Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
PHẦN 1. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
Năm học 2017-2018, tôi được phân công phụ trách lớp Năm với 31 học
sinh. Hầu hết học sinh của lớp tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài
Tập làm văn. Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tôi nhận thấy
học sinh lớp Bốn đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật, nhưng
qua khảo sát chất lượng đầu năm của môn Tiếng Việt với 31 bài tập làm văn
kết quả như sau:
TS
HS
Bài hoàn thành tốt
Bài hoàn thành
Bài chưa hoàn
thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
3
9,67%
21
67,75%
7
22,58%
Từ kết quả trên cho thấy, bài hoàn thành tốt có nhưng tỉ lệ chưa cao, bài
31
hoàn thành khá nhiều, bài chưa hoàn thành cũng có. Điều này cho thấy các
em chưa nắm chắc kiến thức kĩ năng làm văn. Đa số bài chưa đạt yêu cầu là
do:
- Bài văn sơ sài, sử dụng vốn từ còn nghèo nàn.
- Lời văn lủng củng, ý rời rạc chưa nêu bật trọng tâm đề bài.
- Chưa thể hiện tình cảm bản thân khi miêu tả.
- Khi làm văn, các em chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Mô ̣t số em làm theo văn mâu hoă ̣c chỉ viết theo dàn bài mà giáo viên đã
hướng dân lâ ̣p.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm
văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý
nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt
hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp Năm. Từ
lí do trên tôi đã chọn đề tài: “ Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt văn
miêu tả lớp Năm” để nghiên cứu.
PHẦN 2. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT
Từ thực trạng của lớp, tôi nghĩ cần phải đưa ra những giải pháp để giúp
các em học tốt hơn về văn miêu tả. Qua tìm hiểu sách báo, những sáng kiến
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 1
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
các đồng nghiệp thực hiện năm qua, tôi áp dụng vào việc giảng dạy cho các
em nhằm từng bước nâng cao chất lượng làm văn. Những nội dung đó là:
- Hướng dân học sinh lưu ý khi làm từng kiểu bài văn miêu tả.
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả.
- Củng cố kiến thức và rèn kĩ năng viết văn cho học sinh.
- Bộc lộ cảm xúc trong bài văn.
PHẦN 3. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
I. Hướng dẫn học sinh lưu ý khi làm từng kiểu bài văn miêu tả:
1. Đối với kiểu bài tả người:
Tả người cần lưu ý tả được hai mặt: tả ngoại hình (hình dáng bên
ngoài), tả tính tình (đời sống nội tâm). Khi tả, phải biết tập trung vào tả
những đường nét ngoại hình tiêu biểu, những cá tính riêng biệt mà ít thấy
hoặc không thấy được ở người khác. Nếu miêu tả ngoại hình (dáng người,
làn da, mái tóc, đi đứng...) mà không miêu tả nội tâm (thái độ, tư tưởng, suy
nghĩ,...) và hành động của người được miêu tả thì con người hiện lên trong
bài văn sẽ trở nên đơn điệu, vô hồn, cứng nhắc. Vì vậy cần đan xen giữa tả
ngoại hình và tính tình để làm nổi rõ cuộc sống nội tâm, cuộc sống hoạt
động của người được tả.
Ví dụ: Trong bài “Bà Tôi”- Tiếng Việt 5- Tập I có đoạn:
“ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai
vai, xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm
trên tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày.
Giọng bà trầm bổng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào trí nhớ
tôi dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống.
Khi bà mỉm cười, hai con ngươi đen sâm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả,...”
Tác giả đã quan sát tả khi bà cười với ánh mắt dịu hiền (tả tính tình).
2. Đối với kiểu bài tả cảnh sinh hoạt:
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 2
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
Trọng tâm của bài văn tả cảnh sinh hoạt là nói tới hoạt động của con
người, hoạt động của con người luôn gắn liền với thời gian và không gian.
Vì vậy khi tả cảnh sinh hoạt của con người cần tả trong thời gian và không
gian cụ thể; có như vậy bài văn mới phản ánh đúng đắn cảnh thực và mối
quan hệ giữa người với người, giữa người với cảnh trong cuộc sống thường
ngày.
Ví dụ: Đoạn văn tả trình tự không gian:
“ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền,
những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc
bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam
Quốc Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”
Ví dụ: Đoạn văn trong bài “Mùa thảo quả” Tiếng Việt 5- Tập I lại tả
theo trình tự thời gian:
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào
hương thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những
hạt thảo quả gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người.
Một năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh
sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
Bên cạnh đó, giáo viên cần hướng dân và rèn luyện cho học sinh kĩ
năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...) để
quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ: Phân tích bài “Mưa rào” Tiếng Việt 5- Tập I ta thấy tác giả đã
quan sát bằng các giác quan như sau:
- Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa
rơi.
- Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
- Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những
trận mưa đầu mùa.
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 3
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
- Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng
hót của chào mào.
II. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả:
Ở lớp năm, học sinh được học Tập làm văn miêu tả theo những đề
bài cho trước với những yêu cầu nhất định. Tìm hiểu đề là kĩ năng đầu tiên
mà học sinh phải tiến hành trong quá trình làm bài. Ở đây giáo viên cần giúp
học sinh biết cách xác định yêu cầu của đề, tránh được sự lúng túng trong
quá trình triển khai bài viết, dân đến viết xa đề, lạc đề.
Để giúp học sinh thực sự thuần thục kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả,
cần chú ý hướng dân các em một số thao tác sau đây khi tìm hiểu đề.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp Năm như sau:
Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rây).
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
- Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
- Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm
từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
- Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công
viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như
đề bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài
này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của
bài viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
Việc thực hiện các thao tác trên trong quá trình tìm hiểu đề sẽ giúp
học sinh có hiểu biết đầy đủ về đề văn miêu tả, từ đó có hứng thú hơn khi
viết bài văn và phát huy cao nhất khả năng sáng tạo trong bài văn.
III. Củng cố kiến thức và rèn kĩ năng viết văn cho học sinh.
1. Về kiến thức
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 4
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
Muốn bài văn hoàn chỉnh, đúng yêu cầu đề bài, trước hết chúng ta
trang bị cho học sinh những kiến thức ở mức độ đơn giản về cấu tạo của hai
kiểu bài văn miêu tả: tả người và tả cảnh. Đây là kiến thức rất cần thiết với
học sinh, đó chính là chỗ dựa, là điểm tựa giúp các em có cơ sở làm đúng,
làm tốt bài văn miêu tả.
Ngoài ra, để làm tốt bài văn miêu tả, học sinh cần phải huy động vốn
hiểu biết về sự vật, con người và bằng ngôn ngữ miêu tả của riêng mình để
dựng lại sự vật con người đó. Vì vậy giáo viên cần phải xây dựng hệ thống
câu hỏi, bài tập để hướng dân các em hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức
cơ bản về văn miêu tả. Có như thế, các em sẽ hiểu bài một cách tự nhiên dễ
dàng và tự rút ra những điểm cần ghi nhớ cho bản thân.
Ví dụ: Khi dạy bài:“ Cấu tạo của bài văn tả cảnh” tôi cho học sinh ghi
nhớ lại bài “ Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối” đã học ở lớp 4 (tuần 22 TV4tập 2), vì cách tả ở hai bài này có những điểm gần gũi. Sau đó, tôi yêu cầu
các em nhắc lại kiến thức ở phần ghi nhớ bài “Cấu tạo bài văn tả cây cối”.
Nội dung ghi nhớ này chính là cơ sở để các em thuận lợi học kiến thức mới.
Tôi hướng dân các em thực hiện từng bài tập.
Ở bài tập, sau khi phân đoạn bài văn “Hoàng hôn trên sông Hương” và
xác định nội dung của từng đoạn, có thể yêu cầu các em thực hiện thêm hai
nhiệm vụ để chuẩn bị cho bài tập 2:
+ Dựa vào cấu tạo bài văn miêu tả cây cối để xác định ba phần: mở bài,
thân bài, kết bài và tìm nội dung chính từng phần của bài văn tả cảnh
“Hoàng hôn trên sông Hương”( TV5- tập 1).
+ Xác định cách tả, thứ tự tả ở phần thân bài.
Với bài tập 2 tôi dân dắt học sinh nhớ lại cách tả, trình tự tả bài “Quang
cảnh làng mạc ngày mùa” (tả màu vàng của các sự vật, con vật, màu đỏ của
mấy quả ớt…, tả con người thời tiết trong những ngày mùa, tả lần lượt từng
sự vật đối tượng).
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 5
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
Từ kết quả của bài tập 1 và bài tập 2, từ ghi nhớ về cấu tạo bài văn tả cây
cối đã học được nhắc lại, học sinh rút ra được cấu tạo bài văn tả cảnh. Sau
đó tôi cho các em so sánh cấu tạo của bài văn tả cảnh với bài văn tả cây cối
để nắm vững bài và thấy được sự gần gũi về cấu tạo, cách tả ở thân bài của
hai bài văn này.
2. Về kĩ năng:
Trong phân môn tập làm văn, kĩ năng viết văn miêu tả có thể chia thành
các nhóm sau:
- Nhóm kĩ năng giúp học sinh tiếp cận, chuẩn bị cho việc sản sinh ra văn
bản gồm có kĩ năng phân tích đề bài, kĩ năng tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng
xây dựng dàn ý trong bài văn miêu tả.
- Nhóm kĩ năng viết văn miêu tả gồm các kĩ năng: dùng từ đặt câu, viết
đoạn, liên kết đoạn văn thành bài văn.
- Nhóm kĩ năng kiểm tra kết quả (được dùng trong giai đoạn kiểm tra kết
quả bài làm của học sinh) gồm các kĩ năng sau: kĩ năng phát hiện lỗi, từ lỗi
về cách dùng từ, lỗi chính tả, lỗi đặt câu đến lỗi viết văn bản, lỗi về nội
dung, cảm xúc… được thể hiện rõ nét trong bài làm của học sinh.
Thông qua việc luyện tập các nội dung này, học sinh biết cách tạo lập
một văn bản miêu tả hoàn chỉnh theo từng công đoạn một cách chắc chắn.
Trong đó giáo viên tập trung rèn luyện kĩ năng viết đoạn miêu tả cho học
sinh như đoạn mở bài, đoạn kết bài, các đoạn trong phần thân bài.
a. Hướng dẫn học sinh viết phần mở bài:
Mở bài là một phần trong bố cục của bài văn miêu tả. Phần mở bài có
nhiệm vụ giới thiệu nội dung sẽ nói đến yêu cầu của đề bài, hướng vào đề
văn, cần giới thiệu ngắn gọn, cụ thể về đối tượng được miêu tả. Nếu một bài
văn có phần mở bài hay sẽ gây ấn tượng rất lớn cho người đọc.
Có nhiều cách mở bài khác nhau nhưng tùy theo đối tượng và cảm
hứng của mỗi người. Sau đây là một số cách mở bài thường gặp.
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 6
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
+ Mở bài trực tiếp: giới thiệu ngay người hay sự vật định tả một
cách cụ thể rõ ràng. Với cách mở bài này giáo viên nên khuyến khích học
sinh có khả năng học văn ở mức hoàn thành vận dụng để viết.
Ví dụ: Em có rất nhiều anh chị em nhưng người mà em yêu quý nhất là
bé Lan, năm nay mới hai tuổi.
+ Mở bài theo kiểu gián tiếp: là nói chuyện khác có liên quan rồi
mới tìm ra cái cớ để dân vào chuyện hay đối tượng định tả một cách sinh
động và hấp dân.
Ví dụ: Hằng ngày em được tiếp xúc với rất nhiều người, mỗi người đều
mang một hình dáng và tính cách khác nhau. Ai cũng để lại trong em những
ấn tượng khác nhau khi giao tiếp. Nhưng đó là những người em không thân
thiết lắm nên không thể vỗ về, động viên và chăm sóc em hằng ngày được.
Chỉ có mẹ là người vĩ đại nhất, mẹ luôn yêu quý em.
Với cách mở bài này giáo viên nên khuyến khích học sinh có năng
khiếu vận dụng để viết bài, giúp các em nâng dần khả năng viết văn, phát
triển tâm hồn văn.
+ Mở bài theo cách bộc lộ cảm xúc: là nêu cảm xúc nổi bật; bộc lộ
tình cảm chân thành, yêu mến... hoặc ngược lại của bản thân người viết về
đối tượng được miêu tả.
Ví dụ: Đường ơi! Đường có nhận ra em không? Em là “ Tí con” đây mà.
