ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
- K49 BÁO CHÍ –
********************
TIỂULUẬN GIỮA KÌ
QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG
1
PHẦN 1. SỰ RA ĐỜI
VÀ ĐỊNH NGHĨA QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG
Truyền thông là một hoạt động gắn liền với một lịch sử phát triển của loài
người. Truyền thông từ tiếng anh: communication có nghĩa là sự truyền đạt, thông
tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc...Còn theo tiếng la tinh có nghĩa là cộng
đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường, phương tiện để đạt đến
sự hiểu biết lẫn nhau giữa cá nhân và xã hội.
Sự ra đời của tiếng nói là nấc thang đầu tiên quan trọng nhất của quá trình
hình thành và phát triển, tăng cường truyền thông – giao tiếp trong xã hội con
người. Con ngưòi từ xa xưa cho đến nay, khi sống chung trong một cộng đồng họ
cần phải có truyền thông để hiểu và bảo vệ nhau. Từ lâu con người đã biết tổ chức
các trạm ngựa phục vụ thông tin, quy định nhưng tín hiệu để thông báo tin tức cho
nhau (ví dụ: việc đốt lửa trên đỉnh núi để báo hiệu quân giặc xâm lấn bờ cõi hoặc
những người đi rừng thương bẻ lá, băm vỏ cây để đánh dấu đường đi ở nhưng nơi
nghuy hiểm). Bắt đầu từ những hình thức tín hiệu đơn giản người ta thông báo cho
nhau mục đích, phương pháp, cách thức hoạt động , tạo nên sự thống nhất có hiệu
quả trong công việc.
Trong quá trình lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên, làm ra của cải vật
chất nuôi sống mình, con người đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, phát
hiện thêm những hiện tượng lặp đi lặp lại trong thiên nhiên. Cùng với quá trình đó,
trong xã hội cũng hình thành nhu cầu truyền thông, truyền bá kinh nghiệm, phương
pháp lao động có hiệu quả, thông báo cho đồng loại những tri thức mới về thế giới
xung quanh.
Từ những hình thức truyền thông đơn giản, người ta đi đến những hình thức
hiện đại và phức tạp của truyền thông như: phát thanh ,truyền hình, mạng điện tử,
vệ tinh, thông tấn xã ... Các phương tiện truyền thông liên lạc hiện đại đã trở thành
phương tiện không thể thiếu được trong nền kinh tế, xã hội, chinh trị ... mỗi quốc
gia.
2
Thực tiễn truyền thông đã có từ lâu. Ngay từ thời cổ Hy Lạp, Arixtốt đã đề
xuất một mô hình truyền thông rất gần gũi với mô hình truyền tính, mà sau này
Claudesannon- cha đẻ của lý thuyết truyền thông đã nêu .
Theo định nghĩa của một số nhà khoa học thì lý thuyết truyền thông thể hiện
mối quan hệ giữa các dữ kiện trong hành vi của con người và truyền thông là một
quá trình có liên quan đến hành vi hay nhận thức .
Hiện nay trên thế giới, tuỳ theo góc độ tìm hiểu và nghiên cứu, người ta đã
đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thông ̣.( Frankdance, năm 1970
trong công trình nghiên cứu của mình về “ khái niệm cơ bản về truyền thông” đã
nêu ra 15 định nghĩa về truyền thông trên các góc độ khác nhau ). Lý thuyết
truyền thông tổng quát có 3 loại: thứ nhất là xác định bản chất và nội dung của quá
trình truyền thông, thứ hai là đề cập quá trình cơ bản chung cho tất cả các loại
truyền thông, thứ 3 là đề cập bối cảnh mà quá trình truyền thông xẩy ra .
Từ những phân tích trên có thể hình thành khái niệm về truyền thông như
sau: “Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoạc chia sẻ thông ti , tình cả,
kỹ năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau đẻ dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận
thức ”.
Như vậy, có thể thấy trong định nghĩa chung trên thì Truyền thông là một
quá trình – có nghĩa là nó không phải một việc làm nhất thời hay xẩy ra trong một
khuôn khổ thời gian hẹp, mà là một việc diễn ra trong một khoảng thời gian dài.
Và quá trình này mang tính liên tục, vì nó không thể kết thúc ngay sau khi ta
chuyển tải nội dung cần thiết, mà còn tiếp diễn sau đó. Đây là quá trình trao đổi
hoặc chia sẻ có nghĩa là ít nhất phải có hai thực thể và không chỉ có một bên cho và
một bên nhận, mà cả hai bên đều cho và nhận.
Mặt khác, truyền thông phải dẫn đến sự hiểu biết lẫn nhau, yếu tố này cực kỳ
quan trọng đối với mục đích và hiệu quả của truyền thông. Và cuối cùng, truyền
thông phải đem lại sự thay đổi trong nhận thức và hành vi, nếu không mọi việc làm
sẽ trở nên vô nghĩa.
3
PHẦN 2. TRUYỀN THÔNG
VÀ NHỮNG QUY TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA NÓ
Theo định nghĩa về truyền thông thì truyền thông là một quá trình liên tục
trao đổi thông tin giữa con người với xã hội qua các phương tiện truyền thông đại
chúng. Cũng như các hoạt động khác, quá trình truyền thông muốn hoạt động có
hiệu quả cần phải có sự tác động của rất nhiều yếu tố : Nguồn (source), Thông điệp
(Message), mạch truyền, kênh (channel), đối tượng tiếp nhận (receiver) ... Vì vậy,
quá trình này phải diễn ra theo các bước nhất định như là một hệ thống nguyên tắc
bất di bất dịch, cho quá trình truyền thông đi đến hiệu quả .
Nguyên tắc, theo tiếng la tinh : principium là chỉ sự bắt đầu, điều cơ bản
định ra, nhất thiết phải tuân theo trong mọi hoạt động. Nguyên tắc là cơ sở đầu
tiên, tư tưởng chỉ đạo là nền tảng hành động .
Nguyên tắc hoạt động của truyền thông cũng như hoạt động báo chí, là sự
thể hiện,khuynh hướng, quan điểm, chính kiến của một đảng một chế độ một giai
cấp. Đồng thời nó còn xác định thái độ trách nhiệm, sự hiểu biết, cách đánh giá của
các nhà truyền thông đối với hoạt động thực tiễn cũng như đòi hỏi cácnhà truyền
thông đáp ứng chuẩn xác các cách xử sự, ứng phó và hành động của mình.
Để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ và khai thác hết khả năng của truyền
thông thì vấn đề đặt ra của mỗi nhà truyền thông phải nắm vững, sử dụng nhất
quán và triệt để quy tắc, quy luật, chuẩn mực của hoạt động nghề nghiệp vì hoạt
động truyền thông luôn mang tính mục đích và ý thức. Ví dụ : Trong hoạt động
báo chí, giai đoạn lấy tài liệu rất cần đến quy tắc và phương pháp quan sát, xử lý
tài liệu, khai thác nhân chứng ... bên cạnh đó còn có những quy tắc, chuẩn mực,
những phương pháp chung để tiếp cận và đánh giá các sự vật hiên tượng.
Từ những điều đã phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm chung nhất về
nguyên tắc về hoạt động truyền thông cũng như hoạt động báo chí, như sau: “Các
quy tắc chuẩn mực chung của hoạt động truyền thông giúp cho nó thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình được gọi là nguyên tắc truyền thông” .
4
Nguyên tắc truyền thông chính là cơ sở phương pháp luận của hoạt động
truyền thông, có nghĩa là sự thể hiện thái độ quan điểm chính kiến của nhà truyền
thông về sự kiện hiện tượng đồng thời nó còn là phép tắc đòi hỏi nhà truyền thông
phải đáp ứng chuẩn xác trong cách xử sự, ứng phó với hành động của mình . Mặt
khác nhà truyền thông, bên cạnh nắm vững hiểu biết những quy luật nói trên thì
phải tích cực vận dụng chúng,biến chúng thành quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp,
thành cách thức, phương tiện để thực hiện mục đích hoạt động của mình .
Nguyên tắc truyền thông (báo chí) không phải sự áp đặt chủ quan mà xuất
phát từ những quy luật khách quan.V.I.Lenin,coi khái niệm “nguyên tắc” ngang
hàng với khái niệm “ quy luật” . Người giải thích : “ quy luật là cái vững bền
được bảo tồn trong hiện tượng”. Những nguyên tắc mang tính chân lý được hình
thành từ hoạt động tực tiễn và được kiểm nghiệm thì luôn vững bền. Vì thế,hoạt
động thực tiễn là cơ sở khoa học cho những chuẩn mực tồn tại trong những nguyên
tắc truyền thông cũng như hoạt động báo chí.
Hệ thống các nguyên tắc truyền thông cũng như báo chí gồm: Tính khuynh
hướng, tính Đảng, tính nhân dân, tính nhân văn, tính chân thực và khách quan, ý
thức dân tộc và tính quốc tế. Tất cả những nguyên tắc đó tồn tại trong mối quan hệ
hữu cơ của một hệ thống phù hợp với sự phát triển của truyền thông cũng như báo
chí. Tuy nhiên vì truyền thông – báo chí là công cụ đấu tranh vì quyền lợi của quần
chúng lao động, vì tự do dân chủ và tiến bộ xã hội thì tính Đảng vẫn giữ vị trí hàng
đầu của truyền thông – báo chí. Nhưng trong điều kiện mới chính nguyên tắc này
cũng đang nhận thức lại một cách đúng bản chất, phù hợp với tình hình và hoàn
cảnh thực tế.
- Nguyên tắc về tính khuynh hướng của truyền thông
Trong hoạt động thực tiễn, Truyền thông luôn bộc lộ rõ tính khuynh hướng
Trong xã hội có giai cấp, thường sử dụng các phương tiện truyền thông như báo chí
làm công cụ đấu tranh giai cấp. Không có một giai cấp thống trị nào không nắm lấy
bộ máy thông tin, tuyên truyền để góp phần củng cố chế độ và điều hành xã hội.
Người đặt nền móng xã hội cho tính khuynh hướng của truyền thông cũng
như báo chí là C.Mac và Ph.ănghen. Xuất phát từ sự nghiên cứu phân chia giai cấp
5
trong xã hội hai ông đã đi đến kết luận :“ Khi xã hội bị phân chia giai cấp thành
các nhóm xã hội có quyền lợi khác nhau, thậm chí đối kháng nhau thì con người
bao giờ cũng đứng về một giai cấp, một quốc gia, một dân tộc, hoặc một nhóm xã
hội nhất định. Truyền thông cũng như báo chí là hoạt động ý thức con người, vì
thế không thể mang những khuynh hướng chính trị khác nhau”.
Chủ Tịch, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt độngcách mạng của mình
đã đem hết tài năng, nghị lực, trí thông minh, mọi vũ khí để phục vụ mục tiêucách
mạng đã xác định. Người sử dụng báo chí như một công cụ, vũ khí, phương tiện
trong sự nghiệp đấu tranh của mình. Người luôn nhấn mạnh :“ Tất cả những người
làm báo phải có lập trường vững chắc, chính trị phải làm chủ, cán bộ báo chí phải
là chiến sĩ cách mạng.”
Trong quá trình viết báo, Người luôn xác định nguyên tắc hàng đầu: Người
tuyên truyền luôn phải tự hỏi: “ Vì ai mà viết? Viết cho ai? Viết làm gi? Nói cho ai
nghe? Nếu không vậy thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không
muốn cho người ta xem”.
Nghề báo là một nghề cũng như một nghiệp. Mỗi nhà báo phải sớm ý thức
về công việc, phải sớm xác định khuynh hướng như Hồ Chủ tịch đã dậy.
Khuynh hướng chính trị, đạo đức, xã hội, dân tộc, thẩm mỹ...tất cả phải hoà
nhập, liên kết trong một cách nhìn, cách thẩm định của nhà báo trong thái độ và
tâm huyết và phân tích, phản ánh, tất cả đều bộc lộ trong trang viết. GS.Hà Minh
Đức nhận xét: “khuynh hướng có thể bộc lộ dưới nhiều hình thức khuynh hướng
thể hiện thái độ không trung lập, trung hoà trước một hiện tượng .Khuynh hướng
biểu thị sự nhiệt tình ủng hộ hoặc phản đối của tác giả trước một quan điểm chính
trị, một vấn đề xã hội, một sự kiện hay một nhân vật ...khuynh hướng đã thể hiện
trong nhiều tác phẩm ở thời cổ đại, trung đại và thời kì hiện đại khi cuộc đấu tranh
giai cấp ngày càng quyết liệt, người cầm bút đã bộc lộ rõ qua trang viết ý thức, tâm
huyết của mình ”. Ví dụ: “Cuộc đời viết báo của Hồ Chí Minh là một minh chứng
cho điều đó: tất cả bài báo của Bác đều tập trung vào một chủ đề chống Đế quốc
thực dân,chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội”.
6
VD: trong suốt 40 năm làm báo, khi thì ở Trung quốc, Miến Điện, Việt Nam,
khi thì ở Lào... Nhà báo nổi tiếng Uyn-phrơt Bơcset đã bộc lộ khuynh hướng chính
trị của mình là ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc, chống lại cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân đế quốc và bành trướng.
Như vậy, khuynh hướng là cách nhìn nhận đánh giá sự vật hiện tượng một
cách khách quan, nó phải được biến thành mục đích, dũng khí, phương tiện phản
ánh của người cầm bút. Trong xã hội chủ nghĩa, mỗi nhà báo với tư cách là chủ thể
sáng tạo, phải chịu trách nhiệm trước Đảng, nhân dân và đồng nghiệp về tác phẩm
của mình.
Trong nền báo chí Việt Nam, khuynh hướng chính trị bộc lộ rõ ở một số nhà
văn nhà báo tên tuổi như: Nguyễn An Ninh, Ngô Tất Tố, Hải Triều, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao, Thép Mới... Khuynh hướng không chỉ bộc lộ ở cá nhân mà còn
bộc lộ ở các tờ báo. Mỗi cơ quan báo chí đều có một khuynh hướng chính trị khác
nhau nhất định.VD:“trước sự kiện chiến tranh Afganixtan, để có sức tuyên truyền
cho chiến dịch chống khủng bố do chính phủ Mỹ phát động, báo chí Mỹ liên tục
đưa những thông tin có lợi về phía Mỹ về việc truy quét lực lượng Alqueda, trong
khi phớt lờ không hề đưa tin về thường dân Afganixtan bị thiệt mạng, trong khi đó
báo chí tiến bộ của nhiều nước lại lên tiếng phản đối chính sách xâm lược của Mỹ
và các nước đồng minh và đưa tin về thiệt hại của những người dân vô tội.”
Khuynh hướng chính trị quan trọng nhất, lớn nhất mà báo chí nước ta vung
ngòi bút phục vụ là lập trường của giai cấp vô sản “ Cây bút là vũ khí sắc bén, bài
báo là tờ hịch cách mạng” (Hồ Chí Minh).
Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam và thế giới đã chứng minh những cây
bút báo chí có sức hấp hẫn chính là những nhà báo có tâm huyết, kiên quyết đấu
tranh cho một khuynh hướng báo chí nhất định với vốn tri thức rộng lớn và tài
năng sáng tạo độc đáo.
Như vậy tính khuynh hướng là nguyên tắc phổ biến, không thể phủ nhận
cuả hoạt động báo chí, khuynh hướng có thể hình thành tự nhiên, tác động đếnhoạt
động báo chí một cách khách quan ngoài ý muốn của nhà báo. Khuynh hướng cũng
có thể hình thành một cách khách quan và tính khuynh hướng khi đất nước phát
7
triển sẽ trở thàng tính Đảng. GS.Hà Minh Đức nhận xét : “Trong các hoạt động
văn hoá văn nghệ của xã hội báo chí bộc lộ rõ nhất là tính khuynh hướng.”
- Nguyên tắc về Tính Đảng của truyền thông :
Ph.Anghen yêu cầu khuynh hướng trong báo chí cách mạng phải vươn tới
tính Đảng, tới quan điểm công khai và để bảo vệ lợi ích của Đảng trước sự tấn
công của kẻ thù. Ông viết : “ Phải tiến hành tranh luận, thuyết minh, phát triển và
bảo vệ những lợi ích của Đảng, bác bỏ và đánh bại các luận điệu huênh hoang
của Đảng đối địch.”
Cơ sở đầu tiên trong các nguyên tắc báo chí cách mạng là nguyên tắc chính
Đảng . Tính Đảng của báo chí cách mạng có thể được hiểu như sau: báo chí tự giác
và kiên quyết đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, trở thành tiếng nói thể
hiện quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân lao động, đồng thời chịu sự lãnh đạo và
tuyên truyền tổ chức, thực hiện đường lối chính sách của Đảng Cộng sản.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tính
Đảng của báo chí cách mạng vừa là đồng hành,vừa là kết quả của đấu tranh giai
cấp. Chính cuộc đấu tranh đó đòi hỏi báo chí cách mạng phải có tính Đảng nghiêm
ngặt. Tính Đảng là một yêu cầu đặt ra, là quá trình, trong đó khuynh hướng giai
cấp của báo chí chín muồi, phát triển đến trình độ tự giác.
Trong nền báo chí Việt Nam, Đảng ta luôn luôn đòi hỏi các nhà báo đứng
trên lập trường giai cấp công nhân phục vụ cách mạng, phục vụ sự nghiệp đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Tính Đảng được xem xét
trên các khía cạnh sau:
Về mặt xã hội : tính Đảng quy định các mặt hoạt động của báo chí trong
toàn bộ quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình: nhà báo nhìn nhận
đánh giá các sự kiện theo quan điểm đường lối của Đảng. Điều đó không hạn chế
khả năng hoạt động sáng tạo và phát triển chính kiến của người là báo. Nói cách
khác, đường lối, quan điểm của Đảng là căn cứ xuất phát để nhà báo thấy rõ trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân to lớn của mình trong quá trình thông tin và lý
giải những vấ đề do cuộc sống đặt ra. Tính Đảng không chỉ thể hiện trong mỗi cá
nhân người là báo mà còn ở mỗi tờ báo. VD: “Mỗi cơ quan báo chí phải hoạt
8
động dưới một tôn chỉ nhất định do Đảng và nhà nước đặt ra để hoàn thành nhiệm
vụ là diễn đàn của Đảng và nhân dân. Cũng như vậy mỗi nhà báo khi bước vào
nghề phải tự xác định cho mình một khuynh hướng chính trị nhất định phục vụ
Đảng và nhân dân “là nguyươì tuyên truyền cổ động, tổ chức tập thể”
Về mặt tổ chức : tính Đảng đòi hỏi báo chí phải hoạt động theo đúng luật
pháp trong khuôn khổ pháp luật cho phép, tức là phải theo nhiệm vụ, tôn chỉ, mục
đích do nhà nước quy đinh. Quan niệm báo chí là “cơ quan quyền lực thứ tư” của
Đảng sau hành pháp và luật pháp. Quyền lực của báo chí thể hiện ở chỗ: báo chí là
hạt nhân tạo ra dư luận xã hội rộng rãi, giáo dục mọi người sống là theo hiến pháp
vá pháp luật, kiên quyết đấu tranh để pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh góp
phần hoàn thiện luật pháp và xây dựng hệ thống đó để phục vụ mọi hoạt động xã
hội. VD: để các cơ quan báo chí nói chung và các nhà báo nói riêng hoạt động
theo tôn chỉ mục đích của mình thì nhà nước phải ban hành luật báo chí (như luật
báo chí sửa đỏi bổ sung năm 1999) dể từ đó báo chí thực hiện được chức năg và
quyền lực của mình với chế độ.
Về mặt tư tương tinh thần: Tính Đảng đòi hỏi báo chí phải tham gia tích
cực việc tuyên truyền phổ biến và hình thành dòng tư tưởng chủ lưu tích cực và
tiến bộ xã hội. Nền tảng khoa học của dòng tư tưởng đó là học thuyết Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tư cách là vũ khí sắc bén, bằng những lợi thế và
những đặc trưng nghề nghiệp của mình, báp chí là một kênh hết sức quan trọng
trong toàn bộ các kênh của cồn tác tư tưởng. Mặt khác, Báo chí ảnh hưởng đến
việc tổ chức và chỉ dạo hành động cách mạng của quần chúng nhân dân, góp phần
đổi mơí tư duy, đôỉ mới tư tưởng, phát triển nhận thức trong quần chúng, tạo sự
thống nhất đối với đường lối của Đảng và nhà nước. VD: “ Bất kì một lực lượng
cầm quyền nào đều sử dụng báo chí như một công cụ để tác động vào tư tưởng,
tình cảm của công chúng nhằm tạo ra ở họ những nhận thức mới, những định
hướng có giá trị trong cuộc sống. Báo chí không chỉ phản ánh cuộc sống của quần
chúng tới Đảng và nàh nước mà còn phổ biến, tuyên truyền, giải thích đánh giá và
bổ sung sửa chữa những đường lối chính sách của Đảng để hướng dẫn dư luân
đúng đắn, duy trì ổn định xã hội.”
9
- Nghuyên tắc về tính chân thật - khách quan của truyền thông
Tính chân thật và khách quan là bản chất của báo chí cách mạng. V.I.Lênin
đã tổng kết ngắn gọn về sự cần thiết của nguyên tắc này trong câu nói nổi tiếng:
“Sự thật là sức mạnh của báo chí chúng ta”. Trong thực tế, uy tín và hiệu quả của
báo chí phụ thuộc vào tính chất khách quan, chân thật của những thông tin mà nó
đem lại cho công chúng. Một tờ báo, đài phát thanh, đài truyền hình hay hãng
thông tấn nếu đưa tin sai thì sau đó có đính chính thế nào thì cũng tự hạ thấp vị trí
của mình trong lòng công chúng. Nhà báo viết sai sự thật, chẳng những vi phạm
đạo đức nghề nghiệp, uy tín, danh dự của mình mà còn gây tổn hại rất lớn cho xã
hội và vi phạm luật báo chí.
Mặt khác, khách quan và chân thật là những khái niệm tương đối không thể
định lượng, kiểm tra một cách tuyệt đối. Trong nhiều trường hợp cụ thể nó phụ vào
khuynh hướng chính trị của nhà báo có nghĩa là tính Đảng với tư cách là khuynh
hướng phát triển ở trình độ cao của báo chí cách mạng không hề đối lập và mâu
thuẫn với tính khách quan chân thật.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta yêu cầu
báo chí phản ánh mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách chân thật, khách
quan đúng bản chất. Báo chí phát hiện và trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chống
tiêu cực đồnh thời cũng phát hiện và tuyên truyền cổ động cho các nhân tố mới các
mô hình và điển hình tiên tiến. Báo chí thực hiện vai trò là cầu nối hai chiều giữa
Đảng và nhân dân. Điều đó hoàn tàn phù hợp với chức năng và nguyên tắc của tính
chân thực khách quan của báo chí. Mặt khác, báo chí chân thực không chỉ phản
ánh đúng từng sự việc cụ thể trong từng góc độ và thời điểm mà quan trọng hơn
hết là vạch ra được bản chất của nó.
Khách quan và chân thật là đặc điểm, đặc trưng là yêu cầu tồn tại của bản
thân báo chí. Nó đạt đến mức độ nào, trình độ nào, bị bóp méo, xuyên tạc, tô
hồng... là tuỳ thuộc vào nguyên nhân khách quan và chủ quan muốn vươn tới
nguyên tắc khách quan và chân thật thì người làm báo phải hết sức dũng cảm, chấp
nhận những thử thách và thậm chí là hi sinh. Bất cứ lúc nào và ở đâu nhân dân ta
cũng đòi hỏi thông tin phải chính xác và phẩm chất hàng đầu của nhà báo là lòng
10
trung thực và thái độ không khoan nhượng. Nhà báo Bơset đã nói“không được đẻ
cho mình bị cột chặt vào tình cảm ,tư tưởng bị yêu cầu viết trái với lương tâm và
vốn hiểu biết của mình”.
Không khoan nhượng với kẻ thù, mọi trở lực ngăn cản và mọi biểu hiện tiêu
cực trong cuộc sống. Đó là một đòi hỏi khắt khe của người làm báo về trách nhiệm
với trang viết của mình. Tô hồng họăc bôi đen đều là sai sự thật. Lòng trung
thực,thái độ không khoan nhượng đòi hỏi nhà báo phải nhìn vào bản chất sự
vật,hiện tượng để phản ánh khách quan ,trung thực. Boritpolevoi đã nói: “cuộc
sống của chúng ta muôn màu muôn vẻ và vô cùng lí thú vì vậy không nhất thiết
phải hư cấu, thêm thắt, tô vẽ làm gì”.
Nghuyên tắc của báo chí cách mạng là nói lên sự thật với tất cả bản chất của
nó. Những sự việc càng lớn càng phải nói rõ, phân tích kĩ càng, đầy đủ. V.I.Lênin
đã từng căn dặn: chúng ta cần thông tin đầy đủ và chân thực, mà sự thật không phụ
thuộc vào việc nó pgải phục vụ cho ai. Đó là lương tâm nghề nghiệp của những
người làm báo. Nhà báo Hữu Thọ đã từng nói: “làm cái nghề này thìo mắt phải
sáng, lòng phải trong thì mới yêu nghề’’. Với tư cách là một người chiến sĩ trên
mặt trận tư tưởng văn hoá, nhà báo phải thật chí công vô tư để bài viết được khách
quan chân thật. Nhà báo không được “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, khen hay chê ai
việc gì củng phải xuất phát từ lợi ích của cách mạng, nhân dân .
Viết baó mà không có động cơ trong sáng, không xuát phát từ những mục
đích trên thì dù “ mắt có đeo mười cái kính hiển vi ” đi chăng nữa vẫn không thấy
sự thật .Không nên viết báo theo kiểu “trả ơn ” hay “trả thù ” hay đơn đặt hàng
như vậy tác phẩm sẽ giống như “cỗ đã bày sẵn”. Hoặc viết theo mệnh lệnh trái với
mục đích đẻ thực hiện một ý đồ nào đó thì tác phẩm sẽ bị bóp méo hoàn toàn sai sự
thật.
Yếu tố nói rõ sự thật được thể hiện ở hai mặt, một là: nói rõ sự thật sau khi
việc được đáng giá đúng tức là mặt bản chất của sự thật, hai là: nói rõ sự thật trên
kênh truyền thông đại chúng, tác động mạnh mẽ vào dư luận góp phần xây dựng
dư luận lành mạnh. Hồ Chủ Tịch đã nói: các cơ quan truyền thông đại chúng vừa
phải hiểu rõ nghuyện vọng của nhân dân để phục vụ tốt và phản ánh với đảng vừa
11
có trách nhiệm tạo được những dư luận đúng đắn hỗ trợ việc làm chủ của nhân
dân.Ví dụ: “trước hiện tượng đoạn đường cây bị bóc vỏ thảm hại thì bản chất của
nó được xét trên râtt nhiều khía cạnh như:mở rộng quốc lộ nên cho dân sử dụng
làm chất đốt hoặc là ý thúc vô trách nhiệm của nhân dân cố ý phá hoại môi
trường. Nhưng có một nhà báo người nước ngoài lại co lối suy luận sai bản chất
sự việc đi đến kết luận:nhân dân đói phải ăn vỏ cây”.
Để đảm bảo tính khách quan, chân thực của báo chí, người làm báo phải hi
sinh, chịu đựng, phải thực sự dũng cảm, nhiều khi phải chịu sự hi sinh, trả thù , trả
giá đắt, bị thành kiến...Nhưng lòng dũng cảm, đức hi sinh đó giúp nhà báo vượt
qua mọi khó khăn, cản trở để giữ vững phẩm chất trung thực của người làm báo
luôn chiến đấu bảo vệ chân lí. Nhà báo bậc thầy U.BơcSet tâm sự:
“trong bao
nhiêu năm và ở bao nhiêu đất nước tôi đã có một giới bạn đọc mua báo không
phải vì nhưng tranh biếm hoạ, mà vì sự thật của các vấn đề thiết yếu ảnh hưởng
đến đời sống và lương tâm của họ .Bằng cách giữ cho đôi mắt và đôi tai được mở
rộng .Trong 40 năm làm tin tức của tôi về những nơi nóng bỏng nhất thế giới ,toi
ngày càng ý thức về trách nhiệm của mình với bạn đọc ,trên cơ sở lòng tin vĩ đại
vào những con người bình thường , vào thái độ cư sử lành mạnh và tao nhã của họ
có được những sự thật của tình hình ”.
Tính chân thực khách quan không chỉ là sinh mệnh của nền báo chí cách
mạng, mà còn là nội dung cơ bản ,cốt lõi của tính công khai.Người cầm bút cần tôn
trọng sự thật.Đó là thước đo,là lửa thử vàng đối với mỗi nhà báo chân chính.Giữ
vưng lòng trung thực với nhân dân,với đảng trong mỗi bài viết,trên mỗi tấm ảnh
đăng của chính mình cũng là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo tính khách
quan trung thực của báo chí.Có như vậy,báo chí mới gây được niềm tin và uy tín
trong lòng công chúng.
- Nguyên tắc về tính nhân dân và dân chủ của truyền thông
Dưới góc độ khoa học,thuật ngữ báo chí được hiểu là sự tổng hợp về hoạt
động của các phương tiện truyền thông đại chúng: báo in, phát thanh, truyền
12
hình...Thuật ngữ Đại Chúng, dù không đầy đủ nhưng đả phần nào nói lên tính
Nhân Dân và bản chất Dân Chủ của hoạt đông báo chí.
Khái niệm tính nhân dân của báo chí thể hiện mối quan hệ giữa báo chí với
đông đảo tầng lớp nhân dân,nhất là nhân dân lao động-người sáng tạo chân chính
của lịch sử.
Sự ra đời và mục đích hoạt động của báo chí bắt đầu từ nhu cầu thông tin và
giao tiếp của con người.Không một đề tài báo chí nào, không một nguồn thông tin
nào lại không bắt nguồn từ hoạt động của con người. Quần chúng đông đảo còn là
người thưởng thức, tiêu thụ các sản phẩm báo chí. Tính chất đại chúng, tính nhân
dân thể hiện từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của hoạt động báo chí:
Biểu hiện thứ nhất : được khẳng định bằng sự thật khách quan có tính qui
luật, tính nhân dân cuả báo chí là nó phản ánh và đánh giá các sự kiện của đời
sống từ lập trường của nhân dân , đại diện và bảo vệ cho quyền lợi của nhân dân
,đề cao trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh của nhân dân và sự tiến bộ xã hội . Một
nền báo chí một tác phẩm báo chí có tính nhân dân khi đề cập phản ánh sự kiện
hiện tượng có ý nghĩa đối với nhân dân cần phải giải thích theo quan điểm tiến bộ
của nhân dân phù hợp với những tư tưởng với những tư tưởng của thời đại .Báo chí
nước ta là công cụ phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân. Do vậy tính nhân dân
không hề mâu thuẫn với tính đảng.
Để báo chí đi sâu vào quần chúng một cách thiết thực , C.Mac nhận định:
“báo chí sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ với nhân dân niềm hi vọng và
sự lo lắng ,tình yêu, lòng căm thù ,niềm vui ,nỗi buồn của họ.”
Quan điểm báo chí là tiếng nói của đảng, của nhà nước của các tổ chức xã
hội để từ đó báo chí là diễn đàn của nhân dân, lấy dân làm gốc, “để dân biết dân
làm, dân kiểm tra” là hoàn toàn phù hợp với thực tế, với quan điểm của lịch sử.
Trong thực tế, sự gặp nhau giữa “ý đảng lòng dân” đã tạo thành sức mạnh vượt
mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Đã có nhiều tác phẩm báo chi có ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc.
Biểu hiện thứ hai : là sự tham gia tích cực và đông đảo của nhân dân vào
các hoạt động báo chí. V.I.LêNin từng nói: “cơ quan báo sẽ sinh động , đầy sinh
13
lực, khi nào cứ năm nhà văn lãnh đạo và thường xuyên viết sách báo thì lại có
năm trăm và năm nghìn nhân viên công tác không phải là nhà văn”.
Chính sự tham gia của quần chúng nhân dân đã làm cho báo chí thực sự trở
thành diễn đàn dân chủ của người dân phát biểu tâm tư , tình cảm, nghuyện vọng
của mình, trực tiếp tham gia vào thực hiện quyền dân chủ của công dân trong việc
biểu dương những nhân tố tích cực, phê phán những những hiện tượng tiêu cực
trong xã hội.
Để tính nhân dân ngày càng được nâng cao và phát triển báo chí cần biết dựa
vào lực lượng cộng tác viên gồm các nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, chính trị,
học sinh, sinh viên và đông đảo quần chúng nhân dân lao động .Mở rộng được điều
này báo chí đã thu được chất sám của toàn xã hội, tăng thêm sự uy tín của báo chí
trong nhân dân thông qua các mục, các chương trình trên các phương tiện truyền
thông đại chúng,Ví dụ: “Diễn đàn” , “Điều tra qua thư bạn đọc” , “Bạn đọc viết”,
“Ý kiến bạn đọc”, “ Hộp thư truyền hình”, “ Trả lời bạn xem truyền hình”...Chính
sự ra đời của các chuyên mục này đã trở thành cầu nốgiữa truyền thông và đại
chúng. Làm được như vậy nó khắc phục được tình trạng “thông tin một chiều”, từ
trên rót xuống và mở rộng tính quần chúng của báo chí “giải thích và giải đáp sâu
sắc và nóng bỏng những vấn đề của sống một cách nhanh nhất, sinh động nhất,
khách quan nhất, và rộng rãi nhất” chính là tinh thân mà Nghị quyết của Đảng đề
ra cho mỗi cơ quan báo chí và các nhà báo.
Biểu hiện thứ ba: là ở nghệ thuật thể hiện trong các tác phẩm báo chí phù
hợp với trình độ nhận thức, năng lực tiếp thu và trình độ thẩm mĩ lành mạnh của
công chúng, Một tác phẩm báo chí khi đề cập đúng vấn đề mà xã hội đang quan
tâm, nhưnng nghệ thuật biểu hiện yếu kém, ngôn ngữ xa rời lời nói, cách nghĩ, của
công chúng thì không thể đem lại kết quả cao .Lê nin chỉ ra rằng: “sự đơn giản dễ
hiểu và phổ cập, nội dung sinh động của tư liệu sẽ đảm bảo nhưng tư tưởng của
báo chí đi sâu vào lòng người thuộc tất cả các tầng lớp nhân dân.”
Do vậy cái quan trọng nhất của người làm báo là phải biết nói đơn giản, biết
lọc đi những khuôn sáo thuật ngữ cứng nhắc, những khẩu hiệu rỗng tuyếch và xa
lạ, những từ ngữ nước ngoài khó hiểu với quần chúng.
14
Để đảm bảo tính nhân dân của nền báo chí cách mạng, Hồ Chủ tịch đã có lần
nhắc nhở: “ báo chí không phải để cho số ít người xem mà để phục vụ nhân
dân ...cho nên phải có tính chất quần chúng ”. Người còn khuyên các nhà báo viết
xong nên đọc cho những người bình thường nghe nếu họ không thích, không hiểu
thì phải viết lại .Có như vậy mới mong đem lại những tác phẩm báo chí đạt hiệu
quả cao đến với quần chúng, thực hiện nhiệm vụ là diễn đàn của nhân dân.
- Nghuyên tắc về tính dân tộc và tính quốc tế của truyền thông
Ý thức dân tộc của báo chí là một nghuyên tắc không thể thiếu trong hoạt
động báo chí. Ý thức dân tộc về bản chất và ý nghĩa giống với chủ nghĩa yêu nước ,
đó là thái độ trân trọng, là tình cảm cao quí của con người với dân tộc , cội nguồn,
với quê hương, đất nước.Nhưng chủ nghĩa yêu nước là khái niệm hẹp hơn và là
đỉnh cao sự kết tinh của ý thức dân tộc . Chủ nghĩa yêu nước là nguồn gốc của mọi
cảm hứng sáng tạo cho con người làm báo và cho hoạt động báo chí .Ý thức dân
tộc la cơ sở nhận thức – tinh thần cho mọi hoạt động báo chí . Đó cũng là nghuyên
tắc tính dân tộc của báo chí.
Trong xã hội có giai cấp, con người không thể đứng về một giai cấp nào,
một nhóm xã hội nào, một dân tộc nào .Nhà báo với tư cách là thành viên của dân
tộc được nuôi dưỡng bằng văn hoá vật chất và tinh thần ...của dân tộ đó. Trong quá
trình hoạt động nghề nghiệp nhà báo huy động toàn bộ những năng lực và phẩm
chất của mình để sáng tạo ra tác phẩm báo chí . Muốn có những tác phẩm báo chí
có giá trị phục vụ sự nghiệp cách mạng thì nhà báo luôn nuôi dưỡng được ý thức
dân tộc . Biểu hiện ý thức dân tộc của nhà báo còn ảnh hưởng tới ngôn ngữ, phong
cách, và khả năng lựa chọn loại hình báo chí .Như vậy, ý thức dân tộc là phẩm chất
đạo đức cao nhất, là phẩm chất tinh thần thiêng liêng đối vơí mỗi thành viên dân
tộc.
Bất kì một nền báo chí tiến bộ nào, trong khi tiếp thu nhưng kinh nghiêm và
tinh hoa báo chí nhân loại muốn tồn tại và phát triển đều phải vươn tới bản sắc dân
tộc đậm đà. Nhiều nước trên thế giới dều lấy tờ báo đầu tiên xuất bản bằng ngôn
ngữ dân tộc để làm mốc đánh gí sự xuất hiện của báo chí nước đó. Ở Việt nam
15
cũng vậy, lấy tờ “Gia Định Báo” - viết bằng chữ quốc ngữ, là tờ báo đầu tiên trong
lịch sử báo chí Việt Nam.
Tính dân tộc của báo chí không chỉ quyết định những vấn đề nội dung,bản
sắc, phong tục tập quán ...mà còn để lại dấu ấn tiếp ngay trên hình thức và phương
thức báo chí.
Thể hiện bản sắc dân tộc qua cả nội dung và hình thứckhông chỉ là ý thức
mà còn là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan báo chí và những người làm
báo.Một nền báo chí thấm nhuần ý thức dân tộc khi nó trực tiếp tham gia phản ánh
và giải quyết toàn bộ những vấn đề hệ trọng , bức xúc nhất của dân tộc . Ra đời
trong bão táp của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ,ngot một thế kỉ qua chủ đề
xuyên suốt của báo chí Việt Nam là giải phóng dân tộc , vì độc ơlập ,tự do vì chủ
nghĩa xã hội . Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay , chủ đề lớn và
bao trùm của nền báo chí nước ta là : ủng hộ công cuộc đẩy mạnh công nghiệp
hoá ,hiện đại hoá đất nước , vì mục tiêu đân giàu ,nước mạnh, xã hội công bằng,
dânchủ, văn minh, phấn đấu cho một nước Việt Nam tươi sáng, giàu mạnh.
Báo chí thấm nhuần ý thức dân tộc và là nền báo chí góp phần đắc lực vào
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc . Nhấn mạnh ý thức dân tộc,
khẳng định nhiệm vụ của báo chí tham gia vào quá trình đó một cách tích cực và
có ý thức không có nghĩa là chúng ta cổ vũ cho thứ báo chí sô vanh, dân tộc hẹp
hòi, một thứ báo chí quay lưng lai với giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc.
Mỗi dân tộc đều có truyền thống văn hoá của của mình, mỗi người làm
báo, mỗi cơ quan báo chí cần biết phát triển văn hoá dân tộc mình và góp phần vào
làm cho kho tàng văn hoá nhân loại thêm phong phú. Ở nước ta, trước đây chúng ta
thực hiện phương châm: “khoa học - dân tộc - đại chúng”. Phương châm không
chỉ phù hợp với hoạt động văn hoá - nghệ thuật mà còn trực tiếp chỉ đạo sự hình
thành của báo chí cách mạng, tạo ra cho nó một ý thức dân tộc thường trực và góp
phần tạo nên sự hấp dẫn của báo chí. Kế thừa và phát huy truyền thống đó trong cơ
chế thị trường hiện nay báo chí nuớc ta đang phấn đấu theo khuynh hướng: “đân
tộc - khoa học - hiện đại – nhân văn ” nhằm tự đổi mới mình đồng thời tham gia
16
tích cực đấu tranh bảo vệ giữ gìn nền văn hoá dân tộc chống lại mặt trái của nền
kinh tế thị trường và ảnh hưởng của nền văn hoá ngoại lai.
Ý thức dân tộc gắn liền với tính quốc tế của hoạt động báo chí . Chúng ta coi
ý thức dân tộc và tính quốc tế là một nghuyên tắc trong hoạt động truyền thông đại
chúng . Tính quốc tế chân chính của báo chí cách mạng thể hiện trước hết trong
nghuyên tắc tính đảng, nghuyên tắc của giai cấp công nhân , giai cấp có nhu cầu
đoàn kết quốc tế và trên thực tế đã đoàn kết chặt chẽ trong cuộc đấu tranh giải
phóng mình.
Tính quốc tế vốn thể hiện ở tính đoàn kết và hợp tác quốc tế trong hoạt động
báo chí còn được quy định bởi nhu cầu mở rộng thông tin của đông đảo quần
chúng , bởi phạm vi và tính chất nghề nghiệp của bản thân nhà báo đặc biệt là xu
thế quốc tế hoá mọi hoạt động của nhân loại . Như vậy , sự hợp tác quốc tế trên
lĩnh vực thông tin báo chí văn hoá giữa các quốc gia cần thiết có lợi cho mỗi dân
tộc và phù hợp với xu thế phát triển cuả thời đại .Tính quốc tế của báo chí còn thể
hiện ở chỗ báo chí bày tỏ thái độ ủng hộ các phong trào đấu tranh vì hoà bình , độc
lập , tiến bộ xã hội của các dân tộc trên thế giới . Ví dụ : trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh , người luôn bày tỏ thái độ , lập trường của dân tộc
Việt Nam ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới trên báo chí chông laị bè lũ
thực dân đế quốc đấu tranh vì hoà bình văn minh.
Tóm lại, trên cơ sở những nghuyên tắc đó, hoạt động báo chí của nước ta
trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai là hoàn toàn phù hợp với chính sách đối
ngoại mở rộng của Đảng và nhà nước Việt nam .Những người làm báo không chỉ
có trách nhiệm với những chính sách đó mà còn chủ động mở rộng mối quan hệ
với đồng nghiệp các nước trên thế giới để tiếp nhận thông tin, trao đổi kinh
nghiệm, đổi mới trang thiêt bị ...để hoà nhập nền báo chí nước ta với nền báo chí
thế giới.
Bản sắc dân tộc của nền báo chí nước ta dựa trên các nghuyên tắc đã nêu
trên chung có mối quan hệ hữu cơ kết hợp một cách hoà hợp giữa ý thức dân tộc và
tinh thần quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân không chỉ góp phần bảo vệ nền
17
văn hoá dân tộc bảo vệ thuần phong mĩ tục Việt Nam mà còn tiếp tục đưa nền báo
chí nước ta ngang tầm thời đại.
18
PHẦN 3. HIỆU QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH
TRUYỀN THÔNG
Thuật ngữ hiệu quả tiếng la tinh là: effectus để chỉ hành động , kết quả của
hành động và uffuvus chỉ năng suất, hiệu quả, tác dụng ...Theo từ điển Oxford,
effect có nghĩa là kết quả, hiệu lực.
Hiệu quả là năng suất hay kết quả cuối cùng của một hoạt động nào đó trong
đời sống xã hội. Đây là phạm trù khoa học đồng thời cũng là mục đích của con
người phải tính đến trong bất cứ hoạt động nào đó của mình. C.Mac chỉ rõ: “ con
nhện làm những động tác giống như động tác của của người thợ dệt ... con ong
còn làm cho nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay phải phân biệt nhà kiến
trúc tồi nhất và con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng sá , nhà kiến trúc đã xây
dựng trong bộ óc của mình rồi ”. Như vậy, chỉ có hoạt động của con người mới
làm cho vật thể tự nhiên thành đối tượng lao động và tư liệu lao động .Con người
hoạt động có mục đích tất phải tính đến hiệu quả của nó.
Hoạt động báo chí là hoạt động có ý thức và mục đích của con người. Bởi
vậy, cũng phải tính đến hiệu quả của nó. Chúng ta biết, hoạt động báo chí là hoạt
động chính trị xã hội và dù ở bất cứ chế độ xã hội nào thì báo chí vẫn là công cụ
của một giai cấp nhất định.Từ đó có thể hiểu hiệu quả báo chí như sau : “việc vận
dụng các quy luật, nghuyên tắc, quy luật, hình thức, phương thức hoạt động báo
chí giúp nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, của mình nhằm đạt mục đích thì
được gọi là hiệu quả báo chí”.
Trong thời đại phát triển khoa học và công nghệ, trình độ dân trí không
ngừng được nâng cao tính tự giác và chủ động của công chúng trong việc tiếp nhận
thông tin khiến cho báo chí càng có vai trò to lớn. Chính vì vậy mà hiệu quả báo
chí luôn được đặt lên hàng đầu.
Nhìn tổng thể , hiệu quả báo chí cũng có những biểu hiện nhất định như khả
năng tác động vào nhận thức cũng như hành vi ứng sử của con người , tác động
váo ý thức xã hội , vào hành động thực tế .C.Mac nhận định : “đến một lúc nào đó,
sức mạnh tinh thần sẽ biến thành sức mạnh vật chất ”.Hiệu quả báo chí khi được
19
phát huy sẽ trở thành sức mạnh to lớn góp phần hình thành dư luận xẫ hội biến
nhận thức thành hành động theo chiều hướng tích cực để góp phần cải tạo, xây
dựng xã hội tôt đẹp.
- Yêu cầu về hiệu quả của quá trình truyền thông
Báo chí là lĩnh vực hoạt động của truyền thông đại chúng và là lĩnh chủ yếu
nhất. Theo quan điểm của báo chí cách mạng hoạt đọng báo chí là hình thức hoạt
động mang nhiều nét đặc thù .Hiệu quả của hoạt động báo chí được đánh giá trên
mức độ báo chí thực hiện các nhiệm vụ , chức năng của mình như thế nào. Xét về
tổng thể những yêu cầu về nội dung và hình thức để báo chí Việt Nam hoạt động
có hiệu quả trong giai đoạn hiên nay là:
Về mặt nội dung: góp phần thực hiện công tác tư tưởng theo đường lối của
đảng và nhà nước. Nội dung thông tin phải theo hai chiều từ Đảng, nhà nước, các
tổ chức xã hội đến với nhân dân và chiều từ nhân dân đến Đảng và nhà nước.
Các sự kiện, hiện tượng, quá trình ...mà báo chí thông tin đến với công
chúng phải thực sự trở thành thông tin cần thiết, có chọn lọc qua đó hướng dẫn dư
luận thúc đẩy hành động cách mạng của quần chúng đáp ứng nhu cầu của đảng và
nhà nước trong từng giai đoạn củ thể.
Báo chí góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi đối tượng
tiếp nhận bằng cách thực hiện tốt những nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kì.
Góp phần giáo dục ý thức xã hội , quan điểm cách mạng theo tinh thần đổi mới của
đảng , nâng cao tính tự giác tích cực trong việc xay dựng và cải tạo xã hội . Đồng
thời đẩy lùi hạn chế tiêu cực, tệ nạn xã hội ...đấu tranh chống lại các thế lực thù
địch trong và ngoài nước.
Muốn báo chí hoạt động hiệu quả thì trước hết báo chí phải làm cho nhân
dân thế giới hiểu biết về Việt Nam và ngược lại , thúc đẩy quá trình quốc tế hoá
hợp tác theo xu hướng độc lập dân tộc , dân chủ , hoà bình xã hội ...
Về mặt hình thức: Muốn báo chí hoạt động hiệu quả thì trước hết các tờ
báo tạp chí ,chương trình phát thanh, truyền hình phải hấp đẫn, thoả mãn nhu cầu
thẩm mĩ tác động tình cảm và tư tưởng đến đối tượng. Tác phẩm báo chí phải được
trình bày thuyết phục làm cho quần chúng hứng thú và khơi gợi cho họ những suy
20
- Xem thêm -