Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------A - PHẦN MỞ ĐẦU
I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong mọi thời đại, nhân tài luôn là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc, là kho báu khai thác không bao giờ cạn của nhân loại... Từ xưa ông cha
ta đã khẳng định “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, sự vững mạnh của một
quốc gia có hay không, nhiều hay ít đầu tiên phải nói đến yếu tố nhân “tài”.
Theo quan điểm có tính kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc thì “Thiên tài
là 80% trí thông minh cộng với 20% là mồ hôi và nước mắt” nhưng số người
sinh ra mang trong mình một trí thông minh, một tài năng kiệt xuất chiếm tỉ lệ
rất nhỏ trong số những con người thông minh và tài năng. Vì thế, ta có thể
khẳng định nhân tài do sự khổ luyện mà có và nhà trường là cái nôi đầu tiên phát
hiện, nâng đỡ, bồi dưỡng những tài năng, những nhân tài của đất nước. Sự ươm
mầm, khổ luyện để phát triển nhân tài ấy trong thời đại nào cũng phải gắn với
nhà trường, với môi trường giáo dục lành mạnh, với người thầy, người cô đáng
kính, tận tụy ngày đêm hun đúc, chăm lo cho thế hệ trẻ vì một ngày mai tươi
sáng hơn.
Chúng ta đang sống và làm việc trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, thời đại của khoa học công nghệ thông tin và hội nhập... và chúng ta cũng
từng ngày chứng kiến sự thay đổi, phát triển liên tục, không ngừng của đất nước.
Vấn đề cấp thiết đặt ra là giáo dục đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ
người có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng
tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm
việc hiệu quả trong môi trường toàn cầu hoá vừa hợp tác vừa cạnh tranh để có
thể đáp ứng được những sự thay đổi đó.
So với yêu cầu phát triển của đất nước và thời kỳ mới, chất lượng giáo dục
của ta còn thấp. Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình
độ đào tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
1
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------nhưng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và còn thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội
dung, phương pháp dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục lành
mạnh và thuận lợi, giúp người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức,
phát triển kỹ năng và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống.
Có thể nói, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đã trở thành một vấn đề
được toàn xã hội quan tâm. Để đánh giá chất lượng dạy và học ở các trường phổ
thông, một trong những tiêu trí được ngành giáo dục đặc biệt coi trọng đó là số
lượng và chất lượng học sinh giỏi hằng năm của nhà trường. Chính vì vậy, bên
cạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục đại trà thì việc phát hiện, tuyển chọn và
bồi dưỡng học sinh giỏi đang được là mối quan tâm hàng đầu trong hệ thống giáo
dục phổ thông trong đó có bậc học Trung học cơ sở.
Với những lý do trên, là một cán bộ chuyên môn bậc Trung học cơ sở Phòng Giáo dục và Đào tạo, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu về thực trạng và
tìm ra giải pháp chỉ đạo công tác phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi
trường Trung học cơ sở làm đề tài nghiên cứu với mong muốn có thể áp dụng để
nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn của huyện nhà.
II - PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
1. Phạm vi nghiên cứu.
Phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở 15 trường Trung học cơ sở thuộc
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu quản lý.
2. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu giải pháp chỉ đạo việc phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học
sinh giỏi.
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
2
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------III - MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra các giải pháp chỉ đạo công tác phát hiện và
bồi dưỡng học sinh giỏi ở 15 trường Trung học cơ sở thuộc phạm vi quản lý của
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu trong giai đoạn
hiện nay, đồng thời nâng cao chất lượng học sinh giỏi trong toàn huyện.
IV - ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Công tác phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi chưa được lựa
chọn áp dụng tại huyện Than Uyên với phương pháp tiến hành từng bước, từ dễ
đến khó, từ thấp đến cao và từ đơn giản đến phức tạp, chủ yếu tập trung vào các
đối tượng đầu cấp để bồi dưỡng đi lên làm nền tảng vững chắc cho mục tiêu chất
lượng học sinh giỏi của huyện.
Việc phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi được áp dụng hiệu
quả trong công tác chỉ đạo, bồi dưỡng học sinh giỏi, góp phần duy trì và nâng
cao chất lượng học sinh giỏi của huyện Than Uyên.
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
3
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------B - PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I - CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của công tác phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi.
1.1. Quan niệm về học sinh giỏi.
Theo quan niệm truyền thống của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân
loại về “Đức và Tài”, học sinh giỏi là những học sinh thông minh có trí tuệ phát
triển, có một số phẩm chất nổi bật, giàu tính sáng tạo, có đầu óc tư duy, tưởng
tượng phong phú và có một hoặc một số năng lực chuyên biệt nổi trội (năng
khiếu).
Đặc trưng, biểu hiện cơ bản của học sinh giỏi, học sinh năng khiếu là:
+ Có đầu óc phê phán, nhận định, xem xét vấn đề ở nhiều khía cạnh khác
nhau.
+ Có suy nghĩ độc lập không lệ thuộc vào suy nghĩ của người khác.
+ Nhạy cảm phát hiện mâu thuẫn, phát hiện vấn đề.
Như vậy, học sinh giỏi trước hết phải có phẩm chất bẩm sinh do di truyền
để lại; đó là tiền đề, là cơ sở để phát triển thành tài năng. Những đối tượng này
sớm được phát hiện và bồi dưỡng một cách hệ thống và đúng hướng chắc chắn
sẽ trở thành những học sinh giỏi, thành những công dân có ích cho xã hội, cho
đất nước. Bởi vậy, việc phát hiện sớm và bồi dưỡng kịp thời những học sinh có
tư chất, có trí tuệ ở các bậc học nói chung và bậc Trung học cơ sở nói riêng là
việc làm tất yếu và hết sức cần thiết. Ở lứa tuổi này, nếu không được phát hiện
kịp thời và bồi dưỡng đúng hướng thì tài năng sẽ dần bị thui chột, phát triển
chậm hoặc không có cơ hội phát triển.
Ông cha ta có câu “Một người biết lo bằng cả kho người biết làm”, người
biết lo ở đây chính là người tài, người giỏi. Thật vậy, nhân tài là những người có
sự nhạy cảm, phát hiện vấn đề cao, nắm bắt được quy luật, dự báo trước được
tình hình nên sớm nhìn ra nhu cầu nhân lực trong tương lai, nhờ đó chủ động
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
4
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------được việc đào tạo nhân lực cho tương lai và cũng chỉ có người tài mới biết tổ
chức nền giáo dục sao cho hiệu quả nhất để nâng cao dân trí, dân trí càng cao thì
càng thuận lợi cho việc tuyển chọn, đào tạo nhân lực, đồng thời dân trí càng cao
thì càng phát hiện được nhiều nhân tài...
1.2. Quan niệm về bồi dưỡng học sinh giỏi.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là:
+ Bồi dưỡng trí thông minh: năng lực tư duy, suy luận, giải quyết vấn đề
linh hoạt...
+ Bồi dưỡng óc sáng tạo: tư duy độc lập, không dập khuôn, phát hiện quy
luật, tìm tòi giải pháp mới...
+ Bồi dưỡng một số phẩm chất khác: lòng ham hiểu biết, khám phá, say mê
học tập...
Như vậy, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là dưới sự tổ chức và điều
khiển của người thầy, học sinh được lĩnh hội tri thức khoa học tiên tiến một cách
tốt nhất, giúp cho trí tuệ của các em phát trển nhanh, hiệu quả, toàn diện nhất (cả
tài và đức)... Muốn làm được điều ấy, đòi hỏi người thầy không chỉ đơn thuần
chỉ có nhiều tri thức, hiểu rộng, biết sâu và truyền đạt cho học sinh tất cả những
gì thầy có mà thầy phải nắm được tâm tư nguyện vọng của học sinh, biết được
học sinh mình cần gì, mong muốn gì và nên dạy cái gì trước, cái gì sau và quan
trọng là dạy cho học sinh biết cách nhận biết, lĩnh hội và phát triển tri thức chứ
không nên nhồi nhét kiến thức khiến cho học sinh có cảm giác “sợ học”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đã lưu ý trong cách dạy học đó là: “Áp dụng phương
pháp hiện đại, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề”. Rõ ràng, muốn dạy được học sinh giỏi trước hết người thầy phải
giỏi và dạy giỏi.
Muốn dạy giỏi, trước hết người thầy phải nắm vững lý luận dạy học, nắm
vững các phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, đặc biệt là hiểu rõ đặc
điểm tâm lý của học sinh, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có lý
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
5
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------tưởng nghề nghiệp, làm việc với tất cả lương tâm và trách nhiệm của mình. Có
như vậy, thầy mới có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nhận thức của học sinh
trong quá trình dạy và bồi dưỡng năng lực cho các em.
Thầy dạy giỏi là biết cách dạy cho học sinh sáng tạo trong tự học, biết men
theo hứng thú, kích thích tính tò mò, lòng ham hiểu biết ở các em; nói cách khác,
thầy giáo dạy giỏi là trong mỗi bài dạy luôn đặt câu hỏi cho mình: dạy cái gì? dạy
như thế nào? dạy bằng cách nào? để học sinh tiếp thu nắm kiến thức một cách dễ
nhất, nhanh nhất, sâu nhất và hiệu quả nhất. Chúng ta biết rằng, năng lực tự học,
tự nghiên cứu sẽ khó phát triển nếu thiếu sự hướng dẫn của người thầy và sự hợp
tác của bạn bè, điều đó cho thấy sẽ không có trò giỏi nếu không có thầy giỏi.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII có nêu rõ “Giáo viên là nhân
tố quyết định đến chất lượng giáo dục”. Vì vậy, đội ngũ giáo viên nói chung và
giáo viên dạy giỏi nói riêng cần có đủ đức, đủ tài, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng mẫu mực, có uy tín cao
trong lòng học sinh và phụ huynh học sinh đồng thời được bạn bè, đồng nghiệp
tin yêu, thừa nhận... song không phải giáo viên nào cũng làm tốt được công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi vì ngoài những tiêu chuẩn đầy đủ có ở giáo viên còn
phải có những phẩm chất như: nhạy cảm với khả năng của học sinh, nắm bắt
được nhu cầu của học sinh một cách mau lẹ, phát hiện chính xác những học sinh
có trí tuệ phát triển, có khả năng tiếp thu và tư duy tốt. Ngoài ra bản thân mỗi
giáo viên bồi dưỡng cũng phải biết tự mình rút kinh nghiệm, tự điều chỉnh quá
trình dạy học của mình thông qua hoạt động giảng dạy.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa thầy và trò.
Muốn có học sinh giỏi phải có thầy giáo giỏi, muốn có thầy giáo giỏi cần
có học sinh giỏi (học sinh có năng khiếu) đó là mối quan hệ biện chứng. Thật
vậy, ông cha ta từ xưa đã có câu: “Không thầy đố mày làm nên”, câu nói đó thể
hiện ý nghĩa rất rõ ràng, không có người thầy dạy dỗ, dẫn dắt chúng ta, giúp
chúng ta tiếp thu, chiếm lĩnh kiến thức liệu rằng chúng ta có thể đạt được nó,
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
6
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------biến tri thức khoa học của nhân loại thành của mình... điều này là không thể, bởi
vì nếu có thể thì từ xưa đến nay chúng ta cần đến người thầy để làm gì? Đối với
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng vậy, người thầy luôn đóng vai trò quyết
đinh đến chất lượng và kết quả bồi dưỡng học sinh, đồng thời người thầy giỏi
luôn biết cách phát hiện những học sinh có tố chất, có năng lực để quy hoạch bồi
dưỡng, vì thế, muốn có học sinh giỏi phải có thầy giáo giỏi. Đó là điều kiện
“cần”. Ngược lại, nếu không có học sinh giỏi thì liệu có người thầy giỏi hay
không? Có thể nói rằng, nếu không có học sinh giỏi chúng ta vẫn có thầy giáo
giỏi nhưng chỉ là giỏi trên lý thuyết, bởi vì đã là thầy giáo giỏi ắt sẽ đào tạo
được những thế hệ học sinh giỏi, có trí tuệ và chính những học sinh giỏi này mới
là động lực thôi thúc người thầy phải luôn tự hoàn thiện, nâng cao tri thức cho
mình và đồng thời tìm tòi ra cái mới, cái hay trong quá trình truyền thụ tri thức
cho học sinh. Cho nên, muốn có thầy giáo giỏi cần có học sinh giỏi. Đó là điều
kiện “đủ” trong mối quan hệ biện chứng giữa thầy giỏi và trò giỏi.
Mối quan hệ giữa dạy và học còn được biểu hiện: Dạy học phải đảm bảo
cho sự học tập của học sinh đạt kết quả tốt. Trước hết cần phân hoá đối tượng,
trong quá trình giảng dạy phù hợp với từng loại đối tượng học sinh, phù hợp với
nhu cầu và điều kiện tổ chức giáo dục của các vùng miền, đặc biệt là các huyện
có nhiều học sinh dân tộc thiểu số như tỉnh Lai Châu nói chung và huyện Than
Uyên nói riêng.
Công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi
người thầy giáo chú ý đến việc thực hiện cơ chế dân chủ trong dạy và học. Bởi
vì cơ chế dân chủ sẽ đảm bảo khả năng tư duy của học sinh được tôn trọng và
phát huy. Các em sẽ được thoải mái trong học tập, phấn khởi, tích cực trong trao
đổi thảo luận học tập, tài năng sẽ từ đó được bộc lộ và phát triển...
2. Cơ sở thực tiễn của công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.1. Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng học sinh giỏi, việc đào tạo nhân tài
cho đất nước.
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
7
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------Đức Khổng Tử đã nói rằng: “Nhân bất học, bất tri lý”. Thật vậy, làm
người mà không có học thì không thể nhận biết được đâu là đúng, là sai, không
ý thức được những việc mình làm có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển
của xã hội, của đất nước, từ thế kỷ XVIII vua Quang Trung - Người anh hùng áo
vải đất Tây Sơn sau khi đánh thắng quân Thanh lên ngôi hoàng đế đã tuyên
ngôn “Xây dựng đất nước lấy việc khuyến học làm đầu, tìm lẽ bình trị lấy việc
tuyển nhân tài làm gốc”, muốn xây dựng đất nước giàu mạnh phải có những con
người có học, phải lấy việc dạy học đặt lên hàng đầu; muốn đất nước phồn vinh,
bình yên, nhân dân ấm no hạnh phúc... phải có nhân tài và nhân tài sẽ không thể
có nếu không bắt đầu từ việc học, từ việc phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng...
Đảng ta đã khẳng định “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
phát triển”, trong đó mục tiêu ưu tiên là đào tạo nguồn nhân lực cho nền công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nâng cao dân trí cho lực lượng lao động, cho
cán bộ quản lý; còn bồi dưỡng nhân tài được xem là chính sách hàng đầu, là nhiệm
vụ then chốt trong việc tạo ra “vốn người” có chất lượng cao. Các nước phát triển
đã quan niệm, nguồn tài nguyên thiên nhiên khai thác dần sẽ cạn, chỉ có nguồn
nhân lực con người càng khai thác lại càng phát triển. Từ đó có thể khẳng định: đào
tạo tài năng, sử dụng hợp lý người tài là một việc làm hết sức quan trọng và cần
thiết cho sự phát triển của đất nước, nhân tài không tự nhiên sinh ra mà phải có quá
trình phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, đào tạo. Chính vì lẽ đó, cần xây dựng một
chiến lược cho việc tuyển chọn và bồi dưỡng nhân tài mà khởi điểm là việc phát
hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở các bậc học, đặc biệt là bậc Trung học cơ sở.
2.2. Tầm quan trọng của sự phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi,
đào tạo nhân tài cho huyện Than Uyên - tỉnh Lai Châu:
Than Uyên là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tổ quốc, với
bề dày hơn 60 năm thành lập và phát triển, trải qua nhiều thay đổi thăng trầm
của sự phát trển Than Uyên vẫn đứng vững. Khi mới được thành lập huyện Than
Uyên còn nghèo nàn, lạc hậu, giao thông đi lại khó khăn, chủ yếu là đường mòn,
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
8
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------đường dân sinh, đời sống chủ yếu dựa vào trồng lúa và hoa màu, công tác giáo
dục chưa được quan tâm chú trọng, hầu hết các xã đều chưa có trường, lớp học...
Theo dần với năm tháng hình thành và phát triển, đến nay huyện Than Uyên đã
có nhiều thay đổi lớn: Giao thông đi lại thuận lợi, nhiều tuyến đường được mở
rộng đến tận các xã vùng sâu, vùng xa; nền kinh tế phát triển với nhiều ngành
nghề (Nông nghiêp, thủ công nghiệp, dệt may thổ cẩm, thuỷ lợi...); công tác giáo
dục cũng được quan tâm đầu tư và phát triển... Riêng đối với công tác giáo dục,
được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo huyện, tỉnh nên tất cả các xã trong huyện
đều có trường học, các lớp học được mở tới tận thôn bản, cơ sở vật chất ngày
càng khang trang, thiết bị dạy học không ngừng được cung ứng, đầu tư phục vụ
công tác dạy và học; song song với việc mở rộng mạng lưới giáo dục thì công
tác chất lượng giáo dục được quan tâm, chú trọng, đặc biệt là việc nâng cao chất
lượng giáo dục đại trà và chất lượng mũi nhọn.
Đứng trước những vấn đề đặt ra là làm sao để nâng cao đời sống nhân
dân, nâng cao trình độ dân trí, giao thông thuận lợi, kinh tế phát triển vững mạnh
ngang tầm với các huyện miền xuôi, vùng thuận lợi... Để giải quyết được vấn đề
nêu trên không phải đơn giản, không phải ngày một, ngày hai mà phải xây dựng
chiến lược phát triển cụ thể, có thể là 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa nhưng
một trong những chiến lược mà huyện Than Uyên đặt ra đối với sự phát triển
của huyện là đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục, tạo mọi điêu kiện thuận lợi nhất để
phát triển nền giáo dục để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng
được các yêu cầu phát triển của huyện nhà.
Nhiệm vụ được đặt ra cho ngành giáo dục là làm cách nào để có thể tạo ra
nguồn nhân lực có chất lượng cao trong thời gian ngắn nhất có thể. Đứng trước
vấn đề đặt ra như vậy, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các đơn vị trường
học trong toàn huyện đẩy mạnh công tác nâng cao chất lượng giáo dục đại trà, tập
trung phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh có năng khiếu để
đào tạo ra những tài năng huyện nhà và cho xã hội.
---------------------------------------------------------------------------§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
9
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------Trên cương vị là một cán bộ chuyên môn bậc Trung học cơ sở của Phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện Than Uyên tôi đã có nhiều chăn trở, suy nghĩ về vấn
đề cấp thiết trên để nghiên cứu tình hình thực thực tế, tìm ra các giải pháp nâng
cao chất lượng dạy học và công tác phát hiện, tuyển chọn bồi dưỡng học sinh
giỏi trong chỉ đạo chuyên môn của mình. Từ thực tế qua công tác thanh tra,
kiểm tra nắm bắt tình hình nhiều năm, tôi mạnh dạn trình bày nghiên cứu của
mình trong đề tài này.
II - THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRONG VIỆC PHÁT HIỆN,
TUYỂN CHỌN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THAN UYÊN:
Công tác giáo dục của huyện Than Uyên trong những năm gân đây ngày
càng được đầu tư quan tâm về chiều sâu chất lượng, Phòng GD&ĐT đã tham
mưu với các cấp lãnh đạo để có được sự quan tâm đầu tư về mọi mặt của các
cấp các ngành do đó chất lượng giáo dục đại trà luôn được duy trì giữ vững và
tăng dân qua từng năm. Tuy nhiên chất lượng mũi nhọn luôn được đánh giá là
đứng thứ 2 sau thị xã Lai Châu nhưng cũng không tránh khỏi những dao động
không ổn định qua từng năm, từng lứa học sinh, cụ thể như sau:
1. Thực trạng về đội ngũ quản lý, giáo viên trung học cơ sở.
* Ưu điểm:
Tổng số cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên toàn ngành: 1755 người
(trong đó 31 GV, 12 NV hợp đồng ngắn hạn). Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trở lên
99,4%, trên chuẩn chiếm 37,2%. Đa số cán bộ giáo viên đều có phẩm chất đạo
đức tốt, chuyên môn và phương pháp giảng dạy đảm bảo yêu cầu, phù hợp với
đối tượng học sinh.
Đến nay, đội ngũ giáo viên các trường đều đủ về số lượng, hợp lý về cơ
cấu, đảm bảo cho công tác giáo dục và đào tạo của huyện. Đa số giáo viên yên
tâm công tác, tâm huyết với nghề, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên
môn vững, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, luôn tìm tòi,
---------------------------------------------------------------------------- 10
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------đổi mới trong phương pháp giảg dạy; nhiều giáo viên trẻ khoẻ, nhiệt tình trong
công việc. Kết quả xếp loại cuối năm học trước: về phẩm chất đạo đức xếp loại
khá-tốt đạt 98,3%, xếp loại về chuyên môn nghiệp vụ đạt 84% khá - tốt.
* Tồn tại:
Một bộ phận giáo viên có trình độ chuyên môn chưa đạt chuẩn, chưa tích
cực trong công tác giảng dạy, ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn chưa tốt, trong
công việc đôi khi còn chểnh mảng, chưa nghiêm túc.
Số giáo viên có chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm trong công tác bồi
dưỡng đội tuyển cấp trường, huyện và tỉnh chưa nhiều nên ảnh hưởng nhiều đến
chất lượng công tác bồi dưỡng tại đơn vị.
2. Thực trạng về chất lượng học sinh (cuối năm học 2011-2012).
* Ưu điểm:
- Hạnh kiểm: TB trở lên 3501/3512 = 99,7%, trong đó khá - tốt 93%,
giảm 1,5%.
- Học lực: TB trở lên 3097/3512 = 88,2%, tăng 0,5%, trong đó khá - giỏi
32,1% tăng 6,1%.
(04 học sinh khuyết tật không đánh giá xếp loại cuối năm)
- Tốt nghiệp THCS: 755/758 = 99,6% không tăng giảm.
- Tỉ lệ học sinh chuyển lớp thẳng: 3151/3512 = 89,7%, tăng 1,7%.
* Tồn tại: Đến nay mặc dù các trường học được mở đến các trung tâm xã
nhưng do đặc thù của vùng Tây Bắc là tỷ lệ người dân tộc cao, chiếm đa số; trình độ
dân trí thấp, đời sống của nhân dân còn nghèo nàn lạc hậu nên chưa quan tâm nhiều
đến công tác giáo dục cho nên ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ chuyên cần, chất lượng học
tập, khả năng tiếp thu kiến thức do đó nêu không được phát hiện và bồi dưỡng thường
xuyên ngay từ đầu cấp học thì chất lượng mũi nhọn chỉ dừng lại đối với học sinh các
trường vùng thuận lợi quanh khu vực thị trấn Than Uyên.
3. Thực trạng về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học bậc Trung học cơ sở (tính đến
cuối năm học 2011 - 2012).
---------------------------------------------------------------------------- 11
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------* Ưu điểm:
Cơ bản đảm bảo đáp ứng được nhu cầu dạy và học, không còn tình tạng
học sinh học 3 ca, học sinh học dưới gầm sàn.
Thường xuyên được quan tâm đầu tư từ nguồn ngân sach, từ các chương
trình dự án, đến nay toàn huyện có 161 phòng học, trong đó phòng kiên cố và
bán kiên cố 131 phòng chiếm 81,4%.
* Tồn tại: Tỷ lệ phòng học kiên cố và bán kiên cố khá cao so với bậc Tiểu
học và Mầm non nhưng số phòng học xây đã xuống cấp nhiều, chưa được tu
sửa; các phòng học chủ yếu là phòng học văn hóa, chưa có phòng học bộ môn,
thiết bị dạy học còn thiếu thốn, các bộ thiết bị đồng bộ đã hỏng nhiều qua quá
trình sử dụng nhưng không được cung ứng bổ sung.... những yếu tố trên cũng
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng dạy và học.
4. Thực trạng công tác phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi.
* Ưu điểm: Công tác phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi
được các trường học trong toàn huyện thực hiện ngay từ đầu mỗi năm học, việc
tuyển chọn được thực hiện qua khảo sát đánh giá đầu năm, thông qua công tác
tuyển chọn của giáo viên bộ môn, giáo viên bồi dưỡng và đăng ký môn học của
học sinh...
Theo số liệu thống kê kết quả thi chọn học sinh giỏi bậc THCS năm học
2011-2012 toàn huyện có 313 học sinh tham gia dự thi học sinh giỏi cấp huyện
trong đó có 72 học sinh đạt giải chiếm 23%, tăng 1,2%; cấp tỉnh có 13/31 hoc
sinh tham gia đạt giải chiếm 42%.
* Tồn tại:
Một số trường học vùng sâu vùng xa chưa quan tâm nhiều đến công tác
mũi nhọn và xây dựng đội tuyển học sinh giỏi để bồi dưỡng. Còn mang tính thời
vụ hoặc gần đến kỳ thi học sinh giỏi thì chọn ra những học sinh theo môn học có
điểm trung bình môn cao, thành lập đội tuyển để bồi dưỡng nên công tác bồi
dưỡng không hiệu quả, chất lượng học sinh không cao, không có tính bền vững.
Công tác phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi ở hầu hết các
trường chưa được quan đúng mức, thực hiên không bài bản, không theo quy
---------------------------------------------------------------------------- 12
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------trình từ công tác phát hiện đến khâu bồi dưỡng, chủ yếu qua những nhận định
cảm tính của giáo viên bộ môn, giáo viên chu nhiệm nên một số học sinh chưa
phát huy tối đa được năng lực sở trường của bản thân.
Qua những thực trạng trên bản thân tôi nhận thấy công tác giáo dục còn
nhiều những khó khăn vướng mắc ảnh hưởng nhiều đến việc tuyển chọn và bồi
dưỡng đối tượng học sinh giỏi của ngành giáo dục nói chung và các trường
trong huyện nói riêng như: chất lượng đội ngũ tuy đạt chuẩn về trình độ nhưng
số giáo viên có khả năng bồi dưỡng đội tuyển ít; học sinh phần lớn là người dân
tộc, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, thời gian dành cho việc học tập ở
nhà ít; điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, nhiều trường phải học 2 ca nên thiếu
phòng học cho công tác bồi dưỡng và tự học... trước thực trạng đó bản thân tôi
cũng mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trong công tác phát hiện, tuyển chọn và
bồi dưỡng học sinh giỏi trong điều kiện khó khăn trên nhằm giúp cho công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi được trọng tâm và hiệu quả nhất.
III - NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG TỒN TẠI :
1. Công tác chỉ đạo, thực hiện của Phòng GD&ĐT chưa quyết liệt, chưa mang
tính chiến lược ở một số nội dung như:
- Đã quan tâm đến nội dung bồi dưỡng nhưng chưa có sự thống nhất trong
phương pháp, tài liệu bồi dưỡng cụ thể trong toàn huyện nên hiệu quả chưa cao,
chỉ tập trung ở một số giáo viên có kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng.
- Công tác bồi dưỡng tập trung mạnh ở chương trình lớp 9 mà chưa quan
tâm nhiều đến các khối lớp dưới, đã tổ chức thi cấp huện lớp 6, 7, 8 nhưng việc
ôn tập chủ yếu mang tình mùa vụ, thời điểm.
- Chưa có nhiều định hướng và giải pháp mạnh cho việc phát hiên và bồi
dưỡng đội tuyển ở các trường trong xã vùng sâu, vùng xa; chất lượng học sinh
giỏi toàn huyện chủ yếu tập trung ở các trường vùng thuận lợi, dọc tuyến.
- Chưa quy hoạch và nhân rộng những giáo viên có năng lực về kiến thức
(giỏi kiến thức chuyên sâu) để bồi dưỡng về phương pháp, truyền đạt kinh
nghiệm của những người có thâm niên trong công tác bồi dưỡng đội tuyển.
---------------------------------------------------------------------------- 13
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------2. Công tác thực hiện ở các trường:
- Ban giám hiệu một số trường chỉ đạo trong công tác bồi dưỡng chưa
quyết liệt hoặc ít quan tâm đến chất lượng mũi nhọn, chủ yếu duy trì chất lượng
đại trà. Nhiều Ban giám hiệu chưa năng động, chưa có tầm nhìn chiến lược cho
sự phát triển của nhà trường, việc bồi dưỡng, ôn tập chủ yếu nhằm đắp phần
“ngọn” (đối tượng học sinh lớp 9) mà không quan tâm nhiều đến phần “gốc”
(bồi dưỡng đối tượng học sinh lớp dưới làm nền tảng).
- Công tác phát hiên, tuyển chọn không kỹ lưỡng, lựa chọn cho học sinh
ôn tập theo môn không phù hợp với năng lực, sở trường làm cho công tác bồi
dưỡng không hiệu quả và chất lượng học sinh giỏi qua các kỳ thi không cao.
- Nhiều giáo viên có tâm huyết, có sức trẻ nhưng còn yếu về phương pháp
truyền thụ kiến thức, ít kinh nghiệm bồi dưỡng; chưa có sự chuẩn bị chu đáo về
tài liệu, nội dung bồi dưỡng nên tính hiệu quả chưa cao.
3. Đối tượng học sinh và những nhân tố tác động không tốt đến chất lượng:
- Đa số học sinh là người dân tộc thiểu số (học sinh người kinh chủ yếu
tập trung ở thị trấn và một số trường lân cận), điều kiện hoàn cảnh gia đình khó
khăn nên việc đầu tư thời gian cho học tập, rèn luyện ít, không thương xuyên.
- Nhiều học sinh nhà xa trường (các khoảng 3km đến 6km) nhưng không
đủ điều kiện để ở bán trú, thời gian đi bộ đến trường và từ trường về đến nhà đã
mất nhiều thời gian, sức lực nên không còn tâm trí cho việc tự học, tự nghiên
cứu kiến thức.
- Gia đình của nhiều học sinh khó khăn, bản thân học sinh lại là lao động
chính trong nhà, ngoài giờ đi học trên lớp còn phải phụ giúp gia đình nhiều việc
nên chưa có thời gian quan tâm nhiều đến việc học tập.
IV - MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC PHÁT HIỆN, TUYỂN
CHỌN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO HUYỆN THAN UYÊN
1. Giải pháp về công tác phát hiện:
---------------------------------------------------------------------------- 14
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------Việc phát hiện các đối tượng học sinh giỏi phải thực hiện ngày từ đầu
năm học và thực hiện tuần tự từ dưới lên trên, từ lớp học đến nhà trường; Hiệu
trưởng chỉ đạo nhà trường giao chỉ tiêu phấn đấu cho các tổ chuyên môn và
phân công đến từng giáo viên bộ môn chịu trách nhiệm tự tuyển chọn các em
học sinh khá, giỏi để bồi dưỡng. Trong quá trình giảng dạy trên lớp, giáo viên bộ
môn, giáo viên chủ nhiệm tự chủ động theo dõi chất lượng bằng các bài kiểm tra,
bằng khả năng tư duy trực tiếp qua việc phát vấn trả lời các câu hỏi theo các mức
độ từ dễ đến khó ngay ở trên lớp nhằm phát hiện ra những học sinh có tố chất, có
tiềm năng và lập danh sách chuyển cho tổ khối, Ban giám hiệu.
2. Giải pháp về công tác tuyển chọn:
Căn cứ trên danh sách học sinh được giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ
môn phát hiện chuyển lên, Ban giám hiệu chỉ đạo các tổ chuên môn tiếp tục bổ
sung trang bị thêm kiến thức, sau một thời gian thì chỉ đạo tổ chức khảo sát các
môn văn hóa cơ bản, lựa chọn phân loại học sinh theo năng lực sở trường của
từng môn học.
3. Giải pháp về công tác bồi dưỡng:
3.1. Thống nhất nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi.
*) Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo.
Tổ chức họp tổ cốt cán chuyên môn vào đầu năm học để bàn về nội dung,
biện pháp bồi dưỡng và thời lượng bồi dưỡng. Sau khi thống nhất nội dung,
chương trình Phòng Giáo dục và Đào tạo triển khai chỉ đạo công tác bồi dưỡng
theo nội dung và thời lượng đã thảo luận.
*) Đối với các trường Trung học cơ sở.
Từ nội dung đã thống nhất của Phòng GD&ĐT chỉ đạo cho giáo viên bồi
dưỡng xây dựng nội dung ôn tập cụ thể cho học sinh của nhà trường.
Lựa chọn giáo viên bồi dưỡng theo nội dung chương trình đã thống nhất và
triển khai, giáo viên bồi dưỡng phải hệ thống hoá, khái quát hoá được tất cả các nội
dung cơ bản giúp các em nắm vững và hiểu sâu kiến thức, có thể vận dụng linh
---------------------------------------------------------------------------- 15
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------hoạt trong các dạng bài tập, trong các dạng đề ở mức nâng cao và mở rộng kiến
thức nhằm phát huy tối đa khả năng tư duy sáng tạo của các em.
3.2. Chỉ đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của Phòng Giáo dục và Đào tạo.
3.2.1. Chỉ đạo kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng của Phòng Giáo dục và Đào tạo.
Đối với công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cần phải có kế
hoạch dài hạn (xây dựng từ đầu năm học và kế thừa của năm học trước) và kế
hoạch ngắn hạn (giai đoạn cuối cần tăng thời gian, thời lượng bồi dưỡng) cho
việc bồi dưỡng thì mới có hiệu quả một cách thực chất, vì học sinh giỏi không
phải được đào tạo ra do chủ quan của người bồi dưỡng mà đó là kết quả của một
quá trình vận động biện chứng có quy luật của người bồi dưỡng. Do đó cần có
sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà quản lý với các giáo viên bồi dưỡng để có kế
hoạch, nội dung bồi dưỡng dài hạn cho các em học sinh.
3.2.2. Chỉ đạo mục tiêu bồi dưỡng.
Phải làm cho giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh và toàn xã hội thấy
được: việc bồi dưỡng học sinh giỏi không chỉ nhằm mục đích trước mắt là để đạt
kết quả cao trong các kỳ thi học sinh giỏi mà mục tiêu quan trọng hơn là góp phần
đào tạo nhân tài, tạo ra vốn người chất lượng cao cho đất nước. Vì thế, giáo viên
đừng nên chỉ bồi dưỡng kiến thức văn hoá mà phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục
toàn diện, nhất là giáo dục tính nhân văn và sáng tạo cho học trò. Cần làm cho học
sinh hiểu được rằng mình học giỏi các môn văn hoá là ra ngoài xã hội sẽ nhập cuộc
một cách mau lẹ và dễ dàng, không nên dạy cho các em trở thành những con mọt
sách mà lại xa rời thực tế xã hội; cần đào tạo cho học sinh vừa là những con người
chuyên sâu về một lĩnh vực, vừa là con người toàn diện. Có xác định như vậy mới
có động cơ và hành động đúng đắn, giáo viên mới có phương pháp đúng đắn trong
hoạt động phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi, góp phần hoàn thành tốt mục tiêu:
Bồi dưỡng ngày càng nhiều nhân tài, càng nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao
cho đất nước.
---------------------------------------------------------------------------- 16
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------3.2.3. Chỉ đạo nội dung bồi dưỡng.
Chương trình và nội dung bồi dưỡng phải thể hiện tính toàn diện, có như
vậy mới đáp ứng được nhu cầu đào tạo thế hệ trẻ trở thành con người phát triển
toàn diện, năng động, sáng tạo. Phải có sự kết hợp giữa dạy bồi dưỡng văn hoá
với các mặt giáo dục như: đạo đức, sức khoẻ, thẩm mỹ...
Nội dung bồi dưỡng phải thể hiện mối quan hệ giữa các môn trong nhóm
môn khoa học xã hội hay khoa học tự nhiên, đặc biệt là mối quan hệ giữa lý
thuyết với vận dụng lý thuyết trong từng môn khoa học khác nhau. Điều chú ý
nhất trong soạn nội dung bài dạy bồi dưỡng là tăng cường ra nhiều bài tập với
các dạng khác nhau, có nhiều ứng dụng trong cuộc sống để cho học sinh được tự
học nhiều; nội dung phải thể hiện tính kế thừa truyền thống nhưng đồng thời
cũng tiếp cận với kiến thức hiện đại.
3.2.4. Chỉ đạo phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi.
Hiện nay ở bậc học Phổ thông, quan niệm đề cao kiến thức, coi nhẹ năng
lực hoạt động của học sinh đã dẫn đến tình trạng còn tổ chức nhiều môn học trong
chương trình giáo dục, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều,
chưa tạo được niềm vui học tập cho người học, chưa làm cho học sinh cảm nhận
được “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đối với công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi cũng vậy, chúng ta cần phải phối hợp các phương pháp dạy học linh
hoạt, hợp lý với mỗi nội dung bài dạy khác nhau. Bởi vì không có một phương
pháp dạy học nào là tối ưu nhất, một phương pháp có thể thích hợp với bài này
nhưng bài khác lại không, có thể thích hợp với môn này nhưng môn khác lại
không... Tài năng của người thầy là biết sử dụng và phối hợp các phương pháp
một cách linh hoạt và hợp lý trong từng tình huống và đối tượng học sinh cụ thể,
phải làm sao để học sinh tiếp thu được những kiến thức khó mà không cảm thấy
có áp lực kiến thức đè nặng.
---------------------------------------------------------------------------- 17
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------Cần chú ý rằng dạy bồi dưỡng cho học sinh là dạy sáng tạo cho học sinh
cho dù là dạy theo phương pháp nào thì cũng cần đảm bảo phát huy tính tích cực
học tập của học sinh, đặc biệt là phải dạy làm sao cho học sinh biết cách tự học
có hiệu quả, vươn lên tự làm chủ trong việc chiếm lĩnh kiến thức mới trên cơ sở
kiến thức đã tiếp thu. Mỗi một môn học có những phương pháp đăc trưng riêng
để dạy và có những cách thức khác nhau để học do đó trong quá trình chỉ đạo
thực hiện phương pháp các nhà trường cần nắm vững lý luận dạy học các bộ
môn để chỉ đạo thực hiện.
3.2.5. Chỉ đạo công tác xây dựng đội ngũ giáo viên bồi dưỡng.
Nhân tố quyết đinh đến chất lượng bồi dưỡng, thành tích đạt được của hoc
sinh là đội ngũ cán bộ, giáo viên bồi dưỡng, do đó cần phải lựa chọn và có kế
hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, giáo viên các trường thường xuyên hơn
thông qua các hoạt động: Thi giáo viên dạy giỏi các cấp, bồi dưỡng giáo viên
theo chu kỳ, theo chuyên đề... để nâng cao chất lượng đội ngũ, tuyển chọn đội
ngũ cốt cán chuyên môn, đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm và thành tích trong
việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường.
Người thầy giỏi là người thầy phải biết từ bỏ vai trò chủ động thuyết giảng
của mình, trở thành người tổ chức, thiết kế, đạo diễn để dẫn dắt học trò tìm ra và
chiếm lĩnh tri thức. Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi thì phương pháp này cần
phát huy tối đa, bên cạnh đó người thầy còn phải giỏi về kiến thức chuyên môn, phải
biết kết hợp các phương pháp hợp lý, nhuần nhuyễn như một nghệ thuật trong đó
phương pháp dạy học tích cực đóng vai trò chủ đạo.
3.2.6. Chỉ đạo Hiệu trưởng các trường chuẩn bị tốt các điều kiện cho công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chất lượng là mục tiêu hàng đầu của mọi nền giáo dục, nhưng chất lượng
cũng đòi hỏi những đầu tư thoả đáng. Với điều kiện kinh tế của huyện chưa thể
đòi hỏi những sự đầu tư của nhà nước cho giáo dục ngang bằng với sự đầu tư
của nhiều huyện, tỉnh khác đặc biệt là những huyện, tỉnh có nền kinh tế phát
---------------------------------------------------------------------------- 18
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn
Gi¶i ph¸p chØ ®¹o ph¸t hiÖn, tuyÓn chän vµ båi dìng häc sinh giái bËc THCS
--------------------------------------------------------------------------------------------triển. Do đó, Phòng Giáo dục và Đào tạo và các trường Trung học cơ sở trong
toàn huyện cần tận dụng mọi sự đầu tư của nhà nước, những đóng góp của các
tổ chức xã hội, của nhân dân để nâng cao chất lượng giáo dục một cách tốt nhất
mặc dù chất lượng này có thể chưa so sánh được với chất lượng của nhiều
huyện, tỉnh có nền kinh tế phát triển khác.
Chỉ đạo các trường cần tham mưu xây dựng kế hoạch dự trù cụ thể cho
việc mua sắm tài liệu bồi dưỡng nâng cao, các loại sách tham khảo, trang thiết bị
dạy học, xây dựng cơ sở vật chất (phòng học, phòng thực hành, phòng thí
nghiệm...) phục vụ cho công tác bồi dưỡng được toàn diện hơn.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, huy động mọi
nguồn lực từ phụ huynh hoc sinh, từ nhân dân, từ các tổ chức đoàn thể, các nhà
hảo tâm... để tạo được nguồn tài chính kịp thời đáp ứng và động viên hoạt động
bồi dưỡng học sinh giỏi.
3.3. Chú trọng công tác nâng cao chất lượng đại trà và tuyển chọn, bồi
dưỡng học sinh giỏi các lớp 6, 7, 8.
Trong bài nói chuyện của Bác tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè
ngày 12/6/1956 (Hồ Chí Minh - Toàn tập - Tập VIII - Trang 184) Người có dè
chừng một số cán bộ quản lý giáo dục có tâm lý nóng vội muốn phát triển giáo dục:
“Kháng chiến phải mất mấy năm. Vội không được. Giáo dục cũng phải theo hoàn
cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng làm vội không được. Từ đây ra cửa thì thứ
nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai rồi thứ ba mới là bước thứ ba,
vội thì ngã. Là phải có kế hoạch, có từng bước”. Thật vậy, không chỉ trong công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà cả trong công tác nâng cao chất lượng giáo dục đại
trà cũng vậy chúng ta cần phải xây dựng một kế hoạch dài hơi, tiến từng bước,
không thể vội vàng. Chúng ta ai cũng biết rằng, muốn học giỏi trước tiên phải nắm
vững kiến thức, phải hiểu và vận dụng linh hoạt kiến thức cơ bản nên muốn nâng
cao chất lượng mũi nhọn trước tiên phải nâng cao chất lượng đại trà hay nói cách
---------------------------------------------------------------------------- 19
§inh C«ng V¬ng - C¸n bé chuyªn m«n Phßng GD-§T Than Uyªn