Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộ...

Tài liệu Luận văn quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc giáo hội phật giáo việt nam

.PDF
113
525
108

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ -----o0o---- LÊ MINH KHÁNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC, ĐƠN VỊ THUỘC GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ -----o0o---- LÊ MINH KHÁNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC, ĐƠN VỊ THUỘC GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 60 34 04 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN PGS.TS. Phạm Thị Hồng Điệp PGS.TS. Phạm Văn Dũng LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu và tìm hiểu của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Phạm Thị Hồng Điệp. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực có nguồn gốc rõ ràng và đáng tin cậy. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực, chuẩn xác của nội dung luận văn./. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận văn thạc sỹ Quản lý kính tế, với Đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, tôi đã tập trung nghiên cứu, hệ thống hoá lý luận, thu thập số liệu, vận dụng lý luận vào phân tích tình hình và giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra. Với sự nỗ lực học tập, nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi luôn nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo và những góp ý vô cùng quý báu của các thầy cô giáo, các đồng nghiệp và bạn bè, sự quan tâm động viên của gia đình đã giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những người đã giúp đỡ tôi, các tác giả mà tôi đã tham khảo, trích dẫn những nghiên cứu, tư liệu của họ, cũng như sự hướng dẫn, giúp đỡ của các thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế, các thành viên trong Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình không thể thiếu của giáo viên hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Phạm Thị Hồng Điệp. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu bao gồm nhiều nội dung, thời gian nghiên cứu hạn hẹp cùng với những hạn chế về năng lực bản thân cũng như tài liệu tham khảo, nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định trong luận văn. Vì vậy, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp các thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn./. MỤC LỤC Trang: Danh mục hình i MỞ ĐẦU 01 Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và 05 thực tiễn về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức tôn giáo 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu. 05 1.1.1. Các công trình liên quan đến đề tài 05 1.1.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 08 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế 09 của các tổ chức tôn giáo. 1.2.1. Những vấn đề chung về hoạt động kinh tế của các tổ 09 chức tôn giáo 1.2.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các 23 tổ chức tôn giáo 1.3. Kinh nghiệm quản lý các hoạt động kinh tế của Phật giáo ở 37 một số quốc gia, vùng lãnh thổ và bài học cho Việt Nam. 1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các hoạt động 37 kinh tế của Phật giáo ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ. 1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 45 Chương 2: Phương pháp và thiết kế nghiên cứu 48 2.1. Phương pháp luận 48 2.2. Các phương pháp cụ thể 48 2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu 48 2.2.2. Phương pháp xử lý số liệu, tài liệu 50 Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động 52 kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3.1. Khái quát về Giáo hội Phật giáo Việt Nam và những yếu tố 52 ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3.1.1. Khái quát về Giáo hội Phật giáo Việt Nam 52 3.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối 58 với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3.2. Thực trạng quản lý hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị 71 thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ năm 2003 đến nay 3.2.1. Định hướng, quy hoạch, tạo hành lang pháp lý 71 3.2.2. Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật liên 74 quan đến quản lý các hoạt động kinh tế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 3.2.3. Giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với hoạt động 79 kinh tế Phật giáo của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh 80 tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3.3.1. Những mặt đạt được 80 3.3.2. Những mặt còn hạn chế 81 3.3.3. Nguyên nhân 82 Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 85 4.1. Bối cảnh mới ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của các tổ 85 chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 4.1.1. Tình hình thế giới và trong nước 85 4.1.2. Tình hình tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng 86 4.2. Quan điểm quản lý đối với hoạt động kinh tế của các tổ 91 chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các hoạt 94 động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam 4.3.1. Về định hướng, quy hoạch, tạo hành lang pháp lý 94 4.3.2. Về tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật liên 96 quan đến quản lý các hoạt động kinh tế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam 4.3.3. Về giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với hoạt 98 động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. KẾT LUẬN 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 DANH MỤC HÌNH STT Hình 1 Hình 3.1 Nội dung Cơ cấu tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay i Trang 57 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Phật giáo đã được du nhập và phát triển ở Việt Nam gần 2000 năm, hiện là một tôn giáo lớn, phổ biến ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước. Tư tưởng, triết lý Phật giáo có nhiều ảnh hưởng, tác động tới đời sống tình cảm, tín ngưỡng cũng như trong phong tục, tập quán của đa số người dân đất Việt. Lịch sử Phật giáo ở Việt Nam luôn tồn tại, gắn bó và đồng hành cùng dân tộc, trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và Phật giáo được coi là tôn giáo của dân tộc. Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập năm 1981 trên cơ sở thống nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo trong cả nước. Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tổ chức Phật giáo duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam trong quan hệ đối nội và đối ngoại và điều hành các hoạt động Phật giáo trong cả nước, hoạt động theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Tiếp nối truyền thống của Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn khẳng định được sự đồng hành cùng dân tộc, trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Kinh tế và tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là hai lĩnh vực xã hội khác nhau, nhưng chúng có quan hệ tương tác lẫn nhau: các hoạt động kinh tế tạo cho Phật giáo có những cơ sở vật chất để thực hiện các hoạt động của mình, ngược lại Phật giáo cũng giúp cho kinh tế phát triển lành mạnh, ổn định (tác động về đạo đức kinh doanh, môi trường trong sản xuất kinh doanh….). Ở Việt Nam, tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là lĩnh vực nhạy cảm, thường được các thế lực xấu ở trong và ngoài nước khai thác, lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Vậy, khi Phật giáo thông qua các tổ chức, đơn vị trực thuộc tham gia vào các hoạt động kinh tế thì nhà nước sẽ quản lý 1 như thế nào? Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu rõ về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức tôn giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo nói riêng, trong khi thực tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam thông qua các tổ chức, đơn vị trực thuộc đã có hoạt động kinh tế để tạo nguồn thu phục vụ cho hoạt động của mình như: thành lập các trung tâm ngoại ngữ, thành lập công ty, hoạt động kinh tế chùa… Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài: - Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay như thế nào? - Cần phải làm gì để hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thời gian tới? 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Làm rõ cơ sở lý luận, những vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của Phật giáo. + Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay. + Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động 2 kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi không gian: Việt Nam + Phạm vi thời gian: Từ năm 2003 (Thời điểm Ban Chấp hành TW Đảng ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo. Đây là Nghị quyết đầu tiên công khai về công tác tôn giáo của Đảng ta) đến năm 2014. + Các hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam có đem lại nguồn thu. 4. Đóng góp mới của Luận văn - Góp phần làm rõ tình hình hoạt động kinh tế và quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, góp phần giúp cơ quan chức năng quản lý tốt hơn hoạt động này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về Công tác tôn giáo. 5. Kết cấu luận văn Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn được chia thành 04 chương và 11 tiết. 3 Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức tôn giáo. Chương 2: Phương pháp và thiết kế nghiên cứu. Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 4 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÔN GIÁO 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các công trình liên quan đến đề tài Đã có một số công trình nghiên cứu, sách, bài viết đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến đề tài, như: - Nguyễn Hữu Khiển (chủ biên), 2001. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền hiện nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Công an nhân dân. Trong cuốn sách này, tác giả chủ yếu nêu các nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền hiện nay, còn nội dung quản lý các hoạt động kinh tế của tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng thì mới chỉ sơ qua đề cập tới trong điều kiện phát triển của thời đại. - Ban Tôn giáo Chính phủ, 2014. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo (trang 02 - 48). Tập sơ thảo bài giảng tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong bài giảng này đã đưa được các nội dung và phương pháp quản lý tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Trong đó bước đầu đề cập đến nội dung quản lý hoạt động kinh tế của tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng thông qua việc kinh doanh, xuất nhập khẩu kinh sách tôn giáo và đồ dùng việc đạo, nhưng chưa cụ thể việc quản lý đối với lĩnh vực hoạt động này như thế nào. - Quán Như Phạm Văn Minh, 2012. Kinh tế Phật giáo. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ. Trong cuốn sách này, tác giả mới chỉ nêu được những tuyên ngôn chung chung giữa kinh tế và Phật giáo, quan điểm kinh tế Phật giáo theo quan điểm của một số hệ phái Phật giáo, về thần học kinh tế, của một số tác giả … 5 - Viện Nghiên cứu Tôn giáo, 2008. Phật giáo với văn hóa - xã hội Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Trong cuốn sách này mới chỉ có một số bài viết về mối quan hệ của Phật giáo đối với kinh tế. - Thích Tâm Đức, 2008. Kinh tế Phật giáo giải pháp toàn diện: Phật giáo nhập thế và phát triển. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn giáo. Bài viết này mới chỉ nêu được một phần vai trò của Phật giáo trong kinh tế và những cảnh báo của Đức Phật trong hoạt động kinh tế của Phật giáo. - Nguyên Cẩn, 2008. Vai trò của Phật giáo trong việc xây dựng một nền kinh tế nhân bản Việt Nam: Phật giáo nhập thế và phát triển. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn giáo. Bài viết này mới nêu sơ qua được những vấn đề xây dựng kinh tế nhân bản ở Việt Nam và Phật giáo có thể đóng góp được gì cho tính nhân bản của nền kinh tế. - Minh Chi, Đạo 2000. Phật và Kinh tế . Tác giả nêu những tư tưởng Phật giáo, như: vô thường, chủ thể hòa nhập vào khách thể, sự thay đổi từ trong bản thân khi cần thiết … giúp cho kinh tế phát triển và dẫn chứng một số nước như: Nhật Bản, Thái Lan… đã áp dụng những tư tưởng này trong các hoạt động kinh tế. - Nguyễn Duy Hinh, 2008. Phật giáo với kinh tế: xưa và nay. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 01. Bài viết này đã đưa ra việc nghiên cứu chủ nghĩa khất thực có ý nghĩa triết học, kinh tế như thế nào; khái quát được một số hình thức liên quan đến hoạt động kinh tế của Phật giáo ở Trung Quốc xưa và nay, của Phật giáo thời Lý, thời Trần ở Việt Nam hay Pháp, Hoa Kỳ, Đài loan (Trung Quốc) và nêu ý kiến rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam nên học tập Phật giáo thế giới, nhất là Phật giáo Đài loan (Trung Quốc) về quan hệ kinh tế thị trường với giáo lý cứu thế. 6 - Thích Nhật Hiếu, 2011. Kinh tế và chính trị Phật giáo. . Bài viết này mới đề cập một số quan điểm của Đức Phật về kinh tế qua một số câu nói, như: đưa ra một phương pháp hoạch toán trong việc thu chi; cho rằng kinh tế