Hôm nay, sau mấy tháng hè về thăm ngoại, em lại được đặt đôi bàn chân
nhỏ lên mặt đường mát rượi, thân thương.
b. Hướng dẫn học sinh viết phần thân bài:
Thân bài là phần chính của bài văn nên phần này gồm nhiều đoạn
văn và chứa đựng nhiều ý nghĩa quan trọng nhất. Phần thân bài tập trung
miêu tả những nét nổi bật, riêng biệt nhất của đối tượng. Các ý phải được
sắp xếp theo trình tự hợp lí để đối tượng được miêu tả hiện lên rõ nét, sinh
động và biểu cảm.
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 7
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
Điều quan trọng ở phần thân bài là phải biết diễn tả liền mạch suy
nghĩ, cảm xúc của người viết, trong sáng trong tình cảm, sắp xếp các ý
thành những đoạn văn mạch lạc. Mỗi đoạn văn nên tập trung nêu bật, làm rõ
một dụng ý miêu tả. Có thể đó là một ý về không gian, thời gian hoặc một ý
về đặc điểm của đối tượng được tách riêng ra để miêu tả... Không nên sáp
nhập tất cả các ý trong phần thân bài thành một hoặc hai đoạn văn. Do vậy,
trong văn miêu tả, học sinh thường được hướng dân quan sát, miêu tả những
trình tự hợp lí như sau:
- Miêu tả theo trình tự thời gian: Là cách quan sát sự vật, hiện tượng
theo diễn tiến của thời gian từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, từ mùa này sang
mùa khác, từ tháng này sang tháng khác,...Cái gì xảy ra trước (có trước) thì
miêu tả trước, cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình tự này thường
được vận dụng trong bài văn miêu tả cảnh vật, hiện tượng tự nhiên (tả cảnh)
hay tả cảnh sinh hoạt của con người.
- Miêu tả theo trình tự không gian: Là từ quan sát toàn bộ (cái
chung) đến quan sát từng bộ phận (cái riêng) hoặc ngược lại. Tả từ xa đến
gần, từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trái sang phải,... hoặc ngược
lại. Trình tự này thường được vận dụng khi miêu tả loài vật, cảnh vật, đồ
vật, cây cối nói chung.
- Miêu tả từng đặc điểm của đối tượng: Mỗi sự vật, hiện tượng
thường chứa đựng những đặc điểm riêng biệt, vì thế khi miêu tả thấy đặc
điểm gì nổi bật nhất, thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân thì
tập trung quan sát trước, tả trước; các bộ phận khác quan sát sau, tả sau.
Nhưng cũng không nhất thiết phải miêu tả tất cả các đặc điểm của đối
tượng. Trình tự này thường được vận dụng khi tả người.
Trong phần thân bài những ý tưởng viết ra cần phải chân thật, đúng
với những điều mình thấy và cảm nhận được từ đối tượng. Điều quan trọng
là các em phải biết chọn lọc những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc để đưa vào đó
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 8
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
thì bài văn mới nổi bật được trọng tâm, thoát khỏi bệnh khuôn sao, máy
móc. Tránh viết một cách mông lung, dễ lạc đề.
Ví dụ: Khi tả hình dáng cô giáo thì trọng tâm là những nét đặc sắc về
hình dáng của cô, không nên chăm chú tả kĩ những đồ dùng cô mang như:
giỏ sách, đôi dép,...
Giáo viên nên giúp các em chọn lọc những chi tiết đặc sắc để đưa
vào bài văn.
Ví dụ:
+ Tả bố đang đọc báo thì chọn chi tiết: tư thế ngồi (nằm) mắt
chăm chú vào tờ báo…
Hoặc: + Tả một cơn mưa thì tả cảnh nổi bật: bầu trời trước khi mưa,
trong mưa: âm thanh những hạt mưa. Sau mưa: cảnh vật được giội rửa…
+ Tả một dòng sông quê em vào buổi sáng: mặt sông đón những
tia nắng ấm áp, các phương tiện trên sông, cảnh hai bên bờ sông…
+ Tả đường làng vào buổi chiều: hoàng hôn buông xuống, không
khí dễ chịu, trên đường làng các bác nông dân đi làm đồng về…
Sau khi tìm được các ý, giáo viên hướng dân các em sắp xếp các ý để
viết thành bài văn tránh liệt kê chi tiết khi tả và hạn chế tả mà như kể bằng
cách giúp các em diễn đạt có sử dụng biện pháp nghệ thuật để bài văn trở
nên sinh động, hấp dân người đọc.
Ví dụ: Khi tả về cô gồm các chi tiết: ngoài ba mươi tuổi, dong dỏng cao,
mặt tròn, trắng, tóc đen, dài, giản dị, hiền lành.
- Giáo viên hướng dân học sinh phát triển các ý thành câu văn: “Cô em
ngoài ba mươi tuổi. Người dong dỏng cao. Mặt cô tròn và trắng. Tóc cô đen
và dài. Tính cô rất giản dị và hiền lành.
- Giáo viên có thể hướng dân học sinh sửa câu văn cho hay kết hợp sử
dụng biện pháp nghệ thuật để phát triển thành đoạn văn logic, sinh động
hơn: “Cô em ngoài ba mươi tuổi. Người dong dỏng cao, mặt cô hơi tròn và
trắng nên trông rất phúc hậu. Chính cái làn da ấy càng tôn thêm vẻ đẹp mái
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 9
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
tóc dài thướt tha và đen nhánh của cô. Hàng ngày đến lớp cô chỉ mặc chiếc
áo dài trắng. Ít khi thấy cô nổi giận với chúng em. Mỗi khi chúng em làm
bài sai, cô thường mỉm cười tha thứ và chỉ dân cặn kẽ từng li, từng tí."
c. Hướng dẫn học sinh viết phần kết bài:
Kết bài là nhiệm vụ khép lại nội dung miêu tả và phát biểu cảm nghĩ
của người viết. Tùy theo đối tượng được miêu tả, tùy theo nội dung đã triển
khai, đã viết trong phần thân bài mà phần kết bài có thể viết theo kiểu đánh
giá lợi ích của đối tượng được miêu tả hoặc theo kiểu phát biểu những suy
nghĩ hay bộc lộ những tình cảm của bản thân đối với đối tượng được miêu
tả.
Khi hướng dân học sinh viết kết bài nên lưu ý học sinh cần viết ngắn
gọn, nêu cảm nghĩ sát đề một cách tự nhiên, cố gắng để lại ấn tượng trong
lòng người đọc.
Có nhiều kiểu kết bài, nhưng thông thường ta hay sử dụng một số kết
bài sau:
+ Kết bài không mở rộng: cho biết kết cục, không bình luận thêm.
Ví dụ: Tuy bà đã đi xa nhưng hình ảnh bà vân luôn đọng mãi trong tâm
trí em.
+ Kết bài mở rộng: sau khi cho biết kết cục, có lời bình luận thêm,
suy rộng ra các vấn đề khác.
Ví dụ: Em rất yêu quê em, dù đi đâu và làm gì em cũng không bao giờ
quên hình bóng quê nhà. Em hứa sẽ cố gắng học tập thật tốt để thành tài sau
này trở về xây dựng quê hương thật giàu đẹp.
+ Kết bài theo kiểu phát biểu cảm nghĩ về đối tượng: căn cứ vào yêu
cầu của đề bài và đối tượng được miêu tả để bộc lộ cảm xúc chân thành,
lòng yêu thương tha thiết, biết ơn, mến phục, hoặc ngược lại về đối tượng
được miêu tả.
Ví dụ: Mẹ ơi! Con yêu mẹ lắm! Khi lớn lên nhất định con sẽ đi nhiều nơi
và gặp gỡ nhiều người nhưng con không bao giờ quên được hình ảnh mẹ tần
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 10
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
tảo nắng mưa, thức khuya dậy sớm để lo cho chúng con. Nhờ mẹ mà con đã
có được như ngày hôm nay và trở thành một con ngoan, trò giỏi.
VI. Bộc lộ cảm xúc trong bài văn:
Bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc
không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu từng
đoạn của bài văn. Vì vậy, giáo viên nên gợi ý cho học sinh một cách cụ thể
trong từng bài.
Ví dụ: Sống với bà, em cảm thấy như thế nào? (Bà gần gũi, chăm sóc
em chu đáo như một bà tiên hiền hậu; muốn mình làm điều gì đó cho bà đỡ
vất vả).
- Được bà chăm sóc hằng ngày, em nghĩ gì? (Tình cảm gần gũi thương
yêu của bà như chắp cánh cho tôi vững bước trong cuộc đời).
- Dọn dẹp lớp xong, em có cảm giác gì?( Lớp học sạch sẽ, thật mát mẻ).
- Giờ ra chơi kết thúc, trên khuôn mặt của mọi người thể hiện điều gì?
( Khuôn mặt ai cũng vui vẻ, rạng rỡ, nhưng nhiều bạn tỏ vẻ luyến tiếc).
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm
xúc, nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kì. Bài văn của học sinh
hạn chế được nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc, mà thấm đượm cảm xúc
của người viết.
PHẦN 4. KẾT QUẢ
Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào việc giảng dạy phân môn
Tập làm văn, đến cuối học kì I các em đã nắm được một số vốn kiến thức
nhất định để học có hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích
môn học, không sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài
làm của các em đa số đã có tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố
cục chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết câu văn trôi chảy, mạch lạc, bước đầu
có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các
bài Tập làm văn của mình. Các em cảm thụ được bài văn, đọc bài trôi chảy,
hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin khi đến tiết học Tập làm văn.
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 11
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
Với kết quả trên, thế là chẳng phụ lòng, đến nay kết quả làm bài đã đạt
được như điều tôi mong muốn: không còn bài chưa hoàn thành. Cụ thể:
TS
HS
31
Bài hoàn thành tốt
Bài hoàn thành
Bài chưa hoàn
thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
6
19,35%
25
80,65%
0
0
Từ những kết quả đạt được nêu trên, tôi thấy dạy học phân môn Tập
làm văn ở lớp Năm không những chỉ giúp cho học sinh biết vận dụng các
kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, mà còn giúp các em phát triển tư
duy, có khả năng sáng tạo trong viết câu, viết đoạn văn hoặc viết bài Tập
làm văn hay đạt kết quả. Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau
khi áp dụng đề tài này thật đáng phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình
phấn đấu của cô và trò. Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã
góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp
và của tổ chuyên môn.
PHẦN 5. KẾT LUẬN
1. Tóm lược giải pháp
Quá trình thực hiện các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết
các phần mở bài, thân bài, kết bài, học sinh được mở rộng hiểu biết về cuộc
sống theo các chủ điểm đã học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn
trong bài văn miêu tả, quan sát đối tượng… góp phần phát triển kĩ năng
phân tích tổng hợp, phân loại của học sinh. Tư duy hình tượng của trẻ được
rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp nghệ thuật khi tả cảnh và tả người.
Học văn miêu tả, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con
người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn miêu tả điển hình. Khi phân
tích đề văn miêu tả, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ
được định hướng trong các đề bài. Khi quan sát đối tượng miêu tả học sinh
được rèn luyện cách nhìn đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa con người
với thiên nhiên. Những cơ hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với
thiên nhiên, con người và sự vật xung quanh của trẻ nảy nở, tâm hồn tình
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 12
Ñeà taøi saùng kieán kinh nghieäm
Lôùp 5
cảm của trẻ thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình
thành nhân cách tốt đẹp của trẻ nói chung và các bài văn miêu tả nói riêng.
Ngoài ra Tập làm văn còn là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo
cao. Cho nên mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của
các em, chúng ta phải tôn trọng nó, giúp đỡ để mỗi ngày có được nhiều học
sinh giỏi văn.
Như vậy, muốn trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng về
tiếng mẹ đẻ, tạo cho các em nắm được công cụ giao tiếp và tư duy thì bản
thân mỗi giáo viên phải chú ý thực hiện đúng những yêu cầu đề ra của môn
Tiếng Việt nói chung, đặc biệt là phân môn Tập làm văn nhằm trau dồi
những kiến thức cảm thụ và làm văn hay. Đồng thời không ngừng phát huy,
tìm tòi, vận dụng phương pháp giảng dạy sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
2. Phạm vi đối tượng áp dụng:
Đây là những vấn đề mà bản thân đã đúc kết trong quá trình giảng dạy
phân môn Tập làm văn. Trên thực tế trong quá trình giảng dạy người giáo
viên nào cũng có những kinh nghiệm, bí quyết nghề nghiệp riêng, nhằm
mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi mong rằng đây
cũng là cơ sở để giáo viên nghiên cứu sâu hơn và rộng hơn nữa, không riêng
gì ở lớp Năm mà có thể áp dụng cho bậc Tiểu học. Bản thân đã vận dụng
các biện pháp này với các đối tượng đang giảng dạy tại lớp của mình chủ
nhiệm, kết quả đã tạo sự chuyển biến rõ nét của học sinh trong năm học.
Ngöôøi thöïc hieän: Luïc Thò AÙ Muùi
Trang 13
- Xem thêm -