SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"SỬ DỤNG TRANH BIẾM HỌA PHỤC VỤ GIÁO DỤC VÌ SỰ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ THPT"
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế với
những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hóa đang tạo ra những cơ hội nhưng
đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục trong việc đào tạo đội ngũ lao
động. Giáo dục đứng trước một thử thách là tri thức của loài người tăng ngày càng nhanh
nhưng cũng lạc hậu ngày càng nhanh, thời gian đào tạo thì có hạn. Mặt khác thị trường
lao động luôn đòi hỏi ngày càng cao ở đội ngũ lao động về năng lực hành động, khả năng
sáng tạo, linh hoạt, tính trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc, khả năng giải quyết các
vấn đề phức hợp trong những tình huống thay đổi, khả năng học tập suốt đời... Trước
thực trạng đó, giáo dục cần phải đổi mới, cần phải: “xác định lại mục tiêu, thiết kế lại
chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo” và địa lí cũng như các môn
học khác cần phải phát triển và bồi dưỡng cho học sinh những năng lực và tư duy hành
động cần thiết.
Trong những năm gần đây, dạy học Địa lí ở các trường phổ thông đã có những
chuyển biến tích cực. Nhiều phương pháp dạy học mới đã được áp dụng nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Trong các
phương pháp dạy học đó việc sử dụng tranh ảnh được đánh giá là một công cụ quan trọng
và có hiệu quả để đổi mới phương pháp dạy học. Theo N.N. Baranxki, “Một học sinh,
một người thợ mỏ hay một người công nhân xí nghiệp đều mơ ước có toàn bộ trái đất ở
trong nhà”. Và khi những hiểu biết mà bản đồ mang đến chỉ dừng lại ở những đường
biên giới, những địa danh và những sự vật địa lí khô khan thì tranh ảnh lại chuyên chở
một giá trị đặc biệt của tính trực quan và tính hứng thú. Tranh ảnh Địa lí được coi là một
trong những nhân tố tác động quan trọng nhất hình thành lên yếu tố động lực và cảm xúc
đối với người học, là yếu tố quyết định khả năng hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm. Vì vậy
việc tăng cường sử dụng tranh ảnh còn thúc đẩy những hoạt động độc lập của người học,
từ đó tự lực chiếm lĩnh và phản ánh tri thức.
Là một công cụ dạy học có những giá trị to lớn và mang lại hiệu quả vượt ra ngoài
những mục tiêu mà nền giáo dục yêu cầu, tranh biếm họa hoàn toàn có thể trở thành vũ
khí nhạy bén để chúng ta tiến hành GDPTBV ở bất cứ một quốc gia nào. Ở các quốc gia
phát triển như Anh, Đức, Hoa Kỳ, Australia…tranh biếm họa sớm được đưa vào trường
học và trở thành một công cụ dạy học quan trong hàng đầu để hình thành kiến thức, phát
triển kĩ năng. Ở nước ta, tranh biếm họa còn là một công cụ dạy học đầy mới mẻ trong
dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng. Thực tế dạy học Địa lí cho thấy nhiều vấn
đề phức tạp của GDPTBV không được phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc trên bản đồ
và tranh ảnh thông thường thì chúng lại được thể hiện rõ nét trong tranh biếm họa vì
tranh biếm họa thực sự là tấm gương đầy màu sắc phản chiếu thế giới bên trong lớp học
theo các con đường tiếp cận văn hóa khác nhau. Với sức mạnh biểu đạt riêng biệt của
mình, tranh biếm họa còn có khả năng phản ánh những vấn đề dường như rất rộng lớn,
phức tạp trên quy mô toàn cầu, liên lục địa hay đa quốc gia cũng như có khả năng tác
động đến thái độ và hành vi của người học ở các địa phương khác nhau đối với những
vấn đề mà nó đe dọa tương lai chung của chúng ta.
Xuất pháp từ những lí do trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề nghiên cứu “Sử dụng
tranh biếm họa phục vụ giáo dục vì sự phát triển bền vững trong dạy học Địa lí
THPT” và đã đạt được một số thành công nhất định.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích
- Vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng tranh biếm họa phục vụ GDVSPTBV trong
dạy học Địa lí THPT
- Một số phương pháp để sử dụng một cách có hiệu quả tranh biếm họa phục vụ
GDVSPTBV trong dạy học Địa lí.
2. Nhiệm vụ
- Đưa ra cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng tranh biếm họa phục vụ GDVSPTBV
trong dạy học Địa lí THPT.
- Nghiên cứu, điều tra những điều kiện cơ bản để tổ chức giờ học GDVSPTBV có sử
dụng tranh biếm họa một cách hiệu quả.
- Đưa ra những phương pháp sử dụng tranh biếm họa phục vụ GDVSPTBV trong dạy
học Địa lí THPT
- Thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Khoái Châu để kiểm chứng tính khả thi của đề
tài.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò và triển vọng của việc sử dụng tranh biếm họa
trong dạy học Địa lí THPT phục vụ GDVSPTBV đồng thời đưa ra những gợi ý về mặt
phương pháp nhằm sử dụng tranh biếm họa một cách hiệu quả.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực nghiệm đối với học sinh trường THPT Khoái Châu.
IV. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Giữa thế kỉ XIX, những bức tranh biếm họa đầu tiên trên thế giới xuất hiện trên các
tờ báo, tạp chí và nhanh chóng được chào đón với số lượng lớn độc giả. Với khả năng
phản ánh bản chất của những tình huống đặc biệt dưới dạng hình ảnh một cách ngắn gọn,
súc tích và có ảnh hưởng lớn nhất, tranh biếm họa được coi “là một phần bản chất trong
kho tài liệu bản xứ về chính trị và lịch sử xã hội của con người” (William Murrell)
Với những sức mạnh to lớn đó, tới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tranh biếm họa
đã được đưa vào trường học ở các quốc gia phát triển như Anh, Đức, Hoa Kỳ,
Australia… Tranh biếm họa đã được sử dụng rộng rãi như một công cụ dạy học hiện đại
trong các bộ môn khoa học xã hội như văn học, sử học, chính trị…và đặc biệt là môn Địa
lý. Sự tồn tại của tranh biếm họa trong sách giáo khoa ở các quốc gia này chứng tỏ tranh
biếm họa đã trải qua một quá trình nghiên cứu tương đối đầy đủ, đã thể hiện được vai trò
giáo dục tích cực của mình trong hệ thống các công cụ dạy học. Có thể nói việc nghiên
cứu sử dụng tranh biếm họa trong dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng đã trở
thành mối quan tâm sâu sắc của rất nhiều nhà tâm lí giáo dục và khoa học nước ngoài.
Ở Việt Nam, không nhiều người biết rằng lịch sử tranh biếm họa đã có bề dày
hơn 80 năm với những bức tranh biếm họa đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đăng trên
báo Người cùng khổ, và sau này là những bức biếm họa của các tên tuổi nổi danh khác
đã tạo nên một dòng chảy không ngừng cho tranh biếm họa Việt Nam. Có thể nêu ra
đây một ví dụ, họa sĩ tranh biếm họa Chóe (Nguyễn Hải Chí) - người đã từng được tờ
New York Time của Mỹ đánh giá là 1 trong 8 họa sỹ biếm họa hàng đầu thế giới thập
niên 1970. Tuy nhiên cho đến nay, tranh biếm họa vẫn chưa tìm được một chỗ đứng
xứng đáng trong chương trình giáo dục phổ thông ở Việt Nam. Tranh biếm họa ở Việt
Nam xuất hiện chủ yếu trên các báo và tạp chí, tập trung phê phán những mặt trái của
xã hội đương thời mà ít được dùng để phục vụ mục đích giáo dục trong nhà trường.
Trong bối cảnh đó, việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học nói chung và dạy học
Địa lí nói riêng còn là một mảnh đất đầy mới mẻ đòi hỏi các nhà giáo dục, giáo viên
Địa lí quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn về vấn đề này.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp phân tích hệ thống: Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu hệ
thống các loại tranh biếm họa cho học sinh trong dạy học Địa lí THPT nhằm xác định vai
trò, chức năng và nội dung thể hiện của chúng.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng nhằm tìm hiểu cơ sở
khoa học của việc vận dụng tranh biếm họa phục vụ GDVSPTBV trong dạy học Địa lí và
lựa chọn các phương pháp sử dụng tranh biếm họa.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp tìm hiểu thực tế ở trường phổ thông: Phương pháp này được sử dụng
nhằm thu thập các tài liệu thực tế cần thiết cho đề tài nhằm phân tích và lý giải các vấn đề
đặt ra thông qua quan sát, giảng dạy trực tiếp, phỏng vấn tham dò ý kiến của học sinh và
giáo viên đối với tranh biếm họa. Đặc biệt là việc điều tra bằng phiếu, phỏng vấn học
sinh.
- Phương pháp thực nghiệm: Phương pháp này được sử dụng nhằm kiểm chứng các kết
quả nghiên cứu lý thuyết, thu thập thông tin, kiểm tra và phân tích mức độ tin cậy của các
giả thuyết và bổ sung thêm những vấn đề mà lý thuyết chưa đề cập tới.
VI. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của đề tài được cấu trúc thành 3
chương chính sau đây:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng tranh biếm họa phục vụ Giáo
dục vì sự phát triển bền vững trong dạy học Địa lí THPT
Chương 2: Sử dụng tranh biếm họa phục vụ Giáo dục vì sự phát triển bền vững
trong dạy học Địa lí THPT
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRANH
BIẾM HỌA PHỤC VỤ GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ THPT
I. GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ
THPT
1. Khái niệm về Giáo dục vì sự phát triển bền vững
1.1. Khái niệm phát triển bền vững (PTBV)
Thuật ngữ Phát triển bền vững xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm
Chiến lược bảo tồn thế giới, được công bố bởi Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên
thiên nhiên quốc tế (IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không chỉ
chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự
tác động đến môi trường sinh thái học”.
Năm 1987, trong báo cáo "Tương lai của chúng ta", Ủy ban quốc tế về Môi trường
và phát triển (WCBP) của Liên Hợp Quốc đã định nghĩa: "PTBV là sự phát triển thỏa
mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các
nhu cầu của thế hệ tương lai". Báo cáo này khẳng định, phát triển kinh tế và môi trường
là không tách rời nhau. PTBV ngày càng phổ biến trên qui mô toàn cầu.
Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển (NCED) được tổ chức tại
Rio de Janeino (Brazil - 1992) và Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững
tại Johannesburg (CH Nam Phi - 2002) đã đưa ra khái niệm: "Phát triển bền vững là một
quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển là
phát triển kinh tế, phát triển xã hội, và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng những nhu cầu
của đời sống con người trong hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng những
nhu cầu của thế hệ tương lai".
PTBV đòi hỏi các lĩnh vực sinh thái, kinh tế và xã hội phải kết hợp chặt chẽ và phát
triển một cách hài hòa. Điều đó có nghĩa là khi đẩy mạnh PTBV cần phải chú ý quan tâm
thiết lập sự liên kết gắn bó của các mục tiêu sinh thái (bảo vệ môi trường và tự nhiên),
kinh tế (sự phát triển kinh tế) và xã hội (công bằng xã hội) và sự tác động tương hỗ giữa
ba lĩnh vực này. PTBV không phải là ngừng phát triển để bảo tồn các tài nguyên thiên
nhiên mà phát triển theo những nguyên tắc mới, quy luật mới và những chiến lược mới
1.2. Khái niệm giáo dục vì sự phát triển bền vững
Khái niệm GDVSPTBV đã bắt đầu được tìm hiểu và nghiên cứu từ khi Đại hội
đồng Liên hợp quốc năm 1987 chính thức thừa nhận khái niệm PTBV. Từ năm 1987
đến 1992 khái niệm GDVSPTBV đã dần được định hình và phát triển. Từ năm 1992
đến nay, tầm nhìn của cộng đồng thế giới về GDPTBV đã có những bước tiến quan
trọng.
GDVSPTBV có một trọng trách cao cả là mở ra cho tất cả mọi người cơ hội giáo
dục, cho phép họ tiếp thu được các tri thức và các giá trị cũng như học được những
phương thức hành động và phong cách sống cần thiết cho một tương lai đáng sống và sự
thay đổi xã hội một cách tích cực nhằm mục tiêu ‘‘đưa con người vào vị trí mà nó có thể
đóng vai trò tích cực trong việc tạo ra một hiệu quả bền vững về mặt sinh thái, kinh tế và
tạo nên một môi trường xã hội công bằng, trong khi vẫn duy trì được…trên phạm vi toàn
cầu’’.
GDVSPTBV về cơ bản là thúc đẩy các giá trị mà trong đó sự tôn trọng được đặt ở
vị trí trung tâm (UNESCO, 2005), cụ thể là :
Tôn trọng phẩm giá và các quyền con người, cam kết tạo sự công bằng về kinh tế,
xã hội cho tất cả mọi người
Tôn trọng các quyền con người của thế hệ mai sau và cam kết thực hiện trách
nhiệm giữa các thế hệ.
Tôn trọng và quan tâm tới môi trường sống đa dạng của con người và thiên nhiên
trong đó không thế tách rời việc khôi phục và bảo tồn hệ sinh thái của Trái đất.
Tôn trọng tính đa dạng của văn hóa và cam kết xây dựng một nền văn hóa hòa
bình, không bạo lực và khoan dung ngay tại địa phương và trên toàn cầu.
Như vậy, GDPTBV là một khái niệm mang tính "đột phá", là cách nhìn mới về giáo
dục, tìm kiếm sự cân bằng giữa con người và kinh tế với các truyền thống văn hóa, sự tôn
trọng các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Trái đất. Bằng việc ứng dụng các phương
pháp giáo dục và sự tiếp cận khác nhau, GDPTBV là một quá trình học tập suốt đời, bồi
dưỡng kĩ năng, thái độ, hành động vì một xã hội lành mạnh về môi trường sinh thái, thịnh
vượng về kinh tế và tôn trọng nhu cầu của các thế hệ hiện tại và tương lai.
2. Nội dung của GDPTBV
GDVSPTBV bao trùm tất cả các lĩnh vực văn hóa- xã hội, môi trường và kinh tế, bao
gồm 15 nội dung cơ bản thuộc 3 lĩnh vực:
- Văn hóa- xã hội: quyền con người, hòa bình và an ninh, quyền bình đẳng giới, đa
dạng văn hóa và giao thoa văn hóa, sức khỏe, HIV/AID, thể chế.
- Môi trường: các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự thay đổi của khí hậu, phát triển
nông thôn, đô thị hóa bền vững, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
- Kinh tế: xóa đói giảm nghèo, tinh thần và trách nhiệm tập thể, kinh tế thị trường và
không gian học tập.
3. Khả năng sử dụng tranh biếm họa phục vụ GDVSPTBV trong dạy học Địa lí
THPT
Nội dung chương trình và sách giáo khoa Địa lí THPT được thiết kế theo quan
điểm đổi mới và thể hiện rất rõ Địa lí không chỉ dừng lại là một môn học có “tính môi
trường” nhất mà còn có “tính không gian” và “tính thời sự” nhất trong giáo dục phổ
thông. Với những đặc trưng nổi trội đó, bộ môn Địa lí có một ưu thế đặc biệt trong việc
hiện thực hóa những mục tiêu của GDVSPTBV bởi vì chương trình và SGK Địa lí đã
mang đến cho người học một cái nhìn chân thực về bối cảnh mà họ đang sống, về những
vấn đề kinh tế - xã hội đang diễn ra từng ngày từng giờ ở địa phương, ở các vùng miền
trong nước và cả ở các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới, những vấn đề có ảnh
hưởng không chỉ với cá nhân người học mà còn là vấn đề sống còn đối với toàn nhân
loại...
Việc sử dụng tranh biếm họa phục vụ GDPTBV trong chương trình và SGK Địa lí
THPT có thể được tiến hành ở rất nhiều bài học thuộc chương trình của các lớp 10, 11 và
12. Dưới đây là một số bài học có thể sử dụng tranh biếm họa phục vụ GDVSPTBV.
Bảng 1: Những bài học có khả năng sử dụng tranh biếm họa phục vụ
GDVSPTBV trong dạy học địa lí THPT
Địa
Stt Tên bài học
lí
lớp
1
Nội dung GDPTBV có thể sử dụng tranh
biếm họa
Bài 22: Dân số và 10
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sinh, tỉ lệ tử
sự gia tăng dân số
- Hậu quả của tăng dân số đối với phát triển
kinh tế - xã hội và môi trường
2
Bài 24: Phân bố 10
Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến phát
dân cư, các loại
triển kinh tế - xã hội
hình quần cư và
đô thị hóa
3
Bài
42:
Môi 10
- Ô nhiễm môi trường và hậu quả của nó đối với
trường và sự phát
con người
triển bền vững
- Khai thác tài nguyên ở các nước đang phát
triển
4
Bài 1: Sự tương 11
- Sự tương phản về trình độ phát triển kinh tế -
phản về trình độ
xã hội của các nhóm nước phát triển và đang
phát triển kinh tế -
phát triển.
xã hội của các
- Các tác động của cuộc cách mạng khoa học
nhóm nước. Cuộc
công nghệ tới sự phát triển kinh tế - xã hội và
cách mạng khoa
môi trường.
học và công nghệ
hiện đại.
5
Bài 3: Một số vấn 11
- Vấn đề bùng nổ dân số ở các nước đang phát
đề mang tính toàn
triển và già hóa dân số ở các nước phát triển.
cầu
- Một số biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của
ô nhiễm môi trường, nhận thức được sự cần
thiết phải bảo vệ môi trường.
- Sự cần thiết phải bảo vệ hòa bình và chống
nguy cơ chiến tranh.
6
Bài 5: Một số vấn 11
- Vấn đề khai thác cạn kiệt tài nguyên và sự cần
đề của châu lục và
thiết phải bảo vệ môi trường ở Châu Phi.
khu vực.
- Dân số tăng nhanh, chất lượng cuộc sống còn
Tiết 1: Một số vấn
thấp, bệnh tật, chiến tranh đe dọa, xung đột tôn
đề của châu Phi.
giáo, sắc tộc…
Tiết 3: Một số vấn
- Xung đột sắc tộc, tôn giáo và nạn khủng bố
đề của khu vực
kéo dài đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng
Tây Nam Á và
về kinh tế, văn hóa- xã hội và môi trường.
khu vực Trung Á.
7
Bài 11: Khu vực 11
- ĐNA là khu vực kinh tế phát triển năng động
Đông
nhất thế giới.
Nam
Á
(ĐNA)
- Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội,
khai thác tài nguyên và bảo vệ tài nguyên ở
ĐNA.
- Các nước ĐNA tăng cường liên kết trong
ASEAN.
8
Bài 14: Sử dụng 12
và
bảo
nguyên
nhiên
vệ
tài
thiên
- Sự suy thoái tài nguyên rừng, đa dạng sinh
học, đất….và những hậu quả của nó
- Sự cần thiết phải sử dụng hợp lí và bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên.
9
Bài 15: Bảo vệ 12
- Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
môi
- Các giải pháp chống ô nhiễm môi trường và
trường
phòng
và
chống
giảm nhẹ thiên tai.
thiên tai
10 Bài 16: Đặc điểm 12
Hậu quả của tăng nhanh dân số và phân bố dân
dân số và phân bố
cư không hợp lí đến phát triển kinh tế - xã hội
dân cư
và tài nguyên – môi trường.
11 Bài 28: Tổ chức 12
lãnh
thổ
Ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp
công
nghiệp
12 Bài 30: Vấn đề 12
- Những bất cập của ngành giao thông vận tải
phát triển ngành
nước ta
giao thông vận tải
- Tai nạn giao thông
và thông tin liên
lạc
13 Bài 31: Vấn đề 12
phát triển thương
- Ô nhiễm môi trường ở các khu du lịch
- Sự suy thoái tài nguyên du lịch
mại và du lịch
Việc tích hợp, lồng ghép các nội dung của GDVSPTBV vào các bài học Địa lí là
con đường ngắn nhất để có thể giúp người học hình thành những kiến thức, kĩ năng,
những triển vọng và giá trị hướng về một tương lai bền vững hơn. Tuy nhiên, chương
trình SGK Địa lí THPT còn nặng nề về mặt kiến thức và đang đứng trước tình trạng quá
tải. Vì vậy việc tích hợp, lồng ghép các nội dung của GVVSPTBV vào các bài học Địa lí
cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc chọn lọc tập trung
Không phải bất cứ bài học nào cũng có thể lồng ghép, tích hợp nội dung
GDVSPTBV vào bài học. Nguyên tắc này yêu cầu những đơn vị kiến thức đã có sẵn
trong bài học địa lí thì cần phải khai thác tối đa, đảm bảo truyền tải nội dung học toàn cầu
một cách tốt nhất. Làm được điều đó, GDVSPTBV sẽ tập trung vào một số điểm nhấn
nhất định tác động mạnh mẽ tới người học, tránh lan man, trùng lặp khiến học sinh khó
tiếp thu kiến thức trọng tâm.
Nguyên tắc đảm bảo tính đặc trưng của môn học
Nguyên tắc này đòi hỏi khi tích hợp nội dung GDVSPTBV phải dựa vào nội dung bài
học Địa lí. Điều đó có nghĩa là các kiến thức GDVSPTBV đưa vào bài học phải kết hợp
chặt chẽ với các kiến thức có sẵn trong bài học, phát huy “tính không gian”, “tính thời sự”
và “tính môi trường” nhất của bộ môn Địa lí.
Nguyên tắc không gây quá tải
Các kiến thức GDVSPTBV đưa vào bài phải có hệ thống, tránh sự trùng lặp,
phải thích hợp với trình độ học sinh, không gây quá tải đối với nhận thức của học sinh
trong việc lĩnh hội nội dung chính của bài học. Theo nguyên tắc này, những kiến thức
đưa vào bài cần được sắp xếp đúng chỗ, hợp lí, làm cho kiến thức môn học thêm
phong phú, sát với thực tiễn và logic của môn học, kết cấu bài học không bị phá vỡ.
Nguyên tắc đảm bảo tính thực tế
Các nội dung của GDVSPTBV được đưa vào bài học phải xuất phát từ các
vấn đề và triển vọng của chính bối cảnh xã hội mà người học sống trong đó. Sự
cảm nhận về tính thiết thực, gần gũi và được vận dụng những trải nhiệm trong cuộc
sống hàng ngày vào chính những bài học là động lực, cảm xúc đối với người học để
họ nhận thức sâu sắc hơn đối với vấn đề và tiếp thu thêm các giá trị.
II. TRANH BIẾM HỌA - MỘT CÔNG CỤ HỮU HIỆU CỦA DẠY HỌC ĐỊA LÍ
HIỆN ĐẠI ĐỂ ĐỐI MỚI TỔ CHỨC DẠY HỌC PHỤC VỤ GDVSPTBV
1. Khái niệm về tranh biếm họa
Thuật ngữ “tranh biếm họa” xuất hiện từ giữa thế kỉ 19 và nó được mọi người biết
đến đầu tiên trên các báo và tạp chí. Từ “tranh biếm họa” bắt nguồn từ chữ Latinh
“caricare” có nghĩa là: mô tả một cách hài hước, cường điệu và nó được sử dụng như
những bức tranh minh họa có tính chất hài hước hay châm biếm. Theo Gymnasium
Niedersachsen (CHLB Đức): “Tranh biếm họa chính là sự mô tả bằng hình ảnh, cường
điệu hóa, đơn giản và dễ nhớ bằng cách cô đọng nội dung, thực hiện với ý nghĩa chỉ trích
sâu sắc. Một số tranh biếm họa có thêm yếu tố ngôn ngữ nhằm mô tả một cách tổng quan
nội dung”.
Nội dung mà tranh biếm họa chú trọng hướng tới là những vấn đề xã hội có tính chất
thời sự, những người nổi tiếng, những sự kiện, xu hướng phát triển của xã hội và những
chủ đề cần có ý kiến bình luận và đánh giá. Sức mạnh và khả năng dẫn truyền thông tin
của tranh biếm họa nằm ở khả năng hiện thực hóa những vấn đề phức tạp, rắc rối. Điều đó
giúp cho người đọc cảm thấy sự thú vị sâu sắc của những vấn đề mà trước đây trên các
kênh thông tin khác họ có thể chưa nắm vững. Tranh biếm họa chứa đựng mâu thuẫn giữa
vẻ bề ngoài hài hước và lối diễn đạt bên trong thâm thúy, sâu sắc khiến người xem phải
suy nghĩ, tìm hiểu.
2. Các loại tranh biếm họa
Có 4 loại tranh biếm họa đó là: tranh biếm họa chính trị, tranh biếm họa hài hước,
tranh biếm họa châm biếm và chùm tranh biếm họa vui.
2.1. Tranh biếm họa chính trị
Theo nghĩa rộng tranh biếm họa
chính
trị là lời bình luân sâu sắc của tác giả đối
với
những biến đổi của tình hình xã hội. Nó
có tác
dụng kích thích thái độ hoặc đánh giá lại
những
giá trị của xã hội. Tranh biếm họa chính
trị còn
mang tính chất phê phán một cách sâu
sắc, tế
nhị những mặt trái của vấn đề xã hội và
những
nhân vật nổi tiếng có tầm ảnh hưởng
lớn. Phần quan trọng nhất trong tranh biếm họa chính trị là sự bàn luận và làm nổi bật
những
Hình 1: Bóc lột công nhân ở Indonexia
vấn đề có tính chất thời sự. Mục đích chính của tranh biếm họa là sự khuyến khích người
đọc đồng tình với những quan điểm, cách nhìn của tác giả đối với vấn đề đó. Tranh biếm
họa chính trị rất đa dạng về phong cách nghệ thuật.
Chúng ta có thể sử dụng tranh biếm họa chính trị để trang bị cho học sinh vốn kiến
thức xã hội và khả năng bình luận,
đánh
giá đối với những vấn đề chính trị-
xã
hội.
2.2. Tranh biếm họa hài hước
Tranh biếm họa hài hước thường là những bức tranh tương đối nhỏ phụ thêm vào những
bài báo hoặc những những bản tin. Nụ cười mà tranh biếm họa hài hước mang đến
thường có tính chất vui vẻ thông qua những yếu tố phóng đại.
Hình 2: Sáng kiến thời xăng giá cao
2.3. Tranh biếm họa châm biếm
Tranh biếm họa châm biếm thường được minh họa trên các sách báo. Nó sử dụng
những yếu tố được phóng đại, cường điệu hoặc bóp méo, xuyên tạc những đặc điểm quan
trọng về một người hoặc một nhóm người để tạo ra những chân dung có thể dễ dàng nhận
dạng bằng thị giác.
Hầu hết tranh biếm họa chính trị và tranh biếm họa châm biếm đều tập trung vào
khắc họa chân dung của những nhân vât có tầm ảnh hưởng lớn đối với xã hội. Một vài
tranh biếm họa châm biếm khi khắc họa những nhân vật nổi tiếng thường sử dụng lối đả
kích và đôi khi nó còn mang tính chất khiêu khích nhạo báng.
Hình 3: Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam
Tranh biếm họa châm biếm độc lập khác với những tranh biếm họa chính trị bởi
một khía cạnh quan trọng. Tranh biếm họa chính trị, ý tưởng đến trước và những tác
phẩm nghệ thuật từ đó mới xuất hiện. Còn tranh biếm họa châm biếm thì là những nét vẽ
thêm vào đối với chân dung của những nhân vật nổi tiếng.
2.4. Chùm tranh biếm họa vui
Tranh biếm họa vui là một tập hợp những bức tranh rời nhau để minh họa cho một
câu chuyện. Tranh biếm họa vui cũng có thể mang đến những nụ cười thú vị, khoái trá và
đôi khi chúng cũng có vai trò như tranh biếm họa chính trị.
Hình 4: Chùm tranh biếm họa vui
Cả bốn loại tranh biếm họa đã nêu trên đều có khả năng sử dụng trong dạy học Địa
lí, mỗi loại có một đặc điểm riêng thích hợp với những bài học và từng nội dung học tập
khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta nên sử dụng tranh biếm họa chính trị và tranh biếm họa
hài hước vì hai loại tranh này một mặt vừa kích thích sự tò mò, tư duy phê phán, khả
năng suy nghĩ độc lập của học sinh đối với các sự kiện mang tính chất thời sự và vừa sức
đối với nhận thức của học sinh, mặt khác nó tạo ra tiếng cười thú vị, sâu sắc làm cho
không khí lớp học sôi nổi.
Giáo viên có thể tùy chọn từng loại tranh biếm họa sao cho phù hợp với mục đích
giáo dục cũng như nội dung của bài học để có thể mang lại những hiệu quả cao nhất.
3. Những thành tố của tranh biếm họa
Tranh biếm họa bao gồm những thành tố sau:
- Xem thêm -