Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn học việt nam thế kỷ xviii nửa đầu thế kỷ xix dưới góc độ giới...

Tài liệu Văn học việt nam thế kỷ xviii nửa đầu thế kỷ xix dưới góc độ giới

.PDF
186
1
54

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ THU HƢỜNG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX DƢỚI GÓC ĐỘ GIỚI Ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 9 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.VŨ THANH HÀ NỘI – 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trình bày trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác và khoa học. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 2022 Tác giả luận án Vũ Thị Thu Hƣờng LỜI CẢM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Vũ Thanh - người thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận án này. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Văn học - Học viện Khoa học xã hội, các thầy cô ở Viện Văn học đã chỉ bảo, góp ý, cung cấp cho tôi những tài liệu quý giá trong quá trình học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu nặng tới gia đình, những người thân, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu trong suốt nhiều năm qua. Hà Nội, ngày tháng Tác giả luận án Vũ Thị Thu Hƣờng năm 2022 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............... 6 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .................................................................. 6 1.1.1. Các tư liệu tiếng Việt nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết giới.................................................................. 6 1.1.2. Các tư liệu nước ngoài nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết giới ............................................................. 17 1.2. Cơ sở lý thuyết .................................................................................................. 19 1.2.1. Khái niệm giới và nghiên cứu giới ......................................................... 19 1.2.2. Lý thuyết về diễn ngôn giới và diễn ngôn tính dục ................................ 20 1.2.3. Quan niệm về nam tính .......................................................................... 25 1.2.4. Quan niệm về nữ tính ............................................................................. 33 1.3. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, tƣ tƣởng hình thành diễn ngôn giới trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX ....................................... 35 Tiểu kết: ................................................................................................................... 41 Chƣơng 2: QUAN NIỆM VỀ NAM GIỚI VÀ NAM TÍNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ......................... 42 2.1. Nam giới từ điểm nhìn tự kiến tạo, tự khắc họa ........................................... 42 2.1.1. Khắc họa hình tượng nam giới và sự duy trì cấu trúc nam tính lý tưởng theo quan niệm Nho giáo ....................................................................... 42 2.1.2. Nam giới là chủ thể kiến tạo tri thức ...................................................... 45 2.1.3. Khắc họa chân dung bằng phương thức tự thuật .................................... 48 2.1.4. Sự chuyển dịch cấu trúc nam tính .......................................................... 54 2.2. Nam giới từ điểm nhìn nữ giới, xét lại thế giới đàn ông bằng cái nhìn định giá ..................................................................................................................... 72 2.2.1. Thân thể nam giới từ điểm nhìn nữ giới ................................................. 72 2.2.2. Nam giới trở thành đối tượng bị đả kích, châm biếm, giễu nhại công khai ...... 76 Tiểu kết ..................................................................................................................... 78 Chƣơng 3: QUAN NIỆM VỀ NỮ GIỚI VÀ NỮ TÍNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII - NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ......................... 79 3.1. Nữ giới từ điểm nhìn định vị của nam giới .................................................... 79 3.1.1. Quan niệm chính thống về nữ giới ......................................................... 79 3.1.2. Quan niệm phi chính thống .................................................................. 104 3.2. Nữ giới tự biểu đạt nhƣ một phản kháng và nhƣ một bản năng tự phát ....... 114 3.2.1. Nữ giới tự thuật và đề vịnh ................................................................... 114 3.2.2. Sự miêu tả thân thể nữ gắn với khát khao dục tính .............................. 121 Tiểu kết: ................................................................................................................. 123 Chƣơng 4: MỘT SỐ HIỆN TƢỢNG VĂN HÓA TÍNH DỤC ĐẶC BIỆT VÀ THỦ PHÁP BIỂU ĐẠT DIỄN NGÔN GIỚI ĐẶC THÙ ...................................... 125 4.1. Một số hiện tƣợng văn hóa tính dục đặc biệt .............................................. 125 4.1.1. Nam tính mềm, đồng tính luyến ái và biến đổi giới ............................. 125 4.1.2. Quá trình tự giải và quyền tự quyết về tính dục (sexual agency) của nữ giới. ..... 140 4.2. Một số thủ pháp biểu đạt diễn ngôn giới đặc thù ........................................ 145 4.2.1. Mượn giọng như chiến lược đối phó cấm kỵ của nam giới ................. 145 4.2.2. Male gaze (nhãn quan nam giới) và sự thể hiện nhục cảm qua thân thể nữ ...... 155 Tiểu kết: ................................................................................................................. 162 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 163 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................ 166 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 167 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Trong nhiều năm qua, vấn đề giới và quan niệm về giới tính/ phái tính đã được nghiên cứu sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới. Giới tính - phái tính là những khái niệm có ý nghĩa xã hội học quan trọng, chi phối đến nhiều phương diện của đời sống kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa... Dù lịch sử nghiên cứu lâu dài, nhưng nỗ lực để có những khám phá và kết luận xác đáng về giới ở những bối cảnh văn hóa lịch sử cụ thể vẫn đang là mối quan tâm của nhiều ngành khoa học. Tại Việt Nam, đã có nhiều công trình tìm hiểu vấn đề giới trên góc độ xã hội học, tâm lí học, văn hóa học... Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu này chú trọng nghiên cứu về phụ nữ, chỉ ra thực trạng thua thiệt ở nữ giới, vấn đề bất bình đẳng giới, và trào lưu nữ quyền trong xã hội hiện đại những năm gần đây. Trong văn học, việc ứng dụng nữ quyền luận trong nghiên cứu, phê bình sáng tác của các cây bút nữ dần trở thành xu hướng phổ biến. Tuy vậy, nghiên cứu về giới không đồng nhất với nghiên cứu về phụ nữ, lý thuyết giới không chỉ là lý thuyết về nữ quyền. Do vậy, việc tìm hiểu một tác giả hay một giai đoạn văn học từ các giác độ đa chiều của lý thuyết giới, đặc biệt từ hướng tiếp cận diễn ngôn, là việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn. 1.2. Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu XIX là một giai đoạn văn học đặc biệt bởi đây là thời kì kết tinh thành tựu đặc sắc so với các giai đoạn trước đó. Hình tượng người phụ nữ và tiếng nói của các tác giả nữ vốn dĩ mờ nhạt và chiếm vị trí khiêm tốn trong văn học các giai đoạn trước thì nay, trong văn học thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX bỗng trở thành hình tượng trung tâm, chi phối sâu sắc đến tư tưởng chủ đạo của cả giai đoạn, để lại chủ âm cảm thương rõ nét như một vĩ thanh suốt các giai đoạn sau này. Đó dường như là một phản đề với dòng văn học ngôn chí đậm chất nam tính, nam quyền kéo dài trong nhiều thế kỉ trước, làm dấy lên suy đoán về một sự hình thành nguồn mạch văn học nữ tính làm tiền đề cho âm hưởng nữ quyền trong văn học hiện đại Việt Nam. Đây chính là cơ sở để chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX từ góc độ giới. Sự diễn giải về giới trong văn học giai đoạn này không chỉ mang tính hiện tượng, mà là sự nối tiếp và bùng nổ của một loạt các quan niệm về giới có dòng chảy từ trước đó, trong văn hóa truyền thống và các giai đoạn lịch sử. 1 1.3. Với đề tài Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX dưới góc độ giới, chúng tôi lựa chọn hướng tiếp cận giai đoạn văn học này từ lý thuyết diễn ngôn. Hướng đi này sẽ góp phần đưa đến cái nhìn toàn diện và đa chiều hơn về giới tính/ phái tính trong văn học Việt Nam giai đoạn XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, giúp tái hiện và lý giải quá trình hình thành quy phạm – phá vỡ quy phạm trong văn học thời kỳ này, từ đó nhận ra quá trình chồng lấn giữa tiếng nói của vùng chính thống và ngoại biên, để xem vấn đề về con người đã được phát biểu và diễn giải như thế nào thông qua những mã giới tính chìm lấp trong những tác phẩm. Vì vậy, góc nhìn, cách tiếp cận này hứa hẹn nhiều triển vọng cho nghiên cứu văn học từ góc độ diễn ngôn giới. Đó là lý do để chúng tôi lựa chọn vấn đề Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX dưới góc độ giới làm đề tài nghiên cứu của luận án. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hướng đến việc làm rõ thêm những vấn đề về lý thuyết giới như diễn ngôn giới, diễn ngôn về nam tính - nữ tính, sự giao cắt giữa các loại diễn ngôn này trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX qua một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Qua đó, chỉ ra những quan niệm mới về con người cũng như tìm hiểu những thiết chế quyền lực ẩn sâu chi phối đến những quan niệm đó. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án của chúng tôi hướng tới thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau: Thứ nhất, điểm lại, tổng hợp, khái quát hóa các hướng tiếp cận, nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX nói riêng từ lý thuyết giới qua các công trình tiêu biểu ở trong và ngoài nước. Những xu hướng nghiên cứu và các lý thuyết được sử dụng là tiền đề, cơ sở để chúng tôi thực hiện luận án này. Trên cơ sở thu thập các tài liệu có liên quan, chúng tôi khái quát một cách có hệ thống các khái niệm về diễn ngôn và giới tính, phái tính; làm căn cứ để triển khai luận án. 2 Thứ hai, từ việc xác lập lý thuyết, chúng tôi triển khai phân tích diễn ngôn nam tính, diễn ngôn nữ tính và sự hoán vị, dịch chuyển giữa hai loại diễn ngôn này trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX với các đặc điểm cụ thể. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Trong luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX dưới góc độ giới nhằm tìm hiểu các diễn ngôn về giới tính – phái tính cũng như các tác động của những diễn ngôn quyền lực chi phối tư tưởng nghệ thuật, xây dựng hình tượng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Về phạm vi tư liệu, do số lượng tác giả và tác phẩm lớn, chúng tôi sẽ không thể đi sâu toàn bộ các hiện tượng tác giả, tác phẩm mà sẽ tập trung hơn vào khảo sát các trước tác và tác giả tiêu biểu của giai đoạn này như: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Phạm Thái… Các sáng tác của các tác giả khác sẽ là nguồn tư liệu để chúng tôi tiến hành khảo sát, so sánh, đối chiếu, phân tích khi cần thiết. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp tiếp cận liên ngành Trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, tiếp cận liên ngành là một phương pháp có nhiều ưu điểm so với các phương pháp nghiên cứu khác. Trong luận án này, phương pháp nghiên cứu liên ngành được vận dụng để tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi thấy được những nền tảng hình thành và quá trình vận động, phát triển của những quan niệm về giới trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX trong mối liên hệ với các bối cảnh, thiết chế văn hóa; giúp soi chiếu mối liên hệ giữa văn hóa và văn học. 4.2. Phương pháp lịch sử Đề tài được lựa chọn là nghiên cứu về một giai đoạn văn học, nên chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử để thấy được sự phát triển, những tiến bộ hoặc hạn chế của vấn đề trong chiều dài lịch sử và các bối cảnh xã hội cụ thể. 3 4.3. Phương pháp loại hình Luận án khảo sát, tiếp cận văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX từ diễn ngôn về giới và các lý thuyết có liên quan. Phương pháp loại hình được sử dụng để tìm hiểu các loại hình diễn ngôn, đến việc phân loại kiểu tác giả và hình tượng, các cấu trúc nam tính - nữ tính… trong văn học giai đoạn này. Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn có mức độ kết tinh đặc biệt cả về lượng và chất. Do vậy, với phạm vi tư liệu khá bề bộn và có những tư liệu nằm ngoài khả năng tiếp cận của chúng tôi nên luận án chọn lối nghiên cứu trường hợp, thông qua các tác phẩm tiêu biểu đã được dịch thuật và công bố. Ngoài ra, luận án sử dụng một số thao tác nghiên cứu như giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, hệ thống hóa, mô hình hóa,… để hỗ trợ cho các phương pháp nghiên cứu trên. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án bước đầu giới thiệu các vấn đề lý luận cơ bản về lý thuyết giới và hướng nghiên cứu, tiếp cận văn học từ diễn ngôn giới tính, phái tính; từ đó đặt vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống về giới trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu XIX dưới sự soi sáng của lý thuyết diễn ngôn. - Tìm hiểu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu XIX từ diễn ngôn về giới tính/ phái tính, luận án khám phá những bình diện quan trọng như: quan niệm và hình dung về nam giới/ nữ giới, nam tính/ nữ tính; những đặc trưng về diễn ngôn giới, một số hiện tượng văn hóa tính dục và thủ pháp biểu hiện diễn ngôn giới đặc thù, từ đó làm nổi bật quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, giải thích sự khác biệt trong quan niệm nghệ thuật về con người của giai đoạn này so với các giai đoạn văn học trung đại khác. - Luận án góp phần khẳng định triển vọng nghiên cứu của hướng tiếp cận văn học từ lí thuyết giới. Theo hướng nghiên cứu này, nhiều hiện tượng văn học, trong đó có văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX sẽ được phân tích, khai thác thêm nhiều tầng vỉa ý nghĩa mới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về mặt lý luận: Thông qua nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX từ góc độ giới, luận án chỉ ra sự cần thiết của việc tiếp cận một giai 4 đoạn nhiều thành tựu của văn học trung đại Việt Nam từ các lý thuyết hiện đại, từ đó chỉ ra những điểm nhìn mới mẻ, đa chiều trong quan niệm nghệ thuật về con người. Về mặt thực tiễn: - Kết quả nghiên cứu của luận án khẳng định triển vọng nghiên cứu của hướng tiếp cận văn học từ lý thuyết giới nói riêng và các lý thuyết hiện đại nói chung, cung cấp cơ sở khoa học cho các nghiên cứu liên ngành khác. - Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết giới trong việc nghiên cứu, giảng dạy các tác giả, tác phẩm thuộc giai đoạn văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. 7. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến đề tài, Tài liệu tham khảo, nội dung chính được triển khai trên 4 chương: - Chƣơng 1: Tổng quan các vấn đề liên quan đến đề tài. - Chƣơng 2: Quan niệm về nam giới và nam tính trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. - Chƣơng 3: Quan niệm về nữ giới và nữ tính trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. - Chƣơng 4: Một số hiện tượng văn hóa tính dục đặc biệt và thủ pháp biểu đạt giới đặc thù. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các tư liệu tiếng Việt nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết giới 1.1.1.1. Tiếp cận từ góc độ hình tượng người phụ nữ và tính nữ Có thể thấy một thực tế là khi nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu có xu hướng dành phần ưu ái những đối tượng có địa vị thấp kém, số phận bất hạnh, là đối tượng của bất công và áp bức xã hội trong thời đoạn loạn lạc rối ren của chế độ phong kiến. Mà trong số ấy, đối tượng bị đè nén, trấn áp, chịu bất hạnh nhiều nhất chính là người phụ nữ. Do đó, nghiên cứu về chủ nghĩa nhân đạo, truyền thống cảm thương của văn học giai đoạn này, khó lòng bỏ qua việc phân tích hình tượng người nữ như là một đối tượng cơ bản. Tuy nhiên, việc dùng hình tượng người nữ như một biểu hành để chứng minh cho luận đề về lòng nhân ái và chủ nghĩa nhân đạo của các tác giả nam giới lại là một câu chuyện khác, mà chúng tôi sẽ bàn tới ở phần sau. Ở đây, việc trưng dụng hình ảnh phụ nữ như một đối tượng nhị nguyên trong suốt trong những cặp phân chia đối lập về tính cách, thân phận, chức năng... làm cho hình tượng phụ nữ dần dần bị đánh rỗng, trở thành thứ hình tượng được tồn tại qua sự tri nhận và làm đầy của đối tượng làm chủ. Nghiên cứu văn học từ góc độ giới ở giai đoạn này chưa phải là ý thức tự giác, mà mới chỉ dừng lại ở việc “phục dựng” các hình mẫu, các cặp đối lập, chỉ ra sự vênh lệch trong cấu trúc giới tính, vạch ra sự bất công mà thế giới hình tượng nhỏ yếu bên lề như phụ nữ phải gánh chịu; đồng thời khẳng định địa vị “huy hoàng” của phụ nữ trong thời đại nhà Nho – nam giới “mất giá”, đạo đức phong kiến “mất thiêng”. Điều đáng chú ý là một phương hướng tiếp cận từ quan điểm giới như vậy vẫn còn kéo dài đến hiện nay, khi lịch sử nghiên cứu văn học từ lý thuyết giới thực chất vẫn chỉ là lịch sử nghiên cứu hình tượng phụ nữ, sáng tác nữ hoặc theo hướng đề cao ca ngợi vẻ đẹp, phẩm chất của người phụ nữ. Nó cũng chứng minh một điều rằng, phụ nữ luôn là đối tượng chịu sự quan sát và phán xét (dù bằng bất cứ thái độ nào); là đối tượng nhỏ yếu, ngoại vi như một tất yếu (nên cần bênh vực, chiêu tuyết, ngợi ca); là hiện thân của một thứ thang đo tiến hóa/tiến bộ xã hội nghiệt ngã mà ở đó sự thay đổi địa vị 6 chưa chắc đã vì chính quyền lợi của họ mà trước mắt, để khẳng định các trật tự mới, thiết chế mới, những tiến bộ của một xã hội khác xưa. Phan Ngọc trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều xuất bản lần đầu năm 1965 đã đưa ra nhận định về một hiện tượng vừa “hiển nhiên” nhưng lại vừa “ít được chú ý” trong văn học Việt Nam trước thời Lê mạt là trong những tác phẩm được quy định niên đại chính xác, trừ Truyền kỳ mạn lục, ―hầu như không có đàn bà” [79, tr.29]. Phan Ngọc đã chỉ ra tính chất bị trấn áp, bị quy định, vô âm sắc của hình tượng người nữ trước thời Lê mạt, dưới tác động của thiết chế nam quyền. Muốn được công nhận, được xuất hiện, người phụ nữ phải thủ tiêu bản sắc, thỏa hiệp với các diễn ngôn về phẩm hạnh mà nam giới và xã hội phong kiến đặt ra. Như thế, người phụ nữ dễ dàng được phân chia đơn tuyến, biệt lập vào các vai, các nhóm, các tính cách điển hình nhằm thỏa mãn việc trình bày một luận đề đạo đức nào đó. Các nét riêng, thuộc về bản sắc bị tẩy xóa; thay thế bằng các nhóm, kiểu, dạng phận vị chức năng. Tuy thế, “tình hình vào thời Lê mạt khác hẳn. Cái đối tượng mà nền văn học cũ không dám nhắc đến, thì nay trở thành thần tượng của nền văn học mới. Người đàn bà xuất hiện mọi nơi, trở thành vị nữ hoàng mà hào quang và uy tín lấn át mọi thần tượng khác. Đây là người đàn bà―nghiêng nước nghiêng thành‖, khao khát tình yêu, có một cơ thể ―trong ngọc trắng ngà‖. Người đàn bà mà Nho giáo sợ hãi, Phật giáo xua đuổi, lúc này thống trị toàn bộ văn học [79, tr.29]. Phan Ngọc đã đặt đối sánh địa vị “huy hoàng” của người phụ nữ bên cạnh sự biến mất khỏi sân khấu của những hình tượng nam nhi truyền thống như một kết luận về sự thay đổi, tái lập thời đại mới; mà trên đó, các vấn đề về cá nhân và quyền con người sẽ được đặt lại, nhìn nhận lại xác đáng hơn, nhân văn hơn. Tính đa dạng của thế giới hình tượng nhân vật nữ được tác giả Trần Thị Băng Thanh chỉ ra trong bài viết Nhìn qua những tác phẩm viết về đề tài phụ nữ trong văn học chữ Hán thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX trên Tạp chí Văn học số 1 năm 1978: “Mặt khác, những nhân vật phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm cũng rất nhiều loại: có các hoàng hậu, phu nhân, công chúa, tiểu thư khuê các và cũng có chị em phụ nữ cần lao; có các nữ sĩ, ni cô, những nhân vật trong lịch sử, trong truyền thuyết và cả những con người thực trong cuộc đời. Thế giới nhân vật này rất đa dạng về tính cách và cũng rất khác nhau về số phận” [114, tr.68]. Tuy vậy, sự xuất hiện đa dạng với biên độ rộng khắp của hình tượng phụ nữ trong văn học giai đoạn này mới là mặt hiện tượng. Ẩn sâu 7 sau lớp hình tượng ấy là thế giới tư tưởng tình cảm của các tác giả trung đại, với sự thay đổi nhãn quan và bút pháp miêu tả khác xa so với các giai đoạn trước đó. Tinh thần nhân văn của văn học giai đoạn này bộc lộ rõ rệt qua những trường hợp “xét lại”, vốn chỉ thường thấy trong văn học hiện đại với sự phát triển của các trào lưu đấu tranh xã hội. Theo Trần Thị Băng Thanh, những nhân vật nữ trong lịch sử như Huyền Trân, Điểm Bích từng chịu sự chê bai của nhiều thế hệ thì đến giai đoạn này đã được các văn nhân “xét lại”. Lê Quý Đôn là người đầu tiên đưa tư liệu chứng tỏ Huyền Quang và Điểm Bích đều không có lỗi [114, tr.49]. Ở lĩnh vực văn xuôi tự sự, tác giả Phạm Tú Châu trong bài viết Những nhân vật nữ trong Hoàng Lê nhất thống chí trên Tạp chí Văn học số 1 năm 1978 nhận định về địa vị thấp kém của các nhân vật nữ trong tác phẩm, chỉ ra tình trạng phụ thuộc, không thể làm chủ cuộc đời của họ, là con bài trên ván cờ của nam giới, trở thành công cụ tùy ý sử dụng của đấng bậc: “Người đẹp trong sách chỉ luẩn quẩn trong cuộc sống đài các chật hẹp để rồi cũng bị cuốn hút vào vòng tranh giành ngai vua, sập chúa nhỏ nhen, ích kỷ. Nếu họ có quyền hành gì thì cũng là nhờ sự che chở, thiên ái của người đàn ông; nếu họ có được công nhận là sáng suốt thì cũng là ngoài ý định của nam tác giả. Nhìn chung, người phụ nữ là con bài trên ván cờ của nam giới (người con dâu cả của Nguyễn Huy Bá, vợ Nguyễn Viết Tuyển, con gái Nguyễn Đình Giản...), là đồ dùng họ mua về, sử dụng thế nào tùy thích (Ngọc Lan) [11, tr.4]. Luận án Hình tượng nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm tài tử giai nhân năm 1993 của tác giả Nguyễn Thị Chiến đã tìm hiểu sự phát triển của hình tượng người phụ nữ trong suốt chiều dài mười thế kỉ của nền văn học viết, đã có những nhận định về sự phát triển mờ nhạt của hình tượng người phụ nữ trong sáng tác văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Cho đến thế kỉ XVI – XVII, gương mặt người phụ nữ mới được thể hiện và bước đầu tạo được ấn tượng với độc giả. Đó là Túy Tiêu, Nhị Khanh, Đào Hàn Than (Truyền kì mạn lục), Vương Tường (Truyện Vương Tường), Viên Thị (Lâm tuyền kì ngộ). Những hình tượng người phụ nữ tiêu biểu kể trên đã được văn học miêu tả không phải là những anh hùng liệt nữ như Bà Trưng, Bà Triệu, nàng Mỵ Ê mà là “những số phận cụ thể, đời thường, có cuộc sống éo le, phức tạp, có khát vọng tình yêu và phẩm chất trung hậu. Đây là những biểu hiện mới mẻ của văn học viết trong việc thể hiện cuộc sống là những dấu hiệu khởi đầu cho một sự chuyển biến của văn học thời kì này” [17, tr.25]. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh đặc điểm của hình tượng phụ nữ trong truyện 8 Nôm, với những thay đổi mạnh mẽ so với các thể loại khác của thời kì khác mà nói như tác giả Kiều Thu Hoạch trong công trình Truyện Nôm – nguồn gốc và bản chất thể loại: “Trong bối cảnh của trào lưu nhân văn, truyện Nôm như là sinh ra để nói về người phụ nữ, truyện Nôm như là thể loại thể hiện tốt nhất, đầy đủ nhất về đề tài người phụ nữ trong mọi quan hệ xã hội rộng lớn” [17, tr.25]. Bên cạnh đó, hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của một tác giả cụ thể, tiêu biểu là Hồ Xuân Hương cũng trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều công trình. Trước năm 1975, nhiều bài viết của các tác giả như Văn Tân, Xuân Diệu, Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân… đã khai thác các vấn đề quan trọng trong thơ Hồ Xuân Hương, đặc biệt là vấn đề dâm và tục. Sau năm 1975, các công trình của các tác giả như Nguyễn Lộc, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu, Đỗ Lai Thúy, Đoàn Lê Giang… đã lựa chọn điểm tựa phê bình khác nhau từ thi pháp học, phân tâm học, hậu hiện đại..v.v. để chỉ ra ngọn nguồn của vấn đề dâm tục, thế giới carnival đầy màu sắc trào tiếu, giễu nhại trong thơ Hồ Xuân Hương và tiếng nói đấu tranh đòi quyền sống cho phụ nữ trong thơ bà. Hướng nghiên cứu hình tượng người phụ nữ và nữ tính vận dụng các quan điểm giới có thể kể đến bài viết Nữ tính trong thơ Bà Huyện Thanh Quan của tác giả Đặng Tiến, công trình Tự sự của trinh tiết: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỷ X – XIX của tác giả Phạm Văn Hưng... Theo Đặng Tiến, những cảm giác dồi dào nữ tính trong thơ Bà Huyện được diễn tả bằng: 1. lời lẽ trang nhã đến khách sáo với nhiều chữ nho xa cách, khách sáo; nhà thơ luôn ở vị trí kẻ lữ thứ, kẻ dừng chân, khách. 2. nữ tính còn phát ra trong cách chọn vật liệu của thi ca (biểu tượng cây cối trong thơ bà: tàu chuối, ngàn mai và dặm liễu, – ba thứ cây tượng trưng cho nữ tính; hình tượng ngọn cỏ yếu đuối, cánh chim chiều) [134]. Tác giả Phạm Văn Hưng trong công trình Tự sự của trinh tiết: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỷ X – XIX đã nhận định về việc trong nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại nói riêng, việc nhìn người phụ nữ, nhân vật phụ nữ trong văn học từ quan điểm giới không còn là một chuyện xa lạ nhưng vẫn là một hướng đi khá mới mẻ. Do vậy, chuyên luận đã nghiên cứu diễn trình của kiểu nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại từ thế kỷ X – XIX nhằm bổ sung một góc nhìn về con người nói chung, về người phụ nữ nói riêng từ góc nhìn giới, quan tâm đến nữ tính của họ, bên cạnh những góc nhìn truyền thống đặt họ trong vai trò công dân, vai trò xã hội quen thuộc. 9 1.1.1.2. Tiếp cận từ lý thuyết nữ quyền (nữ quyền luận) Ứng dụng nữ quyền luận trong việc tiếp cận các hiện tượng văn học hiện đại không còn quá xa lạ với các nhà nghiên cứu Việt Nam, nhưng với các tác phẩm, tác giả trung đại thì số lượng công trình nghiên cứu còn hạn chế. Bùi Thị Thiên Thai trong bài viết Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả đã chỉ ra nét đặc sắc của tác phẩm Truyền kì tân phả từ một góc nhìn nữ quyền : “Nếu nhìn dưới góc độ văn học nữ quyền hay là giá trị nhân đạo của tác phẩm, đặc biệt là góc độ tương tác giữa văn học trung đại và văn hóa dân gian, Truyền kỳ tân phả lại cho ta thấy những nét đẹp và giá trị riêng. Ra đời trong môi trường văn học đặc biệt của thế kỷ XVIII – thế kỷ vàng của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa với địa vị thống trị của hình tượng nữ, lại được viết bởi chính một tác giả nữ, Truyền kỳ tân phả do vậy đã trở thành thứ vật dẫn biểu hiện cho việc đề cao nữ quyền” [113, tr.60]. Nguyễn Thị Hưởng với luận án Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (qua một số trường hợp tiêu biểu) (Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2016) khi nhận định về ý thức nữ quyền trong thơ nữ cổ điển đã chỉ ra tình trạng người phụ nữ bị hạn chế học hành, không được tham gia chính sự trở thành phổ biến. Trên lĩnh vực văn học, tình trạng này bộc lộ ở sự thưa vắng của người phụ nữ trong đội ngũ sáng tác. Người phụ nữ làm thơ, viết văn là những hiện tượng mang tính đặc biệt trong văn học. Hành trạng cuộc đời của những “kỳ nữ” làm thơ hoặc bị dân gian hóa, hoặc tồn nghi dưới dạng những “nghi án văn chương” (…) Việc người phụ nữ thể hiện quan điểm của mình về giới nữ trong sáng tác văn học thời trung đại có thể xem là những “dòng chảy nghịch” của xã hội nam quyền” [52, tr.43]. Cuối cùng, tác giả luận án khẳng định: “Tuy ý thức nữ quyền trong thơ nữ giai đoạn này mới dừng lại ở các hiện tượng đơn lẻ tự phát và không đồng đều ở các tác giả, nhưng nó ở một khía cạnh nào đó đã trở thành tiếng nói khẳng định giá trị cũng như những khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ” [52, tr.54]. Tác giả Trần Ngọc Hiếu trong bài viết: Tự sự học nữ quyền luận và khả năng ứng dụng đối với thực tiễn văn học Việt Nam đã chỉ ra khả năng ứng dụng lý thuyết phương Tây và độ vênh lệch của ứng dụng vào thực tiễn văn học Việt Nam, cụ thể trong bài viết là việc ứng dụng tự sự học nữ quyền luận với đại diện Susan Lanser. Tác giả đã nhận thấy khả năng tiềm tàng của việc ứng dụng tự sự học nữ quyền luận vào thực tiễn văn học Việt Nam, đặc biệt trong văn học trung đại, nơi các diễn ngôn 10 quyền lực và các thiết chế văn hóa luôn thống trị, trấn áp diễn giải, đè nén những dấu hiệu lệch pha, ngoại biên vốn nằm ở các lĩnh vực giao cắt để tạo ra một bộ khung tri thức chính thống đậm đặc nam quyền. Những hiện tượng như mượn giọng nữ trong các khúc ngâm, quyền tác giả bản dịch Chinh phụ ngâm được xem như “trường hợp để ta nghiên cứu quá trình phái tính hóa tác giả, chứng minh cho luận điểm của phê bình nữ quyền, rằng phái tính được hình thành, được kiến tạo trong hoạt động diễn giải” [38, tr.40]. Hình tượng người kể chuyện dị sự từ điểm nhìn đàn ông vào số phận nữ giới cũng là một điểm đáng lưu tâm khi nó phổ biến ở hầu hết các tác phẩm trung đại, đặc biệt như ở Truyện Kiều. Một số luận văn, luận án bước đầu tìm hiểu văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết nữ quyền luận (feminism) như: luận án tiến sĩ Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhìn từ lý thuyết nữ quyền (Học viện Khoa học xã hội, năm 2014) của Phạm Thị Thuận… Ngoài ra, có thể kể đến công trình Văn học và giới nữ (Một sô vấn đề lý luận và lịch sử) (Nxb Thế giới, 2016) do Phùng Gia Thế, Trần Thiện Khanh biên soạn. Đây là công trình tuyển tập các nghiên cứu về giới nữ và nữ quyền trong văn học Việt Nam từ cổ trung đại đến hiện đại. Một số bài viết đáng chú ý là: Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền của tác giả Trần Nho Thìn, Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam của tác giả Nguyễn Đăng Điệp, Kháng cự tình trạng mất tiếng nói: tiếng nói như một thân phận và như một hành động của tác giả Trần Thiện Khanh… Tác giả Trần Nho Thìn khi tìm hiểu mối quan hệ giữa Nho giáo và nữ quyền đã khẳng định: bên cạnh hạn chế của Nho giáo đối với phụ nữ, thì Nho giáo còn có tiềm năng của một học thuyết nữ quyền và văn học thế kỷ XVIII – XIX có một dòng văn học nữ quyền. Hồ Xuân Hương với thân phận lẽ mọn đã bộc bạch nỗi khao khát tình yêu gắn liền với dục tính, đã đề cập đến quyền sống của người phụ nữ và những nhu cầu bản năng của phụ nữ, có ý nghĩa quan trọng trong việc khơi dậy ý thức nữ quyền trong văn học. Tiếp nối mạch nghiên cứu này là luận án Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhìn từ lý thuyết nữ quyền của tác giả Phạm Thị Thuận, với góc nhìn về thân phận nữ giới và hành trình đi tìm bản ngã người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Các công trình này đã chỉ ra những dấu vết và biểu hiện sơ khởi của ý thức nữ quyền trong văn học trung đại, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ 11 XIX, coi đây là những điểm tiến bộ, mới mẻ, có tính đột phá so với các giai đoạn trước đó; đồng thời đặt ra những hướng tiếp cận mới từ lý thuyết diễn ngôn, tự sự học, thuyết lệch pha… để có cái nhìn đa chiều về một giai đoạn văn học đa thanh. 1.1.1.3. Tiếp cận từ quan niệm về cấu trúc nam tính – nữ tính Phát triển kém năng động hơn xu hướng nghiên cứu giới từ lý thuyết nữ quyền là hướng nghiên cứu cấu trúc nam tính - nữ tính. Không nên đánh đồng hoặc đưa cấu trúc nam tính - nữ tính trở thành một bộ phận của nghiên cứu lý thuyết nữ quyền. Các quan niệm về nam tính - nữ tính xâm nhập vào mọi nền văn hóa, hình thành các bộ khung về những cách làm đàn ông và phụ nữ khác nhau, được ghi dấu trong các tác phẩm văn học. Một số công trình tiếp cận từ hướng nghiên cứu này của các tác giả Trần Văn Toàn, Mai Thu Huyền… đã khai thác khoảng trống trong nghiên cứu, ứng dụng lý thuyết giới, đó là nghiên cứu về nam tính. Các công trình nghiên cứu văn học từ góc độ hình tượng người phụ nữ, tính nữ và lý thuyết nữ quyền chiếm số lượng áp đảo, trong khi chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt và đầy đủ về nam tính. Tác giả Trần Văn Toàn khi nghiên cứu về quan niệm và cấu trúc nam tính trong văn học Việt Nam đã dẫn giải những nghiên cứu về nam tính Trung Quốc của Kam Louie với những gợi ý quan trọng. Theo Louie, nam tính Trung quốc truyền thống được đặc trưng bởi hai thuộc tính: văn (wen) – võ (wu): “Theo nghĩa đen, cặp khái niệm này có nghĩa là tính văn chương – thượng võ, và nó bao hàm sự lưỡng phân giữa những thành tựu văn hóa – võ lực, tinh thần và thể chất và v..v. Bởi vì bao chứa cả những nhân tố thể chất (physcical) và tinh thần (mental) của người đàn ông lí tưởng (ideal man), nên văn – võ được kiến tạo cả về phương diện sinh học và văn hóa” [137, tr.43-44]. Tác giả đã chỉ ra cấu trúc nam tính thiên về văn của văn hóa Trung Quốc cũng như Việt Nam, khác hoàn toàn với mẫu hình nam tính cơ bắp của văn hóa Anh – Mỹ; đồng thời chỉ ra vị trí quan trọng của mẫu hình kẻ sĩ và truyền thống ―năng văn‖ trong văn hóa, văn học Việt Nam: “Cho dù đã có những thời điểm bị khinh miệt bởi những kẻ võ biền thì trong toàn bộ lịch sử (với ảnh hưởng kéo dài của Nho giáo) văn nhân, kẻ sĩ vẫn luôn có một vị trí được trọng vọng đặc biệt. Một nhân vật với những võ công hiển hách như Nguyễn Công Trứ cũng vẫn dành cho văn một vị thế vượt trội so với võ nhất là trong khả năng duy trì trật tự và ổn định xã hội (...) Nguyễn Công Trứ là một danh tướng nhưng hơn thế, “năng văn” thậm chí còn là tiêu chí để xác lập hình ảnh của một hoàng đế lí tưởng (…) Sở hữu năng lực văn ở 12 đây là biểu hiện cho nam tính lí tưởng, là tiêu chí quan trọng cho thấy sự chính đáng và hợp thức để ngồi ở ngôi vị hoàng đế” [137, tr.43-44]. Tác giả Mai Thu Huyền với bài viết Lý thuyết hóa nam tính Trung Quốc: Xã hội và giới tính ở Trung Quốc của Kam Louie và những gợi ý cho việc nghiên cứu các hình mẫu nam nhân trong văn học Việt Nam đã có khái lược về lý thuyết nam tính của Kam Louie đồng thời đưa ra một vài gợi ý về việc khám phá văn học Việt Nam từ lý thuyết này. Đây cũng là những gợi dẫn cho luận án tiến hành hướng nghiên cứu. Hướng nghiên cứu về cấu trúc nam tính tuy không còn xa lạ trong các nền văn học ngoại lai nhưng ở Việt Nam, đặc biệt trong văn học trung đại, cấu trúc nam tính thường được hiểu đơn giản là hình tượng nam nhi cùng các phẩm chất mang nặng tính quy định của đạo đức Nho giáo; tương tự như nghiên cứu về nữ tính được đánh đồng với sự tái hiện và phân nhóm hình tượng phụ nữ. Cho nên, rất cần một hướng khai phá nghiêm túc và sâu sắc về đề tài còn nhiều tiềm năng này. 1.1.1.4. Tiếp cận từ văn hóa tính dục Trước năm 1975, nhiều nhà nghiên cứu miền Nam ảnh hưởng từ thuyết phân tâm học của Freud đã vận dụng học thuyết này để nghiên cứu các tác phẩm văn học trung đại. Cụ thể là Trương Tửu và Nguyễn Văn Hanh áp dụng phân tâm học để giải thích hiện tượng Hồ Xuân Hương, xem thơ bà là sự thăng hoa của “con dục” [127, tr.61]. Nguyễn Đăng Thục, Đàm Quang Thiện cũng ứng dụng lý thuyết của Freud để tìm hiểu Truyện Kiều. Tiếp đến là hướng ứng dụng phê bình văn hóa – lịch sử của Taine với tác phẩm Nguyễn Du và Truyện Kiều (Văn Mới, 1942) của Trương Tửu: “Vượt qua cái tâm sự của con người xã hội và cách tiếp cận nhân-quả đơn tuyến, Trương Tửu tìm hiểu cá tính của Nguyễn Du” [127, tr.61], dựa trên các phương diện huyết thống, quê quán, thời đại. Đến những năm 90, khi tìm cách lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương, Đỗ Lai Thúy đi tìm một lối tiếp cận khác theo lý thuyết của Jung để đưa cái dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương trở về với ngọn nguồn tín ngưỡng phồn thực dân tộc. Tác giả Phạm Văn Hưng với công trình Văn hóa tính dục ở Việt Nam thế kỷ X – XIX (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018) đã chỉ ra sự khó khăn khi nghiên cứu cả một giai đoạn phát triển, nảy nở của văn hóa tính dục ở Việt Nam suốt mười thế kỷ do sự thiếu thốn về tư liệu; đồng thời đưa ra giải pháp phục dựng văn hóa tính dục Việt Nam thế kỷ X – XIX chủ yếu qua hai mảng tư liệu lịch sử và văn học. Công trình đã có 13 sự khảo cứu công phu về một số phương diện của văn hóa tính dục thời trung đại ở Việt Nam như: bản năng tính dục dưới sự “quản lý” của lễ và luật ; sự định vị và lưu thông những hàng hóa tính dục; những tưởng tượng và những ngã rẽ tính dục; câu chuyện về “đại sự phòng the”. Đây là công trình nghiên cứu sâu rộng và tương đối toàn diện về mười thế kỷ văn hóa tính dục của Việt Nam với phạm vi khảo sát tư liệu rộng lớn, bao trùm từ văn học, lịch sử, hội họa… 1.1.1.5. Tiếp cận từ lý thuyết lệch pha (queer theory) Tác giả Trần Ngọc Hiếu trong bài viết: Tự sự học nữ quyền luận và khả năng ứng dụng đối với thực tiễn văn học Việt Nam đã lần đầu đề xuất sử dụng khái niệm “queer” của thuyết lệch pha/thuyết đồng tính (queer theory) để tiếp cận những hiện tượng như mượn giọng trong các khúc ngâm, vấn đề mặt nạ tác giả… nhằm tìm ra các mã giới tính ẩn giấu sau các tác phẩm. Với cách tiếp cận này, giới tính/ phái tính phải được nhìn nhận trong quá trình diễn giải, từ các diễn ngôn chồng lấn. Nội hàm của diễn ngôn liên tục được di chuyển, kiến tạo và tái lập trong những bối cảnh văn hóa và dưới những thiết chế quyền lực xác định. Văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn của các hiện tượng chồng lấn, nhòa nhiễu, sự chuyển di liên tục của các biểu hành về giới tính, văn hóa... dẫn đến sự phức tạp của hệ thống diễn ngôn. Như thế, một hiện tượng văn học (tác phẩm, tác giả, nhân vật...) không nên và không thể bị gò cứng vào một vài cách diễn giải, ấn định nhằm tìm ra các giá trị nội tại về nội dung nghệ thuật mà sâu hơn, cần tìm kiếm các thiết chế quyền lực, các lớp tư tưởng ngầm ẩn dưới lớp áo ngôn từ giàu tính điển phạm. Trong một bài viết khác: Văn học đồng tính ở Việt Nam – từ những hình thức ngụy trang đến các tự thuật thú nhận, tác giả Trần Ngọc Hiếu đã chỉ ra hiện tượng phụ nữ “bị làm rỗng, bị công cụ hóa để tôn vinh đạo lý tình bạn giữa những người đàn ông trong xã hội phong kiến” [37, tr.110] trong tích truyện Lưu Bình – Dương Lễ. Nó đã tiến hành vô hình hóa, ngoại vi hóa các giới tính khác ngoài nam giới, biến những thực thể thành những công cụ đạo lý phục vụ cho mục đích truyền tải đạo đức. Ứng dụng lý thuyết queer, tác giả đặt ra vấn đề sự cần thiết phải khảo sát từ trong văn học dân gian, nơi văn học tồn tại trong trạng thái nguyên hợp với các hình thái folklore khác như tín ngưỡng, hội hè, sân khấu dân gian,... – những hình thái mang tính chất trình diễn rõ nét, tạo điều kiện thuận lợi cho các hành vi bộc lộ, đảo trang hay vượt rào giới tính. Đặt vấn 14 đề về văn học đồng tính Việt Nam trong thời trung đại, tác giả Trần Ngọc Hiếu đưa ra hai phương diện chính: kiểu tác giả và sự thể hiện hình ảnh người đồng tính, chuyển giới, bị thiến hoạn. Như vậy, nếu như xem giới tính/ phái tính được tạo ra trong quá trình trình diễn/ diễn giải (perfomance), những hiện tượng như mượn giọng, mặt nạ tác giả, đảo trang, hoán vị… có thể được xem xét như những thủ pháp biểu hiện diễn ngôn giới đặc thù hoặc như những biểu hiện/ thủ pháp cụ thể của queer. Một số công trình tiêu biểu đi theo hướng nghiên cứu này là chuyên luận “Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX‖ do PGS. TS Trần Nho Thìn biên soạn, ―Mặt nạ tác giả‖ - một gợi ý cho việc tiếp cận một vài hiện tượng văn học sử Việt Nam‖ của tác giả Lại Nguyên Ân (Tạp chí Sông Hương, số 252 tháng 2-2010), luận văn thạc sĩ Người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm nhìn từ quan điểm giới (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2012) của tác giả Tạ Thị Thanh Huyền… Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận xét, có không ít hiện tượng văn học sử Việt Nam có thể được soi rọi dưới ánh sáng của các quan niệm về “mê hoặc văn chương” và “mặt nạ tác giả”, đặc biệt là hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Những sáng tác mà nay đang được gọi chung là thơ Hồ Xuân Hương có lẽ cần được xem xét như là tập hợp loạt sáng tác có chung quy tắc cách điệu hóa [3]. Công trình Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX do PGS. TS Trần Nho Thìn biên soạn đã có những nghiên cứu công phu và nhiều gợi ý nghiên cứu mới mẻ về vấn đề nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam từ góc độ giới. Với Chinh phụ ngâm, tác giả đào sâu vào việc phân tích giọng nữ và đặt ra vấn đề: Tại sao một tác giả nam giới lại thấy cần thiết phải hư cấu giọng nói của người khác giới? Mặc dù công nhận việc thay lời không còn xa lạ trong văn học trung đại nhưng tác giả cũng chỉ ra rằng đặc trưng minh bạch, đồng giới tính của hành động viết thay tạo cho nó tính hợp quy, trong khi việc hư cấu giọng nữ lại mang tính bất thường, vượt rào. Và để lý giải hiện tượng mượn giọng này, tác giả Trần Nho Thìn viện dẫn khái niệm ventriloquism (được tác giả dịch là hư cấu giọng) để lý giải và cho đây là một hiện tượng có ý nghĩa bởi từ trước đến nay, người phụ nữ vốn chịu nhiều hạn chế trong phát ngôn và tự biểu hiện [121, tr.426]. Trong phần lý giải và đánh giá hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương, phần “Thơ của người phụ nữ mang tên Hồ Xuân Hương và thơ của nam giới gán cho Hồ Xuân Hương trong bối cảnh văn hóa tính dục truyền 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất