phẩm. Tuy nhiên không thể bộc lộ cử chỉ, điệu bộ tuỳ tiện hoặc máy móc mà phải phù hợp với cảm xúc đọng trong tâm hồn người đọc (kể). Nét mặt, cử chỉ, điệu bộ có thể hỗ trợ cùng giọng đọc (kể) gây ấn tượng mạnh đối với người nghe. Nhưng nếu trong khi dạy giáo viên lạm dụng yếu tố này sẽ làm mất đi độ giao cảm, rung động của người nghe. Đối với trẻ mầm non, nét mặt, cử chỉ không phù hợp sẽ làm cho trẻ bị phân tán bởi những ấn tượng bên ngoài, làm sai lệch nhận thức của trẻ. Trên đây là những thủ thuật cơ bản khi đọc (kể) cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, các yếu tố này đều có liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời, khi sử dụng hợp lý trong quá trình đọc (kể) đạt đến trình độ nghệ thuật, có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ đến người nghe. Nhiệm vụ của giáo viên là phải nắm thật chắc và sử dụng linh hoạt các thủ thuật đó để nâng cao chất lượng những buổi hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Trên cơ sở nắm được các thủ thuật cơ bản của việc đọc (kể) diễn cảm tác phẩm văn học, sau khi đã nghiên cứu tác phẩm, giáo viên đọc (kể) xác định giọng điệu cơ bản, ngữ điệu, nhịp điệu, cường độ, ngắt giọng… có thể đánh giấu trong tác phẩm những chỗ ngắt giọng, tìm nhịp điệu tương ứng với mỗi đoạn, đánh dấu những chỗ thay đổi nhịp điệu, cường độ, những từ ngữ cần nhấn mạnh khi đọc (kể). Trong quá trình đọc (kể) tác phẩm thì người giáo viên phải thuộc và nắm được tác phẩm thì sức thuyết phục giành cho trẻ mới trọn vẹn, chất lượng truyền đạt sẽ nâng cao. Ngoài phương pháp đọc kể diễn cảm thì thủ thuật của phương pháp phân tích giải thích cũng chiếm một vị trí rất quan trọng: Phân tích giải thích là phương pháp dùng lời nói để giảng giải cho trẻ hiểu các từ khó các chi tiết khó tưởng tượng có trong tác phẩm, mô tả trạng thái tâm lý nhân vật, các chi tiết được nêu trong tác phẩm, giảng giải nội dung tác phẩm. Qua đó, khơi dậy, nuôi dưỡng ở trẻ những rung động, xúc cảm thẩm mỹ và khát vọng vươn tới cái đẹp, cái thiện, đồng thời góp phần làm phong phú thêm vốn từ và làm giàu vốn từ sống, vốn từ hiểu biết cho trẻ. Và các thủ thuật giải thích, phân tích, từ khó, chi tiết khó, nội dung tác phẩm. Ví dụ: Câu truyện “Cáo, Thỏ và Gà trống” khi kể đến đoạn “Mùa xuân đến nhà Cáo tan thành nước” cho trẻ nghe tôi giải thích hiện tượng đóng băng và băng tan là chi tiết không gần với đời sống của trẻ. Để giúp trẻ hiểu nội dung tác phẩm một cách chính xác tôi phải giải thích cho trẻ hiểu hiện tượng đóng băng, băng tan là như thế nào. Qua đó giúp trẻ hiểu được nguyên nhân việc Cáo chiếm nhà của Thỏ. Hoặc khi giảng dạy giáo viên cần lưu ý thay thế từ khó bằng từ đồng nghĩa hoặc một cụm từ khác dễ hiểu, trẻ đã quen sử dụng. Với những từ khó nghĩa trìu tượng không có từ đồng nghĩa thay thế có thể giải thích bằng cách đọc đi đọc lại nhiều lần câu hoặc đoạn có từ khó để trẻ cảm nhận ý nghĩa của nội dung câu văn, đoạn văn. Gợi lại những biểu tượng tương ứng với chi tiết khó, từ khó mà trẻ đã được làm quen trước đó. Giáo viên có thể dùng phương pháp trực quan hình ảnh kết hợp với lời nói giải thích các từ khó, các chi tiết khó, giải thích nội dung tác phẩm. Để sử dụng tốt nhóm phương pháp phân tích giải thích yêu cầu người giáo viên phải tuân thủ những bước sau. Trong giờ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, để thu được kết quả cao, giúp trẻ không những hiểu tác phẩm mà còn có ấn tượng sâu sắc về tác phẩm, giáo viên cần sử dụng phương pháp giảng giải kết hợp các phương pháp đàm thoại. Lời bình giảng phải ngắn ngọn, dễ hiểu và hấp dẫn. Giáo viên tiến hành giảng giải về nội Trang 15 dung và nghệ thuật của tác phẩm sau khi đã đọc (kể) tác phẩm cho trẻ nghe. Ví dụ: Sau khi cô đọc mẫu bài thơ từ một đến hai lần cho trẻ nghe, cô tiến hành kết hợp giữa giảng giải và đàm thoại giúp trẻ hiểu nội dung chính của bài thơ, có nghĩa là: Giáo viên đặt câu hỏi để trẻ trả lời theo cảm nhận của mình, sau đó cô giảng giải nhằm củng cố lại cho trẻ hiểu. Dùng phương pháp giảng giải để giảng từ mới, từ khó có thể tiến hành trước hoặc trong khi đọc tác phẩm. Ở đây, giáo viên cần lưu ý không giảng nhiều từ trong một giờ học, không phải bất cứ từ mới từ khó nào cũng giảng. Khả năng cảm thụ tác phẩm văn học của trẻ không thể tự có mà phải trải qua sự tích luỹ tìm tòi. Vì vậy giáo viên cần phải sử dụng đến phương pháp đàm thoại, trao đổi, gợi mở có chủ đích giúp trẻ hiểu giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Đồng thời qua đó còn góp phần rèn luyện cho trẻ một số kỷ năng như: Tập trung nghe , nhớ tác phẩm, suy nghĩ và trả lời theo câu hỏi của cô, tập diễn đạt những rung động, cảm thụ của mình bằng lời nói. Vì văn học là loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng các hình tượng. Việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm, đặt câu hỏi yêu cầu trẻ phát hiện, mô tả lại các hình tượng trong tác phẩm là cách thức trẻ rèn luyện khả năng tự cảm nhận hình tượng văn học. Giáo viên muốn tiến hành đàm thoại tốt, trẻ phải có ấn tượng khi quan sát, nghe kể chuyện (đọc thơ). Nếu thiếu các ấn tượng này và thiếu sự tích luỹ số lượng các mối quan hệ thì không thể tiến hành hệ thống hoá và tổng quát hoá cái đã tri giác được. Khi tiến hành đàm thoại với trẻ giáo viên phải dựa vào đặc điểm tâm lý lứa tuổi của trẻ để xác định nội dung đàm thoại, xác định thời gian kéo dài, xác định câu hỏi cụ thể và nhất là các kết luận trìu tượng đến mức độ nào. Khi tiến hành đàm thoại giáo viên đặt câu hỏi để trẻ nhớ lại các ấn tượng, các kiến thức và tạo ra sự thích thú với đề tài đàm thoại. Khi đàm thoại nên để cho trẻ tự nói theo tư duy, nhưng không được lạc đề. Mỗi câu hỏi nên để từ hai đến ba trẻ trả lời, với những trẻ nhút nhát, ít nói lúc đầu giáo viên nên đặt câu hỏi dễ, sau đó đặt câu hỏi nâng cao dần. Không nên đặt quá nhiều câu hỏi làm trẻ mất tập trung, mệt mỏi. Khi giáo viên đặt câu hỏi đàm thoại phải ngắn ngọn, rõ ràng, dễ hiểu, giúp trẻ dễ dàng nắm bắt nội dung câu hỏi. Câu hỏi phải được sắp xếp theo trình tự, giúp trẻ nắm bắt tác phẩm một cách có hệ thống, qua đó mang lại những bài học đạo đức và định hướng rèn luyện các kỷ năng cho trẻ. Hệ thống câu hỏi đảm bảo lôgic để hướng tới kết luận và phát triển tư duy cho trẻ. Câu hỏi đưa ra để trẻ độc lập suy nghĩ, không gợi ý trước, không đặt những câu hỏi chỉ yêu cầu trẻ trả lời “Có” hoặc “Không”. Căn cứ vào đặc điểm ngôn ngữ, đặc điểm cảm thụ tác phẩm văn học ở mỗi độ tuổi và mục đích yêu cầu cụ thể ở mỗi lần hoạt động để định ra số lượng câu hỏi và nội dung các câu hỏi đàm thoại với trẻ. Khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, phương pháp đàm thoại được sử dụng chủ yếu là các loại: Đàm thoại giới thiệu tác phẩm được tiến hành gắn ngọn trong một vài phút để trẻ tập trung vào giờ hoạt động và đàm thoại hiểu tác phẩm phụ thuộc vào từng lần hoạt động cụ thể. Với tác phẩm đọc kể lần đầu, không chỉ đơn giản là cô đặt câu hỏi, trẻ trả lời, mà khi đàm thoại cô nên đặt câu hỏi kết hợp với giảng giải. Với những tác phẩm trẻ đã biết yêu cầu trẻ nắm vững nội dung tác phẩm, phân biệt được tính cách của các nhân vật qua ngữ điệu giọng, sau khi trẻ trả lời cô cần củng cố lại bằng cách nhắc lại câu trả lời của trẻ một cách chính xác và hoàn hảo hơn. Khi đàm thoại giúp trẻ hiểu nội Trang 16 dung tác phẩm giáo viên nên kết hợp với phương pháp giảng giải, điều này sẽ giúp trẻ hiểu tác phẩm sâu hơn, đầy đủ hơn, đồng thời có tác dụng truyền những cảm xúc đến trẻ. Đồng thời đàm thoại để tái hiện tác phẩm sẽ giúp trẻ nhớ trình tự câu chuyện, bài thơ. Tình tiết nào xẩy ra trước hỏi trước, tình tiết nào xẩy ra sau hỏi sau, không nên sa vào những tình tiết vụn vặt. Đàm thoại tái hiện tác phẩm có thể xen kẽ với việc củng cố những hiểu biết của trẻ về tác phẩm, vì vậy giáo viên yêu cầu trẻ nói có ngữ điệu đối với những câu trả lời về ngôn ngữ của các nhân vật. Một điều quan trọng trong việc sử dụng phương pháp đàm thoại là khi đặt câu hỏi cần dành thời gian cho trẻ suy nghĩ, không được cắt đứt liên tưởng của trẻ khi trẻ đang trả lời. Mà đòi hỏi giáo viên lúc này cần tập trung theo dõi, đánh giá sửa sai cho trẻ về phát âm, dùng từ, đặt câu. Ngoài những nhóm phương pháp và thủ thuật nêu trên thì nhóm phương pháp và thủ thuật của nhóm phương pháp trực quan hình ảnh cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Trong việc sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình làm quen tác phẩm không những giúp trẻ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, tái tạo các hình ảnh có trong tác phẩm mà còn giúp trẻ củng cố lại những điều đã được nghe, đã được biết, từ đó khắc sâu các ấn tượng nghệ thuật cho trẻ. Các thời điểm sử dụng đồ dùng trực quan khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Dùng để giới thiệu bài vì bước giới thiệu bài khi tổ chức hoạt động cho trẻ vô cùng quan trọng. Để gây hứng thú, lôi cuốn sự chú ý của trẻ vào trọng tâm của giờ hoạt động, thì ngay phần mở đầu giáo viên có thể sử dụng một số thủ thuật để gây hứng thú như: Hát, đọc thơ, trò chơi hoặc dẫn dắt theo một cuộc thi… để gây hứng thú và tập trung sự chú ý của trẻ vào hoạt động. Đồ dùng trực quan có tác dụng định hướng nhận thức cho trẻ khi trẻ tham gia vào hoạt động làm quen tác phẩm văn học, không nên lạm dụng mà giảm sức tập trung cảm thụ ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ. Ngoài ra phương pháp trực quan làm mẫu bằng lời, động tác, cử chỉ, điệu bộ được sử dụng để giúp trẻ nghe và bắt chước trong các hoạt động yêu cầu rèn luyện kỷ năng kể lại truyện, đọc thơ diễn cảm và thể hiện cảm xúc của mình về tác phẩm bằng động tác, cử chỉ điệu bộ cho trẻ quan sát và bắt chước. Phương pháp này được áp dụng trong các giờ dạy trẻ kể lại truyện, dạy trẻ đọc thơ diễn cảm, đóng kịch,… Bên cạnh nhóm phương pháp trực quan hình ảnh thì nhóm phương pháp thực hành cũng được giáo viên đặc biệt quan tâm trong giờ trẻ hoạt động. Sử dụng phương pháp thực hành khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là việc giáo viên tổ chức cho trẻ hoạt động văn học nghệ thuật dưới dạng luyện tập, trò chơi. Nhóm phương pháp này bao gồm: Phương pháp luyện tập dạy trẻ đọc thơ diễn cảm, dạy trẻ kể lại chuyện. Phương pháp trò chơi dạy trẻ đóng kịch. Các phương pháp và thủ thuật cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau vì mỗi phương pháp có ưu thế và những hạn chế riêng. Vì vậy giáo viên cần phải xác định nên sử dụng phương pháp nào là chủ yếu khi tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học Cùng với các hình thức và phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm qua giờ học, qua các hoạt động ngoài giờ học, mọi lúc mọi nơi, qua các giờ đón và trả trẻ * Biện pháp thứ bảy: Làm tốt công tác tuyên truyền đến các bậc cha mẹ trẻ và cộng đồng trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ tại lớp. Trang 17 Để giáo viên thuận lợi trong việc sử dụng “Một số thủ thuật giúp trẻ 5 – 6 tuổi học tốt môn làm quen tác phẩm văn học” và trẻ lĩnh hội đầy đủ kiến thức của bộ môn này một cách trọn vẹn. Thì việc giáo viên cần phải làm tốt công tác tuyên truyền đến các bậc cha mẹ trẻ và cộng đồng trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ bởi nhờ muốn giáo dục một con người cần phải có sự kết hợp của cả ba môi trường giáo dục đó là “ Gia đình – nhà trường và xã hội”. Trong những năm qua lớp học luôn nhận được sự quan tâm và ủng hộ nhiệt tình của các bậc cha mẹ trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ. Bằng những kinh nghiệm sẵn có được đúc rút mấy năm qua bản thân luôn làm tốt công tác phối kết hợp với các bậc cha mẹ để cùng nhau thực hiện nhiệm vụ chung, trong thời gian đón, trả trẻ luôn gặp gỡ với phụ huynh để trao đổi với họ về kết quả học tập của trẻ trong ngày, cuối chủ đề. Đưa Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành vào để tuyên truyền với họ về những yêu cầu mà trẻ cần đạt, cùng nhau bàn bạc những vướng mắc trong khi thực hiện hoặc những vấn đề cần thực hiện trong thời gian tới. Bằng góc tuyên truyền tại lớp bản thân đã đưa vào những nội dung khá phong phú để phụ huynh quan tâm và thực hiện, góc tuyên truyền được đặt ở nơi phụ huynh dễ nhìn thấy để họ trao đổi với nhau các nội dung mang tính chất chung cho cả lớp. Ngoài ra còn thông qua các cuộc họp mang tính tuyên truyền như họp buôn, họp phụ huynh của lớp đều đưa ra những vấn đề cần thực hiện đang mắc phải khó khăn về các hoạt động trong ngày trong đó có hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Bởi có một số trẻ con em Dân tộc thiểu số còn nói tiếng Việt chưa rõ nên nhờ phụ huynh về nhà cần giúp đỡ thêm cho trẻ, tập cho trẻ đọc các bài ca dao, đồng dao để trẻ mau nhớ. Ngoài ra cần được sự phối hợp của cha mẹ trong việc sưu tầm các vật liệu phế thải sẵn có để phục vụ cho trẻ vui chơi và học tập. Qua nhiều năm giảng dạy lớp lá tại đơn vị luôn được sự quan tâm giúp đỡ, sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh và cộng đông dân cư nên rất thuận tiện trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục của mình. Với sự tiến bộ của trẻ là những món quà tinh thần trẻ kể lại cho bố mẹ nghe lúc ở nhà, qua đây phụ huynh đã phần nào thấy được sự tiến bộ của con em mình nên từ đó có những sự quan tâm và đóng góp tích cực hơn với các hoạt động của lớp. Không những thế mà phụ huynh còn phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để giúp trẻ ngày càng tiến bộ hơn trong các hoạt động khác nữa. 3.3/ Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: Bên cạnh những thủ thuật, những phương pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen với tác phẩm văn học, thì có một điều không thể thiếu, đó chính là sự khích lệ động viên kịp thời của cô giáo đối với những thành tích trẻ đạt được, hay với những trẻ chưa tập trung thì một lời khích lệ sẽ làm cho trẻ cố gắng hơn nữa trong giờ hoạt động lần sau. Việc nhận xét của giáo viên đối với giờ hoạt động của trẻ cũng rất quan trọng, nó giúp trẻ rút ra được những bài học kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn vào lần sau, cũng như bước đầu hình thành khả năng tiếp cận tác phẩm nghệ thuật trên bản thân trẻ. Biết rõ điều đó trong các giờ làm quen với tác phẩm văn học tôi luôn biết cách động viên khích lệ trẻ đúng lúc và cũng khéo léo nêu ra những hạn chế của trẻ tự thấy thoả mãn ở khả năng bản thân của mình để tiếp tục cố gắng hơn nữa. Bên cạnh đó tôi thường sử dụng những câu hỏi mở để trẻ suy nghĩ trả lời qua giờ hoạt động như: Cháu thích tính cách nhân vật Trang 18 nào? Vì sao cháu thích? Qua câu chuyện này cháu học tập được điều gì? Vì sao? Qua đây hình thành ở trẻ những tiền đề đánh giá, nhận xét. Tuy nhiên việc đánh giá kết quả của quá trình học tập của trẻ cũng cần phải chính xác, phù hợp với cách nhìn, cách nghĩ cũng như cách cảm nhận của trẻ với tác phẩm nghệ thuật. 3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp: Để tạo ra được một số thủ thuật giúp trẻ học tốt môn làm quen với tác phẩm văn học đúng theo nghĩa của nó, đòi hỏi giáo viên phải có một số kỹ năng sư phạm và óc sáng tạo. Thì tiết học mới tạo nên sự hứng thú mạnh mẽ và phải biết lồng ghép các bước lại với nhau thành một chuỗi logic. Đòi hỏi sự tổ chức hoạt động đó của giáo viên cần phải biết nâng cao giá trị mối quan hệ để truyền tải kiến thức một cách trọn vẹn nhất đến với trẻ. 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Với những biện pháp tiến hành như trên kết quả mang lại cho trẻ trong một giờ hoạt động làm quen với tác phẩm văn học đạt được kết quả đáng khích lệ. Cuối học kỳ I trẻ lớp tôi có những chuyển biến rất rõ rệt hầu hết trẻ rất hứng thú trong giờ hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tôi đã khảo sát và thu được kết quả như sau: Số trẻ Trẻ tích cực hứng thú tham gia Năm học 2015 - 2016 vào giờ hoạt động Học kỳ I 28 28 28 28 Tốt Khá Trung bình Yếu 8/28 cháu = 28,5% 7/28 cháu = 25% 11/28 cháu = 39,28% 2/28 cháu = 7,14% 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Với kết quả đạt được như trên cho thấy trẻ lớp tôi đã tích cực và hứng thú tham gia vào giờ hoạt động một cách tự nguyện không còn gò bó, nhút nhát như trước. Mạnh dạn hơn khi trò chuyện cùng cô và trao đổi cùng các bạn về những vấn đề liên quan đến giờ hoạt động. Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học góp phần rèn luyện ngôn ngữ qua đây vốn từ của trẻ được củng cố và mở rộng, ngoài ra văn học còn rèn luyện cho trẻ khả năng nói câu đúng, diễn đạt mạch lạc, rõ ràng thông qua các hình thức như trả lời câu hỏi và tập kể lại chuyện. Từ đó trẻ học được cách diễn đạt biểu cảm, cách miêu tả, so sánh, ngắn gọn, cách nói câu giàu hình ảnh. Tóm lại, cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học là một hình thức tích cực để giáo dục toàn diện cho trẻ. III/ PHẦN THỨ BA - KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 1/ Kết luận: Qua quá trình nghiên cứu cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học với một số thủ thuật như trên kết quả đạt được trong một giờ hoạt động trẻ được tiếp thu trọn vẹn giá Trang 19 trị nghệ thuật mang lại nhiều ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ . Để đạt được kết quả cao trong một giờ hoạt động như vậy đòi hỏi cô giáo phải có kỷ năng sư phạm, sự sáng tạo trong giờ hoạt động phù hợp với nhận thức của trẻ để truyền thụ cho trẻ thì mới nhận được sự thu hút sự chú ý của trẻ. Giáo viên phải biết làm giàu vốn biểu tượng cho trẻ bằng cách cho trẻ nghe nhiều bài thơ, câu chuyện qua giọng đọc kể của cô và băng đĩa từ đó làm giàu vốn biểu tượng cho trẻ. Biết tích hợp lồng ghép nhẹ nhàng chuyên đề vào các hoạt động mọi lúc mọi nơi Luôn tìm tòi học hỏi tiếp thu những kinh nghiệm từ đồng nghiệp, sách báo, qua các phương tiện thông tin đại chúng. Để trẻ tiếp thu môn học tốt hơn thì trước tiên cô giáo phải là người bạn gần gũi của trẻ, kịp thời lắng nghe những ý kiến, giải thích động viên giúp đỡ khi trẻ còn lúng túng Trong quá trình giảng dạy cô phải quan tâm đến khả năng của từng trẻ để có biện pháp bồi dưỡng phù hợp. Ngoài chuyên môn vững cô còn phải thực hiện sự hoà hợp với thế giới của trẻ thơ. Cô hiểu và cùng trẻ thể hiện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, thoải mái và đạt kết quả cao trong giờ học. Thực hiện đề tài này cá nhân tôi xoay quanh một số thủ thuật, phương pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen với tác phẩm văn học. Tôi nghiên cứu ngay từ lớp học của mình, nghiên cứu về trí tuệ, tình cảm của trẻ, về khả năng, năng khiếu của trẻ với những nội dung bài học trong chương trình tôi thấy những gì áp dụng đối với trẻ đều phù hợp, các câu chuyện, bài thơ đều có nội dung phong phú và gần gũi với trẻ. Với kinh nghiệm trên tôi đã áp dụng vào thực tế lớp mình và kết quả mang lại như mong muốn của tôi. 2/ Kiến nghị: Để tiếp tục duy trì kết quả đạt được trong thời gian qua và phát huy hơn nữa trong những năm tới bản thân rất mong nhận được nhiều hơn nữa sự quan tâm của Ban giám hiệu về các trang thiết bị và tài liệu tham khả phục phục vụ cho bộ môn văn học. Đầu tư kinh phí mua máy chiếu cho các lớp để các cô có điều kiện thuận lợi hơn trong việc thực giảng dạy trẻ bằng những bài giảng điện tử. Nhà trường tạo điệu kiện hơn nữa để giáo viên được đi dự giờ học hỏi thêm những kinh nghiệm trọng giảng dạy từ trường bạn. Mở các lớp chuyên đề làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các giờ hoạt động. Để đạt được kết quả như trên bản thân tôi đã không ngừng phấn đấu học hỏi, trau dồi kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu của nghành học. Đòi hỏi người giáo viên phải có phẩm chất năng lực sư phạm cần thiết. Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để xác định yêu cầu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức cho trẻ hoạt động và phải có khả năng xử lý các tình huống sư phạm trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ. Trên đây là những kinh nghiệm thực tế qua các giờ lên lớp bản thân đã thực hiện. Ngoài ra còn là những kết quả sau quá trình đào sâu nghiên cứu tâm lý trẻ. Mong muốn lớn nhất của tôi là làm sao để mỗi tiết học trẻ được vui chơi và thấm vào tâm hồn của trẻ những cảm xúc, ở đó sự sáng tạo đã được bắt nguồn nảy nở. Tuy nhiên vẫn không Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng