Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp hàn quốc ở việt nam...

Tài liệu Văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp hàn quốc ở việt nam

.PDF
105
1017
92

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGUYỄN VIẾT LỘC VĂN HÓA KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ HÀN QUỐC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH HÀ NỘI - 2008 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt, đòi hỏi các DN phải biết khai thác các thế mạnh riêng có, trong đó khai thác các nhân tố văn hóa là một điển hình. Nền kinh tế toàn cầu làm cho môi trường kinh doanh biến đổi nhanh hơn, tác động làm nâng các chuẩn mực văn hóa lên cao khiến các DN phải xây dựng được VHKD có tính thích nghi tốt. Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng. Tính đến nay đã có 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn làm ăn tại Việt Nam. Dẫn đầu các quốc gia là Hàn Quốc với hơn 12,7 tỷ USD (chiếm 15% trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là 78 tỷ USD). Hàn Quốc cũng là nước có số dự án đầu tư vào Việt Nam lớn nhất, với trên 8.400 dự án [30]. Với tỷ trọng vốn đầu tư lớn, các DN Hàn Quốc đóng vai trò hết sức quan trọng và có tác động ảnh hưởng không chỉ đến phát triển kinh tế mà còn đối với cả văn hóa, xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh các tác động tích cực, một thực tế đang đặt ra hiện nay là xung đột xẩy ra nhiều trong các DN có vốn đầu tư Hàn Quốc tại Việt Nam: hiện tượng sa thải nhân viên tùy tiện, đối xử không công bằng với người làm công, hành vi bạo lực với nhân công, lừa đảo, làm hàng giả... ngày càng gia tăng dẫn đến khiếu kiện, biểu tình... [12, tr.3]. Hiện trạng trên đã đặt ra các câu hỏi: Có phải các ông chủ Hàn Quốc không đối xử có văn hóa với lao động người Việt Nam hay không ? Hay là do sự khác biệt về VHKD của Hàn Quốc và Việt Nam ? Hoặc là cả hai lý do này ? Các câu hỏi này đang trở thành vấn đề lớn, gây trở ngại không chỉ đối 2 với việc phát triển kinh doanh của các DN Hàn Quốc ở Việt Nam mà còn tạo ra những hình ảnh xấu, ảnh hưởng đến mối quan hệ bang giao giữa hai nước. Nhằm tìm lời giải cho các câu hỏi đã nêu, luận văn sẽ phân tích, tìm hiểu thực tiễn các khía cạnh của VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu A. Trong nƣớc Vấn đề VHKD nói chung và VHKD của các DN có vốn đầu tư nước ngoài ngoài nói riêng đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam quan tâm. Có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Các nghiên cứu đã đề cập đến các vấn đề chính: Cơ sở lý luận về văn hóa và VHKD; Nghiên cứu, phân tích thực trạng VHKD của các DN ở một số vùng miền hoặc cũng có một số nghiên cứu về VHKD của tập đoàn, công ty nước ngoài hay VHKD đặc trưng của một quốc gia cụ thể; Phân tích ảnh hưởng của cơ chế, chính sách, môi trường văn hóa xã hội đối với VHKD; Một số nghiên cứu nêu ra một số giải pháp, gợi ý chính sách để xây dựng và phát triển VHKD ở Việt Nam. Về cơ sở lý luận của VHKD, các tác giả (Phạm Xuân Nam - 1996; Đỗ Minh Cương - 2001; Nguyễn Hoàng Anh - 2002; Dương Thị Liễu và các đồng sự - 2004) đã nghiên cứu khá sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, kinh doanh; tổng quan khá đầy đủ các quan niệm về triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, về văn hóa doanh nhân..., các yếu tố cấu thành và các nhân tố ảnh hưởng tới chúng. Tuy nhiên, các tác giả cũng có các quan điểm khác nhau về một số vấn đề, chẳng hạn như về các yếu tố cấu thành VHKD, văn hoá DN. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng bất đồng này là chưa có sự thống nhất về khái niệm, đặc trưng của VHKD. Về nghiên cứu VHKD của DN có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và của DN Hàn Quốc ở Việt Nam nói riêng, đã có một số công trình nghiên cứu về VHKD của một tập đoàn, doanh nghiệp cụ thể và chủ yếu là nghiên cứu ảnh 3 hưởng của nhân tố văn hóa đến hoạt động kinh doanh của DN, hay văn hoá ứng xử đặc trưng của các quốc gia (Mai Thanh Lan - 2007; Nguyễn Văn Dân - 2006; Phạm Mai Hương - 2005). Một số nghiên cứu khác như: Về sự khác biệt tính cách giữa văn hóa Hàn Quốc so với văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm 2007); Văn hóa giao tiếp của người Hàn Quốc, so sánh với Việt Nam (của Phan Thu Hiền - 2007). Có một số tác giả tập trung phân tích ảnh hưởng của cơ chế, chính sách, môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội đối với các DN Việt Nam nói chung cũng như DN nước ngoài nói riêng, hay phân tích ảnh hưởng của các yếu tố môi trường ở góc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Phùng Xuân Nhạ - 2006; Đỗ Huy - 1996; Nguyễn Anh Dũng - 2000; Vũ Quốc Tuấn - 2001; Nguyễn Quang Vinh - 2002; Lê Quý Đức - 2005). Các nghiên cứu này đã giới thiệu và đề xuất được một số giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, phát huy vai trò các nhân tố của VHKD, nhưng chủ yếu mới dừng ở dạng các kiến nghị riêng lẻ mà chưa được xây dựng thành một hệ thống cơ chế, chính sách, giải pháp cụ thể. B- Ngoài nƣớc Vấn đề VHKD đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài quan tâm từ những năm 70 của thế kỷ XX. Trong các giáo trình giảng dạy về kinh doanh của Mỹ và các nước phương Tây đã đề cập nhiều đến văn hóa như là một nhân tố không thể thiếu của hoạt động kinh doanh. Một số công trình nổi tiếng về VHKD (G.Hofstede - 1994; John Kotter 1992); về Đạo đức kinh doanh (Farrell, O.C, Fraedrich, J. & Farrell, L. 2002) như là những nền tảng lý luận vững chắc để nghiên cứu sâu về VHKD. Đã có những công trình nghiên cứu về vai trò của các nhân tố văn hoá (như lễ hội, tập quán, truyền thống, hệ thống các giá trị của công ty, tinh thần doanh nghiệp, các chuẩn mực đạo đức, triết lý công ty, văn hoá công ty, văn hóa của 4 người lãnh đạo doanh nghiệp...) trong hoạt động kinh doanh (P.Drucke -1989; T.Peter & R. Waterman - 1996). Một số tác giả Trung quốc đã có nghiên cứu bước đầu về tinh thần doanh nghiệp, trong đó nhấn mạnh vai trò của các nhân tố văn hoá (Quách Thái - 1995; Lưu Vĩnh Thuỵ - 2000), hay nghiên cứu về kinh doanh trong môi trường văn hóa đa dạng, VHKD trong bối cảnh toàn cầu hóa (Thomas L. Friedmen - 2007; Fons Trompenaars & Charles Hampden Turner - 2006); Lịch sử và văn hóa Hàn Quốc, so sánh với Việt Nam (của Lee Chul Hee - 2007). Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về VHKD của các DN có vốn đầu tư nước ngoài đang làm ăn ở Việt Nam nói chung và VHKD của các DN Hàn Quốc nói riêng. Có chăng mới chí là các nghiên cứu nhỏ lẻ về một số khía cạnh, đặc điểm mang tính văn hóa về phong cách quản lý, điều hành, về văn hóa ứng xử... của các ông chủ Hàn Quốc. Đặc biệt chưa có nghiên cứu nào phân tích về thực trạng VHKD của các DN Hàn Quốc ở Việt Nam và đưa ra các lý giải cho thực tiễn xung đột thường xẩy ra trong các DN Hàn Quốc hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát các vấn đề lý luận và thực tiễn về VHKD, đề tài góp phần làm sáng tỏ thực trạng VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam nhằm tìm câu trả lời thuyết phục cho các câu hỏi nêu ở phần trên. Để thực hiện mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ sau: - Hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. - Phân tích thực trạng VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. - Đưa ra một số gợi ý giải pháp nhằm cải thiện VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là VHKD của các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. Đối tượng khảo sát là các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là VHKD được nghiên cứu dưới góc độ nghĩa rộng, tức là toàn bộ các nhân tố văn hóa trong hoạt động kinh doanh của DN. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp kế thừa: Thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các tài liệu từ các nghiên cứu trước, kế thừa có chọn lọc những tài liệu này. - Khảo sát thực tiễn: Do một số vấn đề nghiên cứu của đề tài còn khá mới mẻ, do đó cần phải khảo sát thực tế ở một số DN Hàn Quốc điển hình trên cả nước. Phương pháp chọn mẫu sẽ được sử dụng khi tiến hành khảo sát, điều tra xã hội học để các đánh giá được sát thực. - Nghiên cứu liên ngành: Nội dung nghiên cứu của đề tài liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành như: Xã hội học, Tâm lý học, Triết học, Ngôn ngữ học, Văn hóa học, Kinh tế học, v.v…nên trong quá trình triển khai, các phương pháp nghiên cứu liên ngành trên được áp dụng. - Phương pháp luận phép biện chứng duy vật: Quan điểm lịch sử cụ thể luôn được quán triệt trong quá trình khảo sát, đánh giá, phân tích tình hình thực tiễn. - Phương pháp phân tích - so sánh: Đề tài nghiên cứu, phân tích, so sánh văn hóa và VHKD của Hàn Quốc với Việt Nam để tìm lời giải cho các mâu thuẫn, xung đột cũng như đưa ra gợi ý các giải pháp cho xây dựng VHKD trong các DN Hàn Quốc phù hợp với văn hóa Việt Nam. 6 6. Dự kiến những đóng góp của luận văn - Hệ thống được lý luận và thực tiễn VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. - Làm rõ thực trạng VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. - Gợi ý một số giải pháp nhằm cải thiện VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, các phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của VHKD trong các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng VHKD của các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. Chương 3: Một số gợi ý giải pháp cải thiện VHKD của các DN Hàn Quốc ở Việt Nam. 7 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VĂN HÓA KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC Ở VIỆT NAM 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1.1. Khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Văn hoá kinh doanh Văn hóa hiện diện và thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống con người như một yếu tố không thể thiếu được của tổng thể xã hội. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là con người nhận thức được một cách rõ ràng kiến trúc của văn hóa trong mỗi hoạt động hoặc có thể định liệu được những liên hệ mật thiết có tính chất văn hóa trước khi đi đến những quyết định. Người ta ngày càng nhận ra rằng văn hóa tham gia vào mọi quá trình hoạt động của con người. Và đã đi sâu tìm hiểu những sắc thái văn hóa của các hoạt động của con người như: văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa giáo dục, văn hóa gia đình... Kinh doanh là một hoạt động đặc thù của con người, do vậy nó cũng là một phạm trù của văn hóa. Có khá nhiều quan niệm, định nghĩa về VHKD. Trước khi đi đến một định nghĩa mang tính khái quát cao, chúng ta khảo sát một số định nghĩa điển hình: - Theo các nhà nghiên cứu của Viện Kinh doanh Nhật Bản - Hòa Kỳ (JABA), "VHKD có thể được định nghĩa như ảnh hưởng của những mô hình văn hóa của một xã hội đến những thiết chế và thông lệ kinh doanh của xã hội đó" [5, tr.13]. - Theo Vern Terspstra và Kenneth David (Trường Đại học Michigan Hoa Kỳ), "VHKD bao gồm những nguyên tắc điều chỉnh việc kinh doanh, việc 8 ấn định ranh giới giữa hành vi cạnh tranh và các ứng xử vô đạo đức, những quy tắc phải tuân theo trong các thỏa thuận kinh doanh" [5, tr.14]. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số định nghĩa về VHKD như sau: - GS.TS Nguyễn Duy Quý: "Trong hoạt động kinh doanh có một nền VHKD thể hiện sự vận động khoa học và kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh doanh, ở những cách thức giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh thương mại" [22, tr.16]. - GS Hoàng Trinh: "VHKD (hay kinh doanh có văn hóa) có nghĩa là hoạt động kinh tế có hiệu quả, đạt năng suất, sản lượng, giá trị cao, giá thành thấp, sản phẩm đạt chất lượng cao, tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường trong nước và ngoài nước, làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước" [2, tr.99]. - GS Phạm Xuân Nam: "VHKD là phương pháp kinh doanh bằng nắm bắt thông tin, ra sức cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, quan tâm thích đáng đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, bồi dưỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ trong việc tạo ra những hàng hóa và dịch vụ có chất lượng tốt, hình thức đẹp, giá cả hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, giữ được chữ tín với người tiêu dùng" [22, tr.15]. Với cách tiếp nhận như trên dẫn đến cách hiểu VHKD là sự vận dụng các nhân tố văn hóa vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cụ thể đó là các nhân tố về khoa học kỹ thuật, công nghệ, phương thức tổ chức và quản lý, giao tiếp và ứng xử... Và nhấn mạnh biểu hiện của VHKD như là tính hiệu quả, chất lượng sản phẩm, chữ tín, đạo đức. Một định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu chú ý là của TS. Đỗ Minh Cương: "VHKD là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra 9 trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ" [8, tr.50]. Định nghĩa trên tiếp cận VHKD từ hai phương diện là những nhân tố văn hóa được lựa chọn từ văn hóa dân tộc đưa vào hoạt động kinh doanh và những nhân tố văn hóa được chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế không có sự tách bạch như vậy mà hai loại nhân tố hòa quyện, thẩm thấu vào nhau để tạo thành các yếu tố cấu thành VHKD. Qua các phân tích ở trên, có thể đưa ra một khái niệm chung về VHKD, đó là: "VHKD là toàn bộ các nhân tố văn hóa đƣợc chủ thể kinh doanh chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh từ đó tạo nên bản sắc kinh doanh riêng có của chủ thể". Chọn lọc các nhân tố văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội (đó là phong tục, tập quán, thói quen, giá trị, thẩm mỹ, ngôn ngữ, tôn giáo...) để đưa vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh; Và trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ thể tạo ra nhân tố văn hóa đặc thù của mình (phong cách, phong thái kinh doanh, hệ giá trị, hình thức mẫu mã sản phẩm, kiến trúc nội thất... của DN, hay của một dân tộc, quốc gia); Sử dụng các nhân tố văn hóa đã được chọn lọc và tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của chủ thể. 1.1.1.2. Văn hoá doanh nghiệp Văn hóa DN là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một DN, trở thành các giá trị, tiêu chuẩn, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của DN ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của DN trong việc theo đuổi và thực hiện mục đích chung. 10 Các giá trị văn hóa đó của DN thường được thể hiện qua những biểu trưng (symbol) chung thuộc về hình thức (logo, đồng phục…) cùng các yếu tố tạo nên thương hiệu; qua năng lực, phẩm chất, trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra chất lượng sản phẩm và những thành tích, truyền thống; qua phong cách giao tiếp, ứng xử thống nhất của toàn đơn vị (đối với nội bộ, đối với khách hàng) trong quá trình sản xuất kinh doanh v.v... Với quan điểm như vậy, có thể nói văn hóa DN biểu hiện VHKD của DN, còn VHKD biểu đạt lối kinh doanh của nhiều chủ thể kinh doanh như: VHKD của một cộng đồng, một dân tộc, một khu vực hay một cá nhân, tổ chức kinh doanh nào đó. Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về văn hóa DN được đưa ra: Theo Georges de Saite Marie, chuyên gia người Pháp đã đưa ra định nghĩa như sau: “Văn hóa DN là tổng hợp các giá trị, các biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng sâu xa của DN” [6, tr.259] Theo định nghĩa của tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization – ILO): “Văn hóa DN là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một tổ chức đã biết” [6, tr.259]. Một định nghĩa được chấp nhận khá rộng rãi là định nghĩa của chuyên gia nghiên cứu các tổ chức Edgar Schein: “Văn hóa DN là tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung quanh”. [6, tr.26]. Theo PGS.TS Dương Thị Liễu: “Văn hóa DN là toàn bộ giá trị tinh thần mang đặc trưng riêng biệt của DN có tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của tất cả các thành viên DN”. 11 Qua các định nghĩa trên cho thấy, phần lớn các ý kiến mới chỉ dừng lại ở những giá trị cần phải có bên trong DN mà chưa đề cập đến những yếu tố có thể nằm vượt ra bên ngoài DN mà có tác động đến việc tạo nên bản sắc riêng của DN, đó chính là môi trường văn hoá và những yếu tố văn hoá hợp thành trong quá trình sản xuất kinh doanh. Với quan niệm như vậy, văn hóa DN sẽ bao gồm: - Môi trường văn hoá của DN; - Hệ thống các giá trị của DN; - Các nhân tố văn hoá trong sản xuất, kinh doanh của DN. Và chính văn hóa DN tạo nên sự đặc thù, khác biệt cho DN, là cái phân biệt giữa DN này với DN khác; là một “tiểu văn hoá” và là cái bộ phận nếu so sánh với nền văn hoá của một dân tộc hay một quốc gia. Một định nghĩa thể hiện được các quan điểm nêu trên là của TS. Đỗ Minh Cương: “Văn hóa DN là một dạng của văn hoá tổ chức bao gồm những giá trị, những nhân tố văn hoá mà DN kế thừa và sáng tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, tạo nên cái bản sắc của DN và tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của tất cả các thành viên của nó”. Để phục vụ cho việc nhận diện văn hóa của một DN, người ta đưa ra các mô hình về văn hóa DN hiện nay. Các mô hình văn hóa DN: Có thể khi thành lập DN, nhà sáng lập thường "vay mượn" ý tưởng các mô hình mẫu hay mô hình lý tưởng phù hợp. Với môi trường kinh doanh đa văn hoá ngày nay, các nhà kinh tế đã khái quát hoá nên bốn mô hình văn hóa DN và chỉ ra những nền văn hoá bản địa khác nhau có ảnh hưởng như thế nào đến từng mô hình là: i) Mô hình văn hoá gia đình; ii) Mô hình văn hoá tháp Eiffel; iii) Mô hình văn hoá tên lửa dẫn đường; iv) Mô hình văn hoá lò ấp trứng. 12 1. Mô hình văn hoá gia đình: Nghĩa ẩn dụ "gia đình" trong khái niệm văn hoá để chỉ tính nhân văn, đó là mối quan hệ trực tiếp, gần gũi nhưng có tính thứ bậc trên dưới, như một gia đình, "người cha" là người có kinh nghiệm, quyền lực đối với "con cái". Kết quả là sự hình thành văn hoá hướng "quyền lực". Tuy nhiên đây là thứ "quyền lực" hết sức thân thiện, không có tính đe doạ, quân phiệt. Trong mô hình văn hóa gia đình hướng quyền lực, việc thực thi quyền lực lớn nhất thông qua sự hòa hợp giữa các thành viên. Sự trừng phạt lớn đối với các thành viên là không được yêu mến hay không còn có vị trí trong gia đình nữa. Vì vậy áp lực chính đối với họ là tính đạo đức và xã hội chứ không phải là tài chính hay tính pháp lý. Điển hình cho lựa chọn mô hình này là ở các DN của Ai cập, Italia, Nhật, Singapore, Bắc Triều tiên, Tây Ban Nha. 2. Mô hình tháp Eiffel Ở phương Tây, thường chia lao động theo vai trò và chức năng. Mô hình tháp Eiffel được lựa chọn làm biểu trượng cho mô hình văn hoá này vì tháp có độ dốc đứng, cân đối, thu hẹp ở đỉnh và nới rộng ở đáy, chắc chắn, vững chãi. Hệ thống cấp bậc trong mô hình tháp khác xa so với mô hình gia đình. Thứ bậc cao hơn được phân chia một cách rõ ràng, thể hiện chức năng điều hành thứ bậc thấp hơn. Cấp dưới phải tuân thủ ông chủ vì họ có vai trò chỉ đạo bạn. Mục đích là bạn phải tuân thủ theo ý của ông chủ. Ông chủ có đủ quyền lực pháp lý để ra lệnh cho bạn, quyết định một cách áp chế, hay đơn giản là buộc bạn phải làm việc theo sự chỉ đạo của ông ta. Nếu bạn hay bất cứ một cấp dưới nào không tuân thủ, hệ thống không thể thực hiện được chức năng của mình. Trong mô hình tháp Eiffel, mỗi vị trí có một vai trò nhất định. Điều này là hiển nhiên. Hệ thống cấp bậc trong mô hình tháp rất khách quan, dựa trên pháp lý, trong đó tất cả mọi người đều tuân thủ các quy định của công ty và các quy định này áp dụng cho mọi cấp bậc. 13 Một sự khác biệt nữa của mô hình tháp Eiffel là quá trình phát triển của DN được hỗ trợ rất nhiều bởi năng lực chuyên môn. Và vì thế hầu hết các DN theo mô hình gia đình thường không chấp nhận mô hình tháp Eiffel. Quan hệ cá nhân làm thiên lệch sự phán quyết, tạo nên chủ nghĩa thiên vị, tạo ra rất nhiều ngoại lệ và làm mờ ranh giới của giữa vai trò và trách nhiệm. Hệ thống thứ bậc trong DN theo mô hình này được mô tả, xếp loại theo mức độ khó, phức tạp và tính trách nhiệm cùng với mức lương tương ứng. Tiếp đó là sự tìm kiếm ứng viên cho các vị trí đó. Điều này khiến cho công việc tuyển dụng công bằng, khách quan và kỹ càng và tuân thủ theo nguyên tắc việc tìm người, giao việc cho những người thích hợp nhất. Mô hình tháp Eiffel thường được thấy nhiều ở các DN Đức, Australia, Colombia, Hàn Quốc. 3. Mô hình văn hoá tên lửa dẫn đường Mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường khác với cả hai mô hình văn hoá gia đình và tháp Eiffel ở chủ nghĩa quân bình, nhưng khác mô hình gia đình và giống mô hình tháp ở tính khách quan và hướng nhiệm vụ. Mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường gần giống với mô hình tổ chức làm việc theo nhóm (team work). Mỗi người đều biết rõ phần việc của mình. Làm thế nào để tất cả các thành viên cùng tham gia hoạt động ? Tất cả đều ngang nhau, hoặc ít nhất gần như ngang nhau. Người đứng đầu mang tính chất điều phối, phối hợp vì mục tiêu chung. Trong mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường, sự thay đổi diễn ra nhanh chóng, mục tiêu luôn vận động, nhiều mục tiêu mới xuất hiện, nhóm làm việc mới hình thành, nhóm cũ giải tán. Người chuyển từ nhóm này sang nhóm khác đi đôi với việc chuyển từ việc này sang việc khác dẫn đến xu hướng luân chuyển công việc cao, lòng trung thành với chuyên môn và công việc lớn hơn lòng trung thành với công ty. Do đó, xét về nhiều mặt, mô hình văn hóa tên 14 lửa dẫn đường đối lập với mô hình văn hóa gia đình với sợi dây liên hệ bền vững, dài lâu và tràn đầy tình cảm. Với đặc điểm như vậy, mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường thường thấy ở các tổ chức nghiên cứu, mà Cơ quan Hàng không Vũ trụ (NASA) là một ví dụ điển hình. 4. Mô hình văn hoá lò ấp trứng Mô hình văn hoá lò ấp trứng dựa trên quan điểm về thuyết hiện sinh: Cơ cấu tổ chức không quan trọng bằng sự hoàn thiện cá nhân. Đề cao sự tự thể hiện và tự hoàn thiện của cá nhân. Mô hình này mang tính chất cá nhân và quân bình. Do đó mô hình văn hóa này tạo nên sân chơi lành mạnh để phát huy ý tưởng và đáp lại một cách thông minh những sáng kiến mới. Tuy vậy mô hình này thường xuyên, nếu không muốn nói là liên tục, hoạt động ở một môi trường tình cảm tận tâm, nhưng sự tận tâm ở đây ít hướng đến con người mà là hướng đến sự thay đổi thế giới, chinh phục thế giới. Một trong những hạn chế của mô hình lò ấp trứng là sự gắn bó các thành viên phụ thuộc vào sự hứng thú với công việc, và sự gắn bó này hoàn toàn tự nguyện, được nuôi dưỡng bởi hy vọng và lý tưởng. Điều này khiến mô hình lò ấp trứng có sự giới hạn về quy mô do "sự kiểm soát" của người lãnh đạo. Với đặc điểm như vậy, mô hình văn hóa lò ấp trứng thường thấy ở Thung lũng Silicon (Mỹ), Glen (Scotlen) hay một số công ty công nghệ cao của Anh. Trong thực tế, sẽ không có DN nào chỉ tuân thủ theo một trong bốn mô hình nêu trên, mà sẽ có sự vận dụng hoà trộn giữa các mô hình và có xu hướng nổi trội về một mô hình nào đó. Hình 1.1 dưới đây có thể sử dụng để nhận diện về VHKD của một DN. (Xem phụ lục 1: Đặc điểm của bốn mô hình văn hóa DN nêu trên). 15 Chủ nghĩa bình quân Mô hình lò ấp trứng: Mô hình tên lửa iều Hướng hoàn thiện khiển: cá nhân Hướng nhiệm vụ Nhiệm vụ Con ngƣời Mô hình gia đình: Mô hình Eiffel: Hướng cá nhân Hướng vai trò Hệ thống thứ bậc Hình 1.1. Mô hình văn hoá doanh nghiệp Nguồn: Fons Trompenaars - Charle Hampden - Turner (2006), Chinh phục các làn sáng văn hóa, Nxb Trí thức, Hà Nội, trang 289. 1.1.1.3. Văn hoá doanh nhân Trước hết "Doanh nhân" là ai ? Một số nhà kinh tế cho rằng doanh nhân là những người thực sự làm chủ các quan hệ kinh tế trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh tư nhân. Họ cho rằng: "Doanh nhân là người chủ sở hữu đối với vốn, tiền bạc, tài sản trí tuệ và cả quyền lực trong hoạt động sản xuất, buôn bán để đạt được sự gia tăng không ngừng về mặt lợi nhuận, sở hữu tư nhân. Doanh nhân là người coi lợi nhuận, sở hữu tư nhân gia tăng không ngừng, là định hướng giá trị cơ bản của hoạt động và quan hệ của bản thân, cũng là lợi ích sống còn của chính mình". [7, tr.9] Theo quan điểm này thì đối tượng được gọi là doanh nhân bị giới hạn và không phù hợp với tình hình Việt Nam khi có nhiều loại hình DN. Theo Schumpeter: "Doanh nhân là một tính cách không phải một nghề" và xem doanh nhân như là lực lượng tạo nên bước đột phá trong công nghiệp và thương mại, nhờ đó mà nền kinh tế mới tăng trưởng. Theo Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp 16 Việt Nam: "Doanh nhân là nhà đầu tư, nhà quản lý, là người chèo lái con thuyền DN mà điểm khác biệt của doanh nhân với những người khác là ở chỗ họ là người dám chấp nhận mạo hiểm, rủi ro khi dấn thân vào con đường kinh doanh". Tóm lại, có thể nói: Doanh nhân là người làm kinh doanh, chịu trách nhiệm đại diện cho DN trước pháp luật và xã hội. Doanh nhân là người sở hữu và điều hành DN. Văn hóa Doanh nhân ? Văn hóa của một cá nhân là những hiểu biết cơ bản, trên bình diện rộng về thế giới tự nhiên và xã hội của cá nhân đó. Theo PGS. Hồ Sĩ Quý: "Văn hóa doanh nhân là tập hợp của những giá trị căn bản nhất, những khuôn mẫu văn hóa xác lập nên nhân cách của con người doanh nhân, đó là con người của khát vọng làm giàu, biết cách làm giàu và dấn thân để làm giàu, dám chịu trách nhiệm, dám chịu rủi ro đem toàn bộ tâm hồn, nghị lực và sự nghiệp của mình ra để làm giàu cho mình, cho DN và cho xã hội" [7, tr.11]. Như vậy, Văn hóa doanh nhân là toàn bộ các nhân tố văn hóa mà các doanh nhân chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện chúng trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. 1.1.2. Các yếu tố cấu thành VHKD Các nhân tố văn hóa đã được chọn lọc và tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh không thể tách bạch sử dụng độc lập mà chúng hòa quyện với nhau tạo thành hệ thống các nhân tố cấu thành nên VHKD của một DN. Có thể khái quát thành các nhóm yếu tố cơ bản sau: 1.1.2.1. Triết lý kinh doanh Khi xem xét quan hệ văn hóa và quản trị theo nghĩa rộng, hoạt động quản trị, cụ thể là quản trị kinh doanh, vừa là một bộ phận cấu thành văn hóa, 17 vừa là yếu tố chịu ảnh hưởng, chịu sự quy định bởi các yếu tố cấu thành văn hóa. Phương thức quản trị, hành vi ứng xử đều có bản chất văn hóa theo hai khía cạnh như vậy, có thể phân theo hai quan hệ ảnh hưởng là: Thứ nhất, văn hóa tác động đến việc lựa chọn chiến lược kinh doanh của DN trong môi trường cạnh tranh khốc liệt và đa văn hóa. Thứ hai, liên quan đến sự ứng xử của chủ thể kinh tế với đối tác: thành viên trong nội bộ DN (với cấp trên, cấp dưới, người lao động...), với khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các liên minh... Hai quan hệ nêu trên vừa có tính độc lập tương đối vừa tác động lẫn nhau và có sự xuyên suốt của sợi chỉ đỏ - Triết lý kinh doanh. Nói đến Triết lý kinh doanh của một DN là nói đến mục đích, ý nghĩa cao nhất của quản trị DN. Đó là những vấn đề mang tính chất triết lý - lý lẽ để tồn tại và phát triển bền vững của DN. Mỗi một DN có ngành nghề kinh doanh khác nhau, có quan niệm về hệ thống giá trị khác nhau, do đó, triết lý kinh doanh sẽ là một hệ thống tư tưởng chủ đạo, thể hiện quan điểm riêng của mỗi DN về giá trị vật chất và tinh thần. Tóm lại, Triết lý kinh doanh là những tƣ tƣởng triết học chủ đạo, có hệ thống đƣợc vận dụng vào hoạt động kinh doanh, phản ánh các niềm tin, giá trị, các nguyện vọng cơ bản và những tƣ tƣởng chủ đạo mà các nhà quản trị theo đuổi, gắn bó. Và tất cả những điều đó tạo nên sợi chỉ đỏ chỉ dẫn cho hoạt động kinh doanh (xem hộp 1.1 và 1.2). Kết cấu nội dung của triết lý kinh doanh của DN thường gồm những bộ phận sau: (xem hộp 1.2) - Sứ mệnh và các mục tiêu cơ bản. - Các phương thức hành động để đạt được những sứ mệnh và mục tiêu. - Các nguyên tắc tạo ra một phong cách ứng xử, giao tiếp và hoạt động kinh doanh đặc thù của DN. 18 Hộp 1.1. Giá trị cốt lõi so sánh Merck Walt Disney Trách nhiệm xã hội của công ty Không hoài nghi Tính ưu việt, nổi bật trong mọi Nuôi dưỡng và truyền bá khía cạnh của công ty những giá trị tốt đẹp Tính trung thực và kiên định Tính sáng tạo, ước mơ, trí Lợi nhuận từ lao động và có lợi tưởng tượng ích cho nhân loại Tính nhất quán và kỹ lưỡng Bảo tồn sự kỳ diệu thế giới Disney Nordstrom Sony Phục vụ khách hàng là tiên Nâng cao nền văn hóa Nhật và quyết vị thế quốc gia Tính cần cụ và năng suất cá Tiên phong thực hiện điều nhân tưởng chừng bất khả thi Không bao giờ tự mãn Khuyến khích khả năng và tính Tính ưu việt về danh tiếng: sự sáng tạo của cá nhân. đặc biệt. Nguồn: Bộ môn Văn hóa Kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2006), Bài giảng Văn hóa Kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 19 Hộp 1.2. Giá trị cốt lõi của SAMSUNG Cơ cấu giá trị của Samsung dựa theo hệ thống P-V-P; triết lý quản lý, giá trị cốt lõi, và quy chuẩn đạo đức (nguyên tắc) toàn cầu. Con người : Chúng tôi luôn đánh giá cao vai trò nhân viên của mình. Tin tưởng rằng “Con người là linh hồn của một công ty”,chúng tôi tạo mọi cơ hội để họ thể hiện năng lực của mình. Tính ưu tú : Với niềm đam mê vô tận và với tinh thần đầy thách thức, chúng tôi nỗ lực hết sức mình nhằm mang lại cho thế giới những điều tốt đẹp nhất. Sự Thay đổi : Chúng tôi nhanh chóng thực hiện thay đổi và cải tiến dựa trên nhận thức về khủng hoảng: chúng tôi không thể tồn tại nếu chúng tôi không liên tục phấn đấu để đổi mới. Tính đồng nhất : Chúng tôi luôn hành động đúng đắn và có đạo đức,đảm bảo sự công bằng với sự tôn trọng và lịch thiệp. Cùng nhau thịnh vượng : Là một doanh nghiệp gương mẫu, chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc theo đuổi sự thịnh vượng của cộng đồng, quốc gia, và trong cả xã hội loài người.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng