SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“SỬ DỤNG SƠ ĐỒ KHỐI ĐỂ DẠY PHẦN NGUYÊN LÍ LÀM VIỆC
CỦA MỘT SỐ HỆ THỐNG TRONG ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI NÓI ĐẦU.
Trên con đường hội nhập và phát triển cùng thế giới, đất nước ta đã và đang từng
bước đổi mới, áp dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại vào trong mọi lĩnh vực
của đời sống và sản xuất để thực hiện công cuộc “ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất
nước. Do đó việc đào tạo ra nguồn nhân lực có tri thức và đạo đức đang là mục tiêu lớn
của ngành giáo dục nước ta hiện nay.
Cùng với mục tiêu chung của ngành giáo dục, mục tiêu của giáo dục cấp THPT đó
là: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức , trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản ; phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo , hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động , tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Luật giáo dục đã quy định : “ Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh cũng cố và phát
triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông có những hiểu biết
thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và
phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp ,
học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Môn Công nghệ 11 được Bộ giáo dục và Đào
tạo biên soạn trên tinh thần đổi mới , đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù
hợp với thực tiễn Việt Nam. Nó cùng với các môn học khác trong nhà trường phổ thông
góp phần quan trọng vào việc tạo nền tảng ban đầu để đào tạo con người phát triển toàn
diện.
Thực tế như chúng ta đã thấy, động cơ đốt trong có vai trò rất quan trọng và được
sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như : Nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, giao
thông vận tải, quân sự... Do đó đối với người học sinh phổ thông dù sau này có lựa chọn
nghề nghiệp gắn bó với động cơ đốt trong hay không thì những hiểu biết về động cơ đốt
trong nói chung cũng như nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong
vẫn luôn gắn liền với đời sống thực tiễn của họ. Chính vì vậy để có thể hiểu và ghi nhớ
sâu sắc hơn về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là một vấn đề
có ý nghĩa rất quan trọng.
Những vấn đề nêu trên vừa là cơ sở lí luận, vừa là cơ sở thực tiễn để mỗi người
giáo viên giảng dạy môn công nghệ trong nhà trường phổ thông phải có trách nhiệm tìm
ra con đường để hướng dẫn học sinh tiếp nhận và khắc sâu kiến thức về nguyên lí làm
việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong một cách chủ động, tích cực, sáng tạo và
có hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Đại đa số học sinh của Trường THPT Trần Hưng Đạo là học sinh ở vùng ven đô
thị, trình độ nhận thức của các em không đồng đều. Địa bàn khu vực còn non kém về nền
công nghiệp. Tình trạng ngại học, coi nhẹ môn học do đây không phải là môn thi tốt
nghiệp và thi vào Đại học, Cao đẳng ...Nên đã dẫn đến một thực tế kết quả, hiệu quả của
giờ học chưa cao, chưa đạt được nhiều theo mục đích, yêu cầu đặt ra.
2. Kiến thức về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là nội
dung mang tính trừu tượng, học sinh không thể trực tiếp quan sát, tri giác được. Để tiếp
thu được nội dung này học sinh phải hình dung, tưởng tượng, phải thực hiện các thao tác
tư duy dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó đã gây ra nhiều khó khăn cho học sinh
trong việc tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức của bài học, dẫn đến sự say mê, yêu
thích môn học của học sinh không nhiều, chất lượng và hiệu quả của giờ học chưa cao.
Nguyên nhân do nhiều phía: Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, sức thuyết phục của
chương trình còn ở mức độ, tâm lí coi nhẹ môn học của học sinh..... và còn nhiều lí do
khác nữa dược đưa ra để biện minh cho một thực tế là chất lượng và hiệu quả của giờ học
chưa cao. Song tôi thiết nghĩ mấu chốt của vấn đề là ở chỗ bản thân người giáo viên
Công nghệ cũng đang đạt theo sự ngại học của học sinh, chưa tích cực tìm giải pháp nâng
cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức
ấy phải được tổ chức thế nào để giúp học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng và hứng thú.
Hoà nhập với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học hiện nay,
rút kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghiệp và bằng thực tế giảng dạy của mình, tôi xin
mạnh dạn giới thiệu sáng kiến kinh nghiệm : " Sử dụng sơ đồ khối để dạy phần nguyên
lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong".
Để thực hiện tốt giờ dạy theo tinh thần đổi mới, phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và hứng thú của học sinh. Bản thân tôi đã không ngừng đổi mới về tư duy, nhận
thức từ khâu soạn giáo án ( Thiết kế bài học ) cho đến cách sử dụng thiết bị dạy học, lập
phiếu điều tra để nắm bắt tình hình học tập của học sinh, từ đó điều chỉnh cho phù hợp
với thực tế nhà trường và đối tượng học sinh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. PHƢƠNG PHÁP DẠY PHẦN NGUYÊN LÍ LÀM VIỆC CỦA MỘT SỐ HỆ
THỐNG TRONG ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG HIỆN NAY
Phương pháp dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt
trong đang được sử dụng phổ biến hiện nay đó là: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc
bằng cách thông qua một số câu hỏi gợi mở, học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, quan
sát sơ đồ cấu tạo rồi tiến hành tư duy, hình dung, tưởng tượng và rút ra nguyên lí làm việc
của hệ thống. Sau đó giáo viên tóm tắt và kết luận lại cho học sinh về nguyên lí làm việc
của hệ thống dưới dạng lí thuyết.
Với cách thực hiện như trên không phải hoàn toàn là cái dở mà cũng có cái hay của
nó. Qua đó nó thể hiện được phong cách, phương pháp và khả năng truyền đạt kiến thức
của người giáo viên. Tuy nhiên với cách thực hiện như vậy, nó cũng gây không ít khó
khăn cho cả giáo viên lẫn học sinh. Sau khi nghiên cứu xong, kiến thức về nguyên lí làm
việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là những lí thuyết. Chúng thường mờ nhạt
và trừu tượng. Do đó học sinh rất khó khăn trong quá trình tiếp nhận cũng như khắc sâu
kiến thức vừa nghiên cứu.
II. PHƢƠNG PHÁP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ KHỐI ĐỂ DẠY PHẦN NGUYÊN LÍ LÀM
VIỆC CỦA MỘT SỐ HỆ THỐNG TRONG ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học
sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm đạt mục đích dạy học. Quá trình nhận thức
diễn biến theo con đường mà LêNin đã chỉ rõ: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lí, nhận thức thực tại khách quan”.
Nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong là những kiến thức
lí thuyết, chúng thường mờ nhạt, trừu tượng, chưa tác động mạnh vào các giác quan. Do
đó kí ức khó ghi nhận và tái hiện lại khi cần thiết. Vì vậy cần phải cụ thể hoá, vật chất
hoá, làm cho lí thuyết được cụ thể hơn, sâu sắc hơn và có tính thuyết phục hơn. Từ đó
học sinh có thể dễ dàng tiếp nhận kiến thức và khắc sâu vấn đề lí thuyết vừa nghiên cứu.
Ở đây, tôi không có tham vọng đưa ra một cách dạy mới thay thế cách dạy phong
phú đa dạng mà lâu nay giáo viên vẫn thường sử dụng và còn tiếp tục được sử dụng. Tôi
chỉ xin giới thiệu một cách dạy kết hợp giữa phương pháp truyền thống với những yêu
cầu mới. Đó là: "Sử dụng sơ đồ khối khi dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ
thống trong động cơ đốt trong".
Cách thức tiến hành:
Khi nghiên cứu, tìm hiểu về nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt
trong. Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, quan sát sơ đồ cấu tạo của
hệ thống. Thông qua một số câu hỏi gợi mở, giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành tư
duy và xây dựng sơ đồ khối thể hiện nguyên lí làm việc của hệ thống.
Giờ dạy này ứng dụng công nghệ thông tin là tốt nhất. Vì vậy giáo viên nên sử dụng
giáo án điện tử để thuận tiện cho việc giảng dạy, rút ngắn thời gian vẽ sơ đồ và nhất là tạo
sinh động hơn trong tiết học, thu hút được học sinh, làm cho học sinh có sự hứng thú và
say mê môn học.
III. VẬN DỤNG CỤ THỂ
1. Nguyên lí làm việc của hệ thống bôi trơn cƣỡng bức
( Bài25: Hệ thống bôi trơn )
* Trƣờng hợp 1: Khi hệ thống làm việc bình thƣờng
Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau:
Cacte
dầu
Lưới
lọc
Bơm
dầu
Bầu
lọc
Van
khống
chế
Đường
dầu
chính
Bề mặt
ma sát
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi động cơ làm việc, dầu bôi trơn được bơm dầu hút từ cacte dầu đưa qua lưới lọc và
bầu lọc để lọc sạch rồi đưa qua van khống chế đến đường dầu chính rồi theo các đường
ống đến bôi trơn các bề mặt ma sát của động cơ, sau đó trở về cacte.
* Trƣờng hợp 2: Khi áp suất của dầu bôi trơn vƣợt quá giá trị cho phép
Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau:
Cacte
dầu
Lưới
lọc
Bơm
dầu
Bầu
lọc
Van
khống
chế
Đường
dầu
chính
Bề mặt
ma sát
Van
an
toàn
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi áp suất của dầu bôi trơn vượt quá giá trị cho phép thì van an toàn mở để một phần
dầu từ sau bơm chảy ngược về trước bơm làm giảm áp suất của dầu xuống. Khi đó hệ
thống làm việc theo trường hợp bình thường.
* Trƣờng hợp 3: Khi nhiệt độ của dầu cao quá giới hạn định trƣớc
Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau:
Cacte
dầu
Lưới
lọc
Bơm
dầu
Bầu
lọc
Két
làm
mát
Đường
dầu
chính
Bề mặt
ma sát
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi nhiệt độ của dầu cao quá giới hạn định trước thì van khống chế đóng lại để toàn bộ
lượng dầu chảy qua két làm mát dầu, làm nhiệt độ của dầu giảm xuống. Khi đó dầu bôi
trơn được bơm dầu hút từ cacte dầu đưa qua lưới lọc và bầu lọc để lọc sạch rồi đưa qua
két làm mát đến đường dầu chính, theo các đường ống đến bôi trơn các bề mặt ma sát của
động cơ, sau đó trở về cacte.
2. Nguyên lí làm việc của hệ thống làm mát bằng nƣớc loại tuần hoàn cƣỡng bức. (
Bài 26 : Hệ thống làm mát )
* Trƣờng hợp 1: Khi nhiệt độ nƣớc trong áo nƣớc còn thấp hơn giới hạn định mức.
Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau:
Két
nước
Bơm
nước
Áo
nước
Van
bằng
nhiệt
Đường
ống số
8
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi nhiệt độ nước trong áo nước còn thấp hơn giới hạn định mức thì van hằng nhiệt chỉ
mở cửa thông với đường ống số 8 để nước chảy thẳng về bơm. Khi đó nước làm mát
được bơm nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát các chi tiết, sau đó dược
đưa qua van hằng nhiệt, theo đường ống số 8 chảy thẳng về bơm tạo thành vòng tuần
hoàn khép kín.
* Trƣờng hợp 2: Khi nhiệt độ nƣớc trong áo nƣớc xấp xỉ giới hạn định mức
Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau
Két
nước
Bơm
nước
Áo
nước
Van
bằng
nhiệt
Đường
ống số
8
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi nhiệt độ nước trong áo nước xấp xỉ giới hạn định mức thì van hằng nhiệt mở cả cửa
thông với đường ống số 8 và cửa thông với két nước. Khi đó nước làm mát được bơm
nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát các chi tiết, sau đó dược đưa qua
van hằng nhiệt, một phần theo đường ống số 8 chảy thẳng về bơm còn một phần chảy qua
két nước để làm mát trước khi đưa đến bơm tạo thành vòng tuần hoàn khép kín.
* Trƣờng hợp 3: Khi nhiệt độ nƣớc trong áo nƣớc vƣợt quá giới hạn định mức
Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau:
Két
nước
Bơm
nước
áo
nước
Van
hằng
nhiệt
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi nhiệt độ nước trong áo nước vượt quá giới hạn định mức thì van hằng nhiệt chỉ mở
cửa thông với két nước. Khi đó nước làm mát được bơm nước hút từ két nước đưa đến
các áo nước để làm mát các chi tiết, sau đó dược đưa qua van hằng nhiệt rồi chảy qua két
nước để làm mát trước khi đưa đến bơm tạo thành vòng tuần hoàn khép kín.
3. Nguyên lí làm việc của hệ thống đánh lửa điện tử không tiếp điểm
( Bài 29 : Hệ thống đánh lửa )
* Trƣờng hợp 1: Khi mở khoá điện
Dòng điện chạy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau:
Ma
nhê
tô
Bộ
chia
điện
Biến
áp
đánh
lửa
Bu
gi
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi mở khoá điện và ma-nhê-tô hoạt động thì các sức điện động xoay chiều trên các cuộn
dây WN và WĐK của ma-nhê-tô được đưa đến bộ chia điện. Nhờ tác dụng của bộ chia
điện, dòng điện được đưa đến biến áp đánh lửa. Tại đây nó tạo ra tia lửa điện và đặt ở
bugi.
* Trƣờng hợp 2: Khi đóng khoá điện
Dòng điện chạy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau:
Ma
nhê
tô
Khoá
điện
“Mát”
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ:
Khi đóng khoá điện thì điện từ cuộn WN của ma-nhê-tô sẽ truyền qua khoá điện ra “mát”.
Khi đó hệ thống đánh lửa ngừng làm việc.
C. KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ
Sử dụng sơ đồ khối để dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động
cơ đốt trong là cách làm phù hợp với thực tiễn của quá trình đổi mới phương pháp dạy
học môn Công nghệ trong nhà trường phổ thông, phù hợp với sự đổi mới chương trình,
sách giáo khoa và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn công nghệ hiện nay.
Cách làm này thực chất là biến những gì thuộc về lí thuyết, trừu tượng thành cái cụ thể,
quan sát được. Đồng thời nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh, kích thích sự say mê, hứng thú học tập của học sinh.
Chúng ta đã và đang tìm kiếm con đường nâng cao hiệu quả học tập, phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh thì đây là cách làm có thể coi là hiệu quả. Trong mấy
năm gần đây, khi sử dụng cách làm này vào thực tế giảng dạy bản thân tôi thấy rất có
hiệu quả. Đây là một phương pháp đúng đắn. Những vấn đề lí thuyết không còn là trừu
tượng, mờ nhạt và khó nhớ. Cách làm này khá thiết thực và rất dễ vận dụng.
Thú vị hơn tôi còn thấy cũng với cách làm như thế nhưng nếu có sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin ( sử dụng giáo án điện tử ) thì hiệu quả giờ học còn cao hơn nhiều. Còn có
nhiều vấn đề phải rút kinh nghiệm khi ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học.
Song bản thân tôi cho rằng trong những giờ học như thế này thì sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin là tốt nhất, phù hợp nhất.
Tôi đã làm phép so sánh kết quả học tập của học sinh và thu được kết quả rất khả quan
như sau:
Bảng 1: So sánh kết quả khi dạy phần nguyên lí làm việc của hệ thống bôi trơn
cƣỡng bức.
Lớp 11A1 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức không sử dụng sơ đồ khối )
Số
học
sinh
41
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Số
Khá
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Trung bình
Không
được
Số lượng Tỉ lệ
Số
nắm
Tỉ lệ
lượng
6
lượng
14,6% 10
lượng
24,4% 22
53,7% 3
7,3%
Lớp 11A3 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức sử dụng sơ đồ khối - Không sử dụng giáo án điện tử )
Số
học
sinh
43
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
14
32,5% 19
Tỉ lệ
Trung bình
Không
được
Số lượng Tỉ lệ
Số
lượng
44,2% 10
23,3% 0
nắm
Tỉ lệ
0%
Lớp 11A4 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức sử dụng sơ đồ khối - Có sử dụng giáo án điện tử )
Số
học
sinh
42
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
20
47,6% 15
Tỉ lệ
Trung bình
Không
được
Số lượng Tỉ lệ
Số
lượng
35,7% 7
16,7% 0
nắm
Tỉ lệ
0%
Bảng 2: So sánh kết quả khi dạy phần nguyên lí làm việc của hệ thống làm mát
bằng nƣớc loại tuần hoàn cƣỡng bức.
Lớp 11A5 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức không sử dụng sơ đồ khối )
Số
học
sinh
44
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Trung bình
Không
được
Tỉ lệ
Số lượng Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
25%
22
4
9,1%
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
7
15,9% 11
50%
nắm
Lớp 11A2 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức sử dụng sơ đồ khối - Không sử dụng giáo án điện tử )
Số
học
sinh
39
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
10
25,6% 17
Tỉ lệ
Trung bình
Không
được
Số lượng Tỉ lệ
Số
lượng
43,6% 12
30,8% 0
nắm
Tỉ lệ
0%
Lớp 11A7 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức sử dụng sơ đồ khối - Có sử dụng giáo án điện tử )
Số
học
sinh
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Khá
Trung bình
Không
được
nắm
42
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
20
47,6% 14
Tỉ lệ
Số lượng Tỉ lệ
33,3% 8
Số
lượng
19,1% 0
Tỉ lệ
0%
Bảng 3: So sánh kết quả khi dạy phần nguyên lí làm việc của hệ thống đánh lửa
điện tử không tiếp điểm
Lớp 11A3 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức không sử dụng sơ đồ khối )
Số
học
sinh
43
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
7
16,3% 10
Tỉ lệ
Trung bình
Không
được
Số lượng Tỉ lệ
Số
lượng
23,3% 22
51,2% 4
nắm
Tỉ lệ
9,2%
Lớp 11A6 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức sử dụng sơ đồ khối - Không sử dụng giáo án điện tử )
Số
học
sinh
43
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
18
41,8% 14
Tỉ lệ
Trung bình
Không
được
Số lượng Tỉ lệ
Số
lượng
32,5% 11
25,7% 0
nắm
Tỉ lệ
0%
Lớp 11A4 - Ban cơ bản.
( Dạy theo hình thức sử dụng sơ đồ khối - Có sử dụng giáo án điện tử )
Số
học
sinh
41
Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
21
51,2% 12
Tỉ lệ
Trung bình
Không
được
Số lượng Tỉ lệ
Số
lượng
29,3% 8
19,5% 0
nắm
Tỉ lệ
0%
Mặc dù sự chuyển biến của học sinh cần có một quá trình lâu dài. Nhưng để quá
trình đó thuận chiều thì đây là một thực tế khả quan. Tôi rất tin vào cách làm này. Tôi đã
và đang sử dụng để giảng dạy tại trường trung học phổ thông Trần Hưng Đạo .
II. KIẾN NGHỊ , ĐỀ XUẤT.
1. Đối với giáo viên:
Trước hết để phục vụ tốt cho giờ học này, người giáo viên phải có sự chuẩn bị tốt ở
nhà. Giáo viên phải chịu khó suy nghĩ, nghiên cứu, chuẩn bị giáo án và xây dựng hệ
thống câu hỏi phù hợp một cách cẩn thận , chu đáo và chính xác.
Giáo viên cần động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh tham gia
một cách tích cực trong quá trình lĩnh hội kiến thức . Chú ý khai thác vốn kinh nghiệm,
kỹ năng đã có của học sinh, giúp các em phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản
thân .
2. Đối với học sinh:
Để lĩnh hội các kiến thức một cách dễ dàng và khắc sâu vấn đề cần nghiên cứu cũng
đòi hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị tốt ở nhà, nghiên cứu bài học mới trước khi đến lớp.
Học sinh phải nhiệt tình, tích cực, chủ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức; nghiêm túc
thực hiện các quy định của lớp học, thể hiện một tinh thần thái độ tốt trong học tập .
3. Đối với các cấp lãnh đạo :
Đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm và tạo điều kiện nhiều hơn nữa cho môn học trong
việc mua sắm trang thiết bị cũng như cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học bộ môn
Công nghệ.
Đổi mới phương pháp dạy học đã trở thành pháp lệnh. Chỉ có đổi mới phương pháp
dạy và học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục. Trên đây là
đề tài nghiên cứu và đã được tôi áp dụng vào thực tế giảng dạy tại trường trung học phổ
thông Trần Hưng Đạo. Tuy nhiên để có được những giờ dạy thành công cần phải liên tục
rút kinh nghiệm. Vì thế tôi rất mong được sự góp ý chân tình của quý thầy cô và các bạn
đồng nghiệp.
Hưng Yên, tháng 3 năm 2013
TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Công nghệ 11
2. Sách giáo viên Công nghệ 11
3. Thiết kế bài giảng Công nghệ 11
4. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên Công nghệ 11
5. Phương pháp dạy học kỹ thuật công nghiệp
6. Hoạt động giáo dục ở trường THPT
7. Nhà trường trung học với người giáo viên trung học.
- Xem thêm -