Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn tiếp cận bài thơ “đây thôn vĩ dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ...

Tài liệu Skkn tiếp cận bài thơ “đây thôn vĩ dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ

.DOC
21
186
99

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. TIẾP CẬN BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” THÔNG QUA HỆ THỐNG NGÔN NGỮ A.Đặt vấn đề I.Lời mở đầu Đã nhiều năm trở lại đây, việc dạy và hoc văn trong nhà trường đang ở tình trạng đáng báo động. Hiện tượng học sinh trong các trường phổ thông không thích học môn Văn ngày càng nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều. Có thể do các trường đại học thuộc khối C không hấp dẫn như các trường Đại học khối A, và khi ra trường rồi các cử nhân theo học khối C lại khó kiếm việc làm hơn...Bên cạnh đó, theo tôi còn có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó chính là nội dung chương trình và phương pháp tiếp cận tác phẩm văn chương chưa thật thích hợp, dẫn đến những tiết dạy học văn trở nên tẻ nhạt, kém hiệu quả. Mặc dù việc nghiên cứu tác phẩm văn chương từ phương diện nghệ thuậtcó sử dụng tiếng Việt vào quá trình phân tích, đã được nhiều tác giả đề cập tới nhưng những bài viết về đề tài này gắn với đối tượng là học sinh còn ít hoặc có thì cũng chưa sát với đối tượng (nội dung bài viết hoặc quá dài hoặc quá sơ lược). Trên đây là những lí do khiến tôi lựa chọn đề tài này. II.Thực trạng của việc phân tích tác phẩm văn chương trong nhà trường 1.Thực trạng Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 1 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Phân tích tác phẩm văn chương là một nội dung quan trọng trong chương trình THPT. Tuy nhiên có một thực tại khá phổ biến hiện nay ở các trường phổ thông là học sinh thường phân tích tác phẩm một cách sơ lược, chung chung dẫn tới lan man xa đề. Các tác phẩm văn chương thường được học sinh giải nghĩa lại theo cách của mình thậm chí là diễn nôm thơ văn. Việc phân tích nghệ thuật (phương diện ngôn ngữ) chỉ được chú ý như một cách chiếu lệ. Trong khí đó giá trị của một tác phẩm tập trung nhiều ở phương diện này. Khi chung ta tìm hiểu phân tích một tác phẩm văn chương không chỉ dừng lại ở việc xem tác phẩm đó viết cái gì (nội dung) mà ta còn phải nghiên cứu xem tác phẩm đó viết như thế nào(nghệ thuật). Và đặc biệt là ta phải chú ý tới hệ thống ngôn từ mà tác giả sử dụng trong tác phẩm đó. Vì thế việc nắm vững những tri thức ngôn ngữ nói chung và tri thức về tiếng Việt nói riêng đối với học sinh là rất quan trọng và cần thiết để có được những kĩ năng phù hợp trong việc tiếp cận một tác phẩm văn chương. 2. Kết quả của thực trạng trên Từ thực trạng của việc dạy và học văn như đã nêu ở trên, đã vô hình chung dẫn tới giờ dạy văn tẻ nhạt, học sinh không có say mê với những giờ học văn nữa và môn Văn đã dần mất đi vai trò độc tôn của nó. Vì thế, để cho giờ dạy văn không bị rơi vào tình trạng bị đát, học sinh có hứng thú hơn đối với việc học các giờ đọc hiểu văn bản cũng như các giờ dạy tiếng Việt. Do đó, sau nhiều lần nghiên cứu và thực hiện, trong khuôn khổ của sáng kiến này, tôi mạnh dạn trình bày một số vấn đề liên quan đến hướng tiếp cận tác phẩm từ phương diện ngôn từ và việc ứng dụng hướng tiếp cận này vào tìm hiểu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 2 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. B.Giải quyết vấn đề I.Các giải pháp thực hiện 1.Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân Ngôn ngữ từ lâu được coi là tài sản chung của toàn xã hội nên nó mang bản chất xã hội và thực hiện chức năng giao tiếp xã hội. Cũng giống như tiền, cả xã hội phải dùng chung đồng tiền để trao đổi hàng hoá, thì ngôn ngữ lại được dùng chung để trao đổi thông tin. Vì vậy ngôn ngữ mạng tính chất chung phổ biến với mọi cá nhân trong xã hội. Tính chung đó biểu hiện ở hai mặt: Hệ thống đơn vị ngôn ngữ chung: mỗi cá nhân đều sở hữu đơn vị ngôn ngữ chung như là các âm thanh, các âm tiết, các từ và cả các cụm từ cố định. Mặt khác, các cá nhân trong xã hội đều tích luỹ được và sử dụng được các hệ thống quy tắc chung. Có thể là quy tắc về phương diện kết hợp (quy tắc ngữ pháp). Ví dụ như kết hợp giữa danh từ với tính từ: nắng mới, bàn vuông, áo mới... Nhưng cũng có thể là quy tắc kết hợp cấu tạo câu, quy tắc chuyển nghĩa của từ...Hệ thống quy tắc chung ấy tạo nên nền hoặc kiến thức bách khoa và được mọi người tiếp thu, thừa nhận và vận dụng trong giao tiếp. Song từ hệ thống ngôn ngữ chung ấy, mỗi người lại có lời nói cá nhân. Lời nói cá nhân là sản phẩm được tạo ra từ ngôn ngữ chung nhưng mang đặc điểm của cá nhân. Đặc điểm của cá nhân cũng được thể hiện ở nhiều phương diện. Trước hết là ở mặt ngữ âm. Khi nói mỗi cá nhân có giọng nói riêng, sắc thái riêng nhờ thế qua giọng nói ta có thể nhận biết được con người. Vì thế mà Phạm Tiến Duật từng khẳng định: “Cô gái làm duyên phải nhờ giọng nói” Trong lời nói cá nhân có vốn từ vựng cá nhân. Kho từ vựng là của chung xã hội. Nhưng mỗi cá nhân lại tích luỹ một vốn từ vựng nhất định. Và theo sở thích, cá nhân thường ưa dùng một số từ ngữ nhất định. Ví dụ: Nhân vật cụ cố Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng luôn miệng nói một câu: “Biết rồi khổ lắm nói mãi”. Xuân Diệu sử dụng rất nhiều số từ Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 3 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. không được xác định cụ thể như: “ít nhiều” “hơn một”. Hay đến với thơ Hàn Mặc Tử, ta lại bắt gặp thế giới của “trăng”, “máu” và “hoa”... Ngoài ra, yếu tố môi trường sinh sống, nghề nghiệp cũng chi phối vốn từ ngữ cá nhân. Ví dụ: Là bác sĩ, cá nhân thường sử dụng những từ ngữ, ngôn từ của ngành y. Trong từ ngữ cá nhân có thể sử dụng những từ ngữ chung của toàn xã hội. Hay từ vốn ngôn ngữ chung của cộng đồng, mỗi cá nhân lại có những từ ngữ chuyên dùng do sự chuyển nghĩa theo cách thức riêng của cá nhân. Do đó hiệu quả biểu đạt vẫn mang sắc thái cá nhân. Thứ hai là xét về mặt ngữ pháp thường có tính chất ổn định ít biến đổi. Nhưng trong lời nói cá nhân vẫn có hiện tượng ngữ pháp mới. Những hiện tượng đó ban đầu còn mang tính chất lâm thời, tính chất cá nhân nhưng dần dần được xã hội công nhận và sử dụng rộng rãi thì sẽ trở thành ngôn ngữ chung. Ví dụ: Nhân dân ta đã sống một cuộc chiến đấu sôi nổi. (Phạm Văn Đồng) Trong ví dụ trên, ta thấy từ “sống” vốn dĩ là nội động từ. Nhưng trong trường hợp này, “sống” lại dữ vai trò là ngoại động từ: sống cái gì ?-sống một cuộc chiến đâu sôi nổi. Tóm lại: mối quan hệ giữa ngôn ngữ xã hội và lời nói cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái ổn định và cái lâm thời. Giữa cái đã có và cái mới có. Ngôn ngữ chung là cơ sở để hình thành lời nói cá nhân. Lời nói cá nhân là sản phẩm chung nhưng đồng thời lời nói cá nhân cũng chính là mảnh đất làm nảy sinh và phát triển ngôn ngữ chung của toàn xã hội. Cái chung tồn tại trong cái riêng và cái riêng góp phần phát triển cái chung. 2.Sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 4 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Từ cơ sở thực tiễn ở trên, mỗi nhà thơ nhà văn đã chọn lọc, sáng tạo vốn ngôn ngữ chung của toàn xã hội và đưa vào trong tác phẩm nghệ thuật nhằm xây dựng những những hình tượng nhân vật, những hình ảnh thẩm mĩ theo cách riêng của cá nhân mình. Có những tác giả để chọn lựa từ ngữ họ phải huy động cả một trường từ vựng ra để lữa chọn những ngôn từ sao cho độc đáo nhất, đặc sắc nhất, phù hợp nhất. Chẳng hạn như nhà thơ Tản Đà, ông đã phải thay đi thay lại và cuối cùng thì đã lữa chọn từ “khô” trong câu thơ: “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Hay Huy Cận cũng đã từng băn khoăn, trăn trở và cuối cùng đã quyết định sử dụng từ “sâu chót vót” trong bài thơ Tràng Giang... Do đó để hiểu rõ về một tác phẩm văn chương và giúp học sinh có được cách cảm nhận tác phẩm văn học một cách dễ dàng nhất thì ta cần tìm hiểu tác phẩm đó thông qua hệ thống ngôn ngữ. Bởi vì khám phá hệ thống ngôn ngữ chính là chìa khoá giúp ta khám phá ra nội dụng, nghệ thuật và tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Và muốn khai thác được hệ thống ngôn từ ấy, ta cần phải có vốn từ vựng phong phú, đa dạng, hiểu sâu và nắm đựơc bản chất ý nghĩa của từng từ, tựng cụm từ, hoặc từng câu, từng đoạn trong văn bản. Vậy việc tìm hiểu tác phẩm văn chương thông qua hệ thống ngôn từ và việc học tiếng Việt là cần thiết. II. Các biện pháp tổ chức thực hiện Từ thực trạng về mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân, cũng như việc sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học như đã đề cập ở trên, tôi xin được đưa ra một hướng tiếp cận bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử thông qua hệ thống ngôn từ. Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 5 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. 1.Hướng tiếp cận bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Để tìm hiểu bài thơ này, trước hết giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu phần tiểu dẫn để nắm được đặc trưng riêng của thơ Hàn Mặc Tử,một loại thơ siêu thực thuộc trường phái tượng trưng Pháp-Thơ điên. Thứ hai, tìm hiểu tiểu dẫn để hiểu rõ hoàn cảnh đặc biệt của tác giả khi ông làm bài thơ này. Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ đã lâm bệnh trọng và luôn bị ám ảnh bởi nỗi đau, cái chết và luôn khắc khoải về một ước nguyện không thành. Mặt khác, nhiều nguồn tin cho rằng, nhà thơ làm bài thơ này sau khi nhận được tấm bưu thiếp của người con gái xứ Huế mà Tử vẫn từng thầm yêu trộm nhớ có tên gọi Hoàng Thị kim Cúc. Nắm được những thông tin này sẽ góp ích cho chúng ta khi tìm hiểu nội dung của bài thơ hơn. Thứ ba, việc tìm hiểu phần tiểu dẫn còn hướng học sinh khám phá kết cấu của bài thơ cũng như hướng vận động mạch cảm xúc trong toàn bài. Nhà nghiên cứu phê bình Chu Văn Sơn cho rằng: “Nếu nhìn từ mạch cảm xúc, ta sẽ thấy có những gấp khúc, khuất khúc với những phía chợt sáng, chợt tối. Khổ đầu là một niềm ao ước thầm kín bên trong lại cất lên như một lời mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm vốn âm u lại mang gương mặt của khát khao rực rỡ; Khổ hai là một ước mong thầm khẩn thiết dâng lên thoắt hoá thành một hoài vọng chới với; Khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló rạng đã vội hoá thành một mối hoài nghi. Nếu nhìn từ cấu trúc không gian cũng thấy bài thơ có sự chuyển tiếp không gian rất tinh vi, kín mạch không dễ nhận ra. Trong phần sâu của nội dung có ba cảnh chính: vườn xa, cảnh xa, khách đường xa. chúng hợp thành cái thế giới ngoài kia, để đối lập với cái “ở đây”. Nó tạo nên một sự đối lập quái ác giữa cuộc đời và lãnh cung, trần gian tươi đẹp và trời sâu ảm đạm, sống và không sống, gắn bó và chia lìa”. Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 6 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Như vậy việc tìm hiểu tiểu dẫn bước đầu cho học sinh cảm nhận về nội dung cũng như mạch cảm xúc của toàn văn bản. Bên cạnh việc tìm hiểu phần tiểu dẫn, giáo viên cho học sinh đọc và cảm nhận tác phẩm. Với việc tri giác bằng mắt thông qua hệ thống ngôn ngữ, một lần nữa giúp học sinh dần dần cảm nhận được, nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn từ như thế nào. Và qua đó có thêm cái nhìn mới về tác phẩm. Việc đọc văn bản là vô cùng quan trọng. Đọc sao cho phải vang lên được những từ hay, những từ độc đáo, và đặc biệt là nhịp điệu trong văn bản. Sau khi đọc và nêu cảm nhận ban đầu của mình về bài thơ này, thì giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu văn bản thông qua hệ thống ngôn ngữ. Để làm sao thông qua hệ thống ngôn ngữ có thể giúp các em có cái nhìn đầy đủ và chính xác nhất về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. 2.Đọc hiểu bài thơ thông qua hệ thống ngôn ngữ Ở phần đọc hiểu văn bản, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu từng khổ thơ một trên phương diện khai thác hệ thống ngôn từ của từng khổ thơ. Nhưng một điều lưu ý là không phải bất kì từ ngữ nào chúng ta cũng khai thác. Mà chúng ta chỉ tập trung vào hệ thống những từ ngữ hay, độc đáo, mới lạ... và nhờ nó có thể làm toát lên đựơc nội dung, ý nghĩa của khổ thơ và dụng ý nghệ thuật của tác giả. 2.1.Khổ thơ thứ nhất: Bước vào khổ thơ thứ nhất, điều đầu tiên chúng ta cần khai thác là câu hỏi tu từ mở đầu khổ thơ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi này đã từng gây tranh luận cho nhiều người và có rất nhiều nhà nghiên cứu từng cất công lặn lội kiếm tìm câu trả lời chính xác nhất xem câu hỏi Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 7 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. này là của ai? –câu hỏi từ người thôn Vĩ hay là câu hỏi của chính thi nhân. Nhưng cuộc tranh luận ấy cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Vì thế giáo viên có thể đưa ra cho học sinh vấn đề này để các em thảo luận sao cho có cách lý giải thuyết phục nhất. Ở bài viết này, tôi xin dẫn ra hai cách hiểu: Trước hết có thể hiểu câu hỏi trên là lời từ thôn Vĩ. Nếu là lời từ thôn Vĩ thì khi đọc câu thơ ta cần có sự nhấn giọng ở chữ “sao” đứng vị trí đầu câu. Như vậy thì câu thơ có ý nghĩa như một lời trách cứ nhẹ nhàng và hơn nữa thì đó lại là lời mời mọc tinh tế, khéo léo. Thôn Vĩ nhớ thường anh, mong chờ anh vậy mà sao không thấy anh về chơi. Vì vậy nó khiến anh càng cảm thấy băn khoăn càng cảm thấy mình như mắc lỗi. Thứ hai, nếu ta đặt khổ thơ trong mối tương quan với toàn bài thì ta lại bắt gặp đây không phải là câu hỏi duy nhất. Cả bài thơ có ba câu hỏi tu từ chia đêu cho ba khổ. Vì thế có thể hiểu câu hỏi tu từ này là của chính tác giả. Một câu hỏi không cần giải đáp mà nhà thơ có thể hiểu được rất rõ câu trả lời. Ông không về được vì đường xa, vì bệnh trọng và hơn thế nữa còn vì mặc cảm của thân phận. Không về được nhưng lại nhớ mong da diết, nhớ đến cồn cào. Bởi thế câu thơ như chứa đựng một mối mâu thuẫn lớn giữa mong muốn mà không làm được, không thực hiện được. Tác giả đạng tự phân thân mình để hỏi chính mình về một việc cần làm, đáng ra phải làm từ lâu mà giờ đây không còn cơ hội để thực hiện nữa. Sự phận thân và những sắc thái cảm xúc đan xen trong cùng một câu hỏi đã cho thấy ao ước trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt, vừa uẩn khúc đến nhường nào. Câu hỏi cứ xoáy mãi vào tâm tưởng và trở thành niềm day dứt trước một ước nguyện không thành. Ao ước đấy, song đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình. Từ khao khát trở về thôn Vĩ như vậy, những câu thơ tiếp theo là dòng hồi ức của thi sĩ về thôn Vĩ Dạ đã được hiện lên. “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 8 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Căn cứ vào ngôn ngữ, ta thấy mỗi câu là một chi tiết vườn. Và ở đây, thi sĩ không đi vào miêu tả trực tiếp về vườn Vĩ Dạ mà thông qua hệ thống ngôn từ có sức gợi cảm cao giúp người đọc tưởng tượng ra vẻ đẹp thanh tú, tinh khiết từ khu vườn thôn Vĩ. Lớp ngôn từ đầu tiên mà chúng ta cần khai thác đó là “nắng hàng cau, nắng mới lên”.Ngôn ngữ hết sức giản dị nhưng lại có sức gợi mãnh liệt đến thế. Câu thơ hay không chỉ bởi những gì nó mang sẵn mà còn vì những gì nó có thể gợi ra để bạn đọc đồng sáng tạo. Có nhiều người thắc mắc, tại sao nhà thơ lại tả cau đầu tiên mà không phải loại cây gì khác? Tả cau là một dụng ý của tác giả. Thứ nhất, cau là loại cây gắn liền với người dân xứ Huế và thường được trồng rất nhiều ở các khu vườn Vĩ Dạ. Thứ hai, nếu ta từng gắn bó với loại cây này, ta sẽ dễ dàng nhận thấy, đây là loại cây thân cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó có thể là loại cây cao nhất. Vì thế đi từ xa về, hoặc đến thăm Vĩ Dạ thì đây là hình ảnh đầu tiên ta có thể nhìn thấy và do đó cau có sức gợi lớn đối với những ai đã từng đến Vĩ Dạ. Mặt khác, nhờ thân cao cho nên nó là cây đầu tiên nhận được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Bởi thế mà tinh khôi, tinh khiết. Trong đêm, lá cau được tắm gội trên cao, sắc xanh như mới được hồi sinh trong bóng tối để rồi dưới nắng mai lại rời rợi thanh tân. Nắng trên lá cau thành nắng ướt, nắng long lanh, nắng non. Bởi thế mà thanh khiết. Mặt khác, cau có dáng mảnh dẻ, trong nắng sớm, bóng đổ xuống vườn, in xuống lối đi những nét thật mảnh, thật thanh thoát. Mặt khác, hàng cau vừa gợi vẻ cao sang cổ kính của những thú chơi tao nhã của các nhà nho thuở xưa với hình ảnh: ‘chim gù, cá lạch, cảnh cau” nhưng nó lại vừa gợi sự ngay ngắn thẳng hàng, lề lối của một khuôn viên đẹp. Để có được khuôn viên ấy đòi hỏi chủ nhân của khu vườn thôn Vĩ cũng phải là Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 9 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. những người có con mắt thẩm mĩ. Như thế thì vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế không chỉ do thiên tạo mà còn do nhân tạo-có sự chăm sóc, tỉa tót của con người. Lớp ngôn từ thứ hai mà chúng ta cần khai thác ở ba câu này đó là: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Mà trước hết là từ “mướt”. Đây là một tính từ chỉ sự mỡ màng của lá cây trong khu vườn Vĩ Dạ. Nhưng trong câu thơ này, nó không dừng lại ở việc miêu tả độ mướt- độ mỡ màng mà còn như bao hàm trong nó một sức sống căng tràn, một nội lực từ bên trong đành phô ra ngoài lá cây, cành cây một sự mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc. Đi kèm từ “mướt” là tứ “quá”. Vốn dĩ đây là từ dùng để chỉ mức độ,nhưng trong câu thơ này, nó như một tiếng ngỡ ngàng trầm trồ như chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn Vĩ Dạ. Và để cụ thể hoá sắc xanh của khu vườn, thi sĩ đã dùng nghệ thuật so sánh: “xanh như ngọc” . Ngọc là một tinh thể trong suốt nên vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh, mà còn đang toả vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Sắc xanh ngọc đủ để gợi lên một vẻ đẹp cao sang, quý phái, trong sáng của khu vườn. Thiếu đi những ánh sắc ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú, cao sang được. Mặt khác so sánh sắc xanh của khu vườn với màu ngọc và kết hợp với từ “quá” làm cho câu thơ như một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ khi bất chợt nhận ra vẻ đẹp của khu vườn. Để từ đó, thi sĩ như muốn tuyệt đối hoá vẻ đẹp đẽ, quý giá, cao sang của đối tượng. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện khi niềm tha thiết với cuộc đời trần thế dâng trào tới mức đau đớn. Càng đẹp bao nhiêu thì lại càng đau đớn bấy nhiêu. Vì thế cách so sánh này đã đem lại cho ta hai tâm thái: cảm giác càng tinh tế thì cảm xúc càng đau thường. Bởi vì khu vườn thôn Vĩ trong cảm nhận của nhà thơ càng đẹp bao nhiêu khiến ông càng khao khát bấy nhiêu nhưng bản thân nhà thơ lại không thể về thăm thôn Vĩ được nữa, không thể tận hưởng cảnh đẹp kia được nữa. Và như thế thì cái đẹp lộng lẫy kia đang dần tuột ra ngoài tầm tay của thi sĩ. Vậy, thử hỏi làm sao lại không đau thương được. Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 10 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Khi tìm hiểu khổ thơ này, chúng ta cũng không thể bỏ qua đại từ “ai”. Vốn dĩ đây là một đại từ phiếm chỉ đã quá quen trong thơ ca Việt Nam. Nhưng trong bài thơ này, nó góp một phần không nhỏ để chuyển tải một cảm giác se xót, cảm giác về thực tại xa vời. Và khi kết hợp với những chi tiết tả vườn như đã phân tích ở trên cho ta cảm nhận về một thế giới đẹp đẽ là thế, hiện ra ngay trước mắt là vậy mà phút chốc đã hoá xa vời, đã thuộc về thế giới ngoài kia. Sắc thái phiếm chỉ bỗng chốc đã làm tất cả như lùi xa, mông lung, diệu vợi. Tất cả như đang bỏ thi sĩ để thuộc về quá khứ, vì thế nỗi đau, bi kịch của nhà thơ càng hiện lên rõ hơn. Cũng trong khổ thơ này, câu thơ thứ tư cũng gây nhiều tranh luận trong giới phê bình. Người ta băn khoăn đi tìm khuôn mặt chữ điền kia là khuôn mặt của ai? đàn ông hay đàn bà? Quả là khó khi lí giải điều này bởi đây là hình ảnh cách điệu lạc vào giữa một bức tranh tả thực. Vì thế chúng ta cũng có thể giới thiệu cho học sinh hiểu câu thơ này theo hai cách. Thứ nhất có thể lí giải khuôn mặt đó là của người xứ Huế. Và nếu là người xứ Huế thì đó là một khuôn mặt của người phụ nữ với vẻ đẹp kín đáo, đoan trang, phúc hậu. Người nào cảnh đấy cùng góp phần tôn thêm vẻ đẹp cho Vĩ Dạ. Vì vậy Vĩ Dạ luôn là niềm thương nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Thứ hai, ta vẫn có thể hiểu đó là khuôn mặt của người trở về thôn Vĩ-nhân vật trữ tình, thì đó chính là khuôn mặt của Hàn Mặc Tử nấp sau những lá trúc loè xoè. Một sự trở về vụng trộm, lén lút với cuộc đời ngoài kia. Và ở đó ta dễ nhận ra một mối mặc cảm, một tâm trạng đau thương đang đè nặng lên tâm trạng của nhân vật trữ tình. Như vậy, toàn bộ khổ thơ một là vẻ đẹp cao sang quý phái của thôn Vĩ và niềm yêu nỗi nhớ của nhà thơ. 2.2.Khổ thơ thứ hai: “Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 11 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” Để tìm hiểu khổ thơ này, trước hết, giáo viên cho học sinh đọc khổ thơ và tìm những từ ngữ cần phân tích. Trong đó đặc biệt chú ý những từ ngữ sau: Gió, mây, buồn thiu, lay, thuyền ai, bến sông trăng, chở trăng, kịp. Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu cụ thể từng từ ngữ, từng cụm từ và những từ ngữ đó được thể hiện thông qua những thủ pháp nghệ thuật nào? Biểu đạt nội dung gì? -“Gió” , “mây” là hai danh từ chỉ hình ảnh của thiên nhiên. Nhưng trong khổ thơ này, hai từ “gió “ mây” được lặp lại hai lần nhưng không phải là nhằm để nhấn mạnh mà ở đây điệp từ lại có tác dụng đẩy cảnh vật ra hai bờ chia cắt. Một thưc tại chia cắt phiêu tán đang diễn ra mà chia cắt lại diễn ra ngay ở những thực thể vốn dĩ không thể tách rời. Gió, mây là hai đối tượng luôn tồn tai song song với nhau, khó có thể chia tách.Gió có thổi thì mây mới bay, mây không thể tự chuyển dời được mà luôn phải nhờ vào sự tác động của gió. Vậy mà trong câu thơ này lại mỗi đằng đi một nẻo. Tất cả dường như đang bỏ đi: gió bay đi, mây trôi đi thậm chí đến cả dòng nước cũng buồn bã ra đi. Ở đây không đơn thuần là hình ảnh của thị giác nữa mà đó là hình ảnh của mặc cảm, một mặc cảm của sự chia lìa, chia cắt. Mặc cảm vốn chất chứa trong lòng người đã được nhuốm vào cảnh vật để rồi nhìn vào đâu cũng thấy chia lìa. -“Dòng nước buồn thiu” ở đây có thể hiểu là dòng sông Hương hay bất kỳ một dòng sông nào khác nhưng cũng có thể hiểu đó chính là dòng đời qua thủ pháp nhân hoá. “Buồn thiu”là một tính từ chỉ nỗi buồn ủ ê, ủ dột, buồn không nói lên lời. Dòng nước như mang trong mình một nỗi buồn thiu-buồn không nói thành lời. -Nhưng hay hơn cả ở hai câu đầu vẫn là từ “lay”: động thái lay, tự nó không vui không buồn, nhưng đặt trong câu thơ này nó lại mang nỗi buồn hiu hắt Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 12 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. đến thế. Nó là nét buồn phụ hoạ với gió mây, sông nước. Hay nỗi buồn của cảnh vật đang lây nhiễm, lan toả sang hồn hoa bắp khiến nó trở nên phất phơ hơn. Cảnh vật càng trở nên phiêu liêu, li tán hơn. Như vậy, thông qua việc khai thác các ngôn từ được nhà thơ sử dụng trong hai câu thơ trên đã giúp bạn đọc cảm nhận được bức tranh phong cảnh nhuốm màu sắc của sự chia lìa, chia ly, tan tác. Cả mây gió, cả dòng nước cứ lìa bỏ nhau và lìa bỏ chốn này mà đi. Duy nhất chỉ có hoa bắp là không thể nhấc mình ra đi nên đành phải khẽ lay động. Nó giống như một sự níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của một kẻ bị chia lìa. Mặt khác thông qua hệ thống ngôn ngữ, ta tiếp tục khám phá ra bút pháp tả cảnh ngụ tình. Nhà thơ như có sự đồng cảm với cảnh vật, Hàn Mặc Tử đã thấy hoa bắp côi cút bên sông nên đã vận vào mình. Mặc cảm chia lìa khiến Hàn Mặc Tử nhận ra thân phận bị bỏ rơi của chính mình. Cho nên nhìn vào đâu cũng thấy sự chia lìa tan tác Sang đến hai câu thơ sau, ta bắt gặp một không gian huyền hồ, lung linh mờ ảo với con thuyền chở trăng, bến sông trăng- khung cảnh thật lãng mạn: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” Từ ngôn từ, ta cảm nhận được hình ảnh một con thuyền không xác định cụ thể “thuyền ai”, và tất cả đều được bảo phủ bởi ánh trăng huyền ảo. Vì thế đối lập với xu thế tất cả chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng nhanh, càng vuột xa tầm sống của Hàn Mặc Tử, thì ánh trăng lúc này như một bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh với nhà thơ. Bởi thế cho nên nhà thơ nảy sinh ra khát vọng chở trăng về với mình: “có chở trăng về kịp tối nay”. Một khát vọng muốn chiếm giữ cái đẹp cho riêng mình nhưng khát vọng đó thật táo bạo, và khó thành hiện thực bởi trăng là cái đẹp mang tính phi vật thể, ta không thể hình dung ra được hình khối hay trọng lượng của nó. Vì thế khát vọng chở trăng mãi chỉ là khao khát mà thôi. Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 13 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Hai câu thơ còn hay bởi từ “kịp”. Theo tiến sĩ Chu Văn Sơn: chữ “kịp” lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ không bóng bẩy ồn ào. Nhưng nó vẫn đẹp trong quên lãng. Chữ “kịp” mới mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy...”. Bạn đọc không thể khẳng định chắc chắn rằng “tối nay” là một tối nào cụ thể. Nhưng ta nhận ra một lời khẩn cẩu khẩn khoản khẩn thiết qua giọng thơ khắc khoải và qua chữ “kịp” kia. Nếu như trăng không về kịp thì kẻ sĩ hoàn toàn rơi vào trạng thái tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. Như vậy từ “kịp” còn cho ta thấy một quan niệm sống, một tâm thế sống: sống là chạy đua với thời gian. Quan niệm này không phải hoàn toàn mới mẻ nhưng với Hàn Mặc Tử, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó không mới, bởi vì Xuân Diệu từng có quan niệm như vậy: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”. Xuân Diệu luôn thúc dục mình, dục người phải mau chóng vội vàng cuống quýt để tận hưởng từng giây, từng phút, từng giờ của cuộc sống. Và nếu không nhanh thì nó sẽ trôi đi mất. Cuộc đời con người thật ngắn ngủi. Như vậy với Xuân Diệu cái chết luôn chờ đợi mỗi người ở cuối chặng đường đi. Còn với Hàn Mặc Tử thì cái chết như đang kề cận. Một cuộc chia lìa vĩnh viễn sắp sửa diễn ra. Vì thế cái quỹ thời gian của ông đang vơi đi từng giờ, từng khắc. Và trong tình thế ấy thì chỉ có trăng là chỗ dựa là sự bấu víu cuối cùng, là điểm tựa duy nhất của thi sĩ.Vì thế nếu không kịp tối nay thì ông sợ rằng mình sẽ không còn được tận hưởng cái đẹp nơi trần thế này nữa. Cho nên từ “kịp” đọc lên, ta thấy nó khắc khoải, nó đau đáu hơn, trước một ước nguyện chân thành. Nhịp thơ cũng vì thế mà gấp gáp hơn, khẩn thiết hơn bao giờ hết. Từ việc phân tích hệ thống ngôn ngữ, ta thấy nổi bật lên ở khổ hai là thực tại chia lìa và khao khát mãnh liệt đựơc sống, được chiếm lĩnh cái đẹp của thi sĩ. 2.3. Khổ thơ thứ ba: Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 14 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. Sang khổ thơ cuối cùng, ta lại bắt một thế giới của cõi mộng, cõi ảo. Nếu ở khổ thứ nhất, nhà thơ đưa ta về với vẻ đẹp của “vườn ai”, sang khổ thơ thứ hai là vẻ đẹp của bến sông trăng thì đến khổ thơ thứ ba lại là vẻ đẹp của nhân vật khách đường xa (người tình xa). Nhân vật khách, lại đi trên con đường xa, do vậy cảm giác xa vời, cô đơn, không gần gũi càng hiện lên rõ hơn. Nhân vật khách trong sắc trắng tinh khôi, tinh khiết nhất. Màu trắng luôn là một ám ảnh và được trở đi, trở lại nhiều lần trong thơ Hàn Mặc Tử. Ta từng bắt gặp sắc trắng trong những câu thơ: -“Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang” -“Chết rồi xiêm áo trắng như tinh” Và ở bài thơ này là: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Với từ “quá”, nó là lần thứ hai xuất hiện trong bài thơ. Nếu ở khổ một là “mướt quá” thì ở khổ ba lại là “trắng quá”. Vì thế câu thơ như một tiếng kêu, một sự ngỡ ngàng, một cách cực tả sắc trắng ở độ tuyệt đối, tột cùng. Trắng đến mức lạ lùng, trắng tới mức không còn nhận ra nữa. Như vậy với sắc trắng gợi tả vẻ đẹp lung linh cho nhân vật khách. Đẹp thì đẹp đấy, tinh khôi, tinh khiết đấy nhưng nhân vật khách lại ở trên con đường xa vì thế càng khó cảm nhận hơn, càng xa vời hơn. Như vậy thì cuối cùng, mơ tưởng da diết, khắc khoải hơn hết thảy vẫn là dành cho con người, vẫn là hướng tới người tình xa. Và trong mất mát chia lìa với thế giới ngoài kia thì có lẽ với Hàn Mặc Tử, mất mát lớn nhất vẫn là phải chia lìa với người mình yêu. Vì thế đau đớn ấy đã đưa ông quay trở lại thực tại u ám của chốn lãnh cung và hằn lên trong ông một câu hỏi lớn, một hoài nghi lớn về tình đời, tình người: “Ai biết tình ai có đậm đà?” Câu hỏi chứa hai đại từ “ai”. Từ ai thứ nhất có thể dành để chỉ nhà thơ, còn từ ai thứ hai dành chỉ nhân vật khách. Câu hỏi đặt ra vấn đề liệu khi nhà thơ mất đi thì em có còn tình cảm với anh không. Từ đó giúp ta cảm nhận được một Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 15 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt, nhưng không biết cuộc đời và tình người danh cho ông được bao nhiêu và được bao lâu. Câu hỏi tu từ như xoáy sâu vào tâm khảm người đọc về bi kịch tinh thần của một con người khát khao được yêu, được sống và được cảm thông. Và cũng từ đó ta hiểu hơn nỗi cô đơn, tuyệt vọng đến đỉnh điểm của thi sĩ. III.Kết quả Việc áp dụng những trí thức về ngôn ngữ vào việc phân tích tác phẩm không thể nhận thấy kết quả rõ ràng trong một, hai năm học. Đây phải là một quá trình những giáo viên ngữ Văn tâm huyết với nghề nghiệp trong thực tế đã luôn luôn cố gắng chau dồi kiến thức lí luận văn học, kiến thức ngôn ngữ học để khám phá ngày càng sâu hơn tác phẩm, để đem lại hứng thú, đem lại những hướng tiếp cận mới cho việc phân tích tác phẩm. Chính vì thế đây không thể nói là một phương pháp hoàn toàn mới. Có chăng, tôi hi vọng qua baì viết này, các giáo viên và học sinh có ý thức hơn về tầm quan trọng của việc tiếp cận phương tiện ngôn ngữ trong quá trình giảng dạy. Từ đó hướng dẫn học sinh khám phá tác phẩm văn chươnớnao cho có hiệu quả hơn. Kết quả thu được, như đã nói khó có thể đánh giá bằng lượng. Tuy nhiên có một thực tế, phần lớn học sinh khi được cung cấp ở mức độ nhất định kiến thức về tiếng Việt thường có bước chuyển rõ Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 16 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. ràng trong các bài viết, trong trình bày, và trong các giờ thảo luận về văn chương. Việc cảm thụ tác phẩm, việc thực hành giảng dạy, vì thế cũng trở nên hợp lí có tính khoa học hơn. Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 17 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. IV.Bài học kinh nghiệm Từ kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy vệc cung cấp, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng phân tích đánh giá các yếu tố thuộc về phương diện nghệ thuật là rất quan trọng. Điều này giúp cho học sinh thói quen phân tích đánh giá một tác phẩm văn chương dựa trên những cơ sở khoa học, tránh hiện tượng “vọng văn sinh nghĩa”. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình, nhà văn đã vận dụng, phát huy tối đa khả năng gợi tưởng, gợi tả, gợi cảm của các yếu tố ngôn ngữ thông qua các biện pháp nghệ thuật. Đến lượt mình, người đọc nói chung và học sinh nói riêng phải đi từ việc phân tích các yếu tố ngôn ngữ để bóc dần các lớp nghĩa của tác phẩm. Có như vậy quá trình đồng sáng tạo, đồng giải mã giữa người viết và người đọc mới thật diễn ra trọn vẹn, đúng hướng. Với suy nghĩ như vậy, việc tìm hiểu thấu đáo các yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm trước khi lên lớp, rèn luyện cho học sinh thói quen phân tích, đánh giá phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm là việc rất có ý nghĩa, rất cần thiết đối với người giáo viên ngữ Văn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần tránh rơi vào một thái cực khác là quá chú trọng những yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật mà bỏ qua đi những đóng góp về mặt nội dung tư tưởng của tác phẩm. Luôn luôn xem xét tác phẩm như một chính thể nội dung-nghệ thuật có lẽ là thái độ đúng đắn, hợp lí nhất. Điều này cũng đúng với lời dạy của Belin-xki: “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung, gắn bó với nội dug một cách khăng khít đến nỗi, nếu tách nó ra khỏi nội dung tức là huỷ hoại bản thân nội dung ấy, ngược lại tách nội dung ra khỏi hình thức là huỷ hoại hình thức”. Mặt khác cũng phải chú ý cách khai thác hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn hoc một cách khéo léo đừng để rơi vào tình trạng giải mà ý nghĩa của từ, hay diễn Nôm văn chương một cách thuần tuý. Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 18 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. C. Kết luận Việc đề cập tới biện pháp tiếp cận tác phẩm văn chương từ những yếu tố thuộc về phương diện ngôn ngữ mà bài viết này đã đề cập chỉ là một cố gắng ban đầu để có thêm những hướng khai thác đối với tác phẩm văn chương một cách khoa học. Trên cơ sở đó nhằm góp phần làm phong phú hơn cho các giờ đọc hiểu văn bản và thu hút sự chú ý, hứng thú của học sinh đối với môn Ngữ Văn . Cũng từ đó, góp phần rèn luyện cho các em kỹ năng viết văn cũng như cách sử dụng ngôn ngữ trong đời sống ngày càng trong sáng và chính xác hơn. Trên khuôn khổ của bài viết này, tôi nghĩ rằng trong quá trình trình bày sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp, để sáng kiến kinh nghiệm cuả tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Thạch Thành, ngày 20 tháng 4 năm 2011 Người viết Nguyễn Ngọc Giang Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 19 Sáng kiến kinh nghiệm: Tiếp cận bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” thông qua hệ thống ngôn ngữ. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1.Bùi Minh Toán: “Tiếng Việt trong nhà trường”, NXB GD. 2. Chu Văn Sơn: “Văn học và thẩm binh”, NXB GD. 3.Nguyễn Duy Bình, Dạy văn dạy cái hay cái đẹp,Nxb GD,1983. 4.Võ Bình,Lê Anh Hiền,Cù Đình Tú,Nguyễn Thái Hoà, Phong cách học tiếng Việt-NXBGD Việt Nam 1982. 5.Bộ Giáo Dục-Cục Đào tạo và bồi dưỡng, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, NXBGD,1977. 6.Nguyễn Thái Hoà, Đinh Trọng Lạc, Phong cách học Tiếng Việt-NXB GD Giáo viên: Nguyễn Ngọc Giang-Trường THPT-Thạch Thành 1 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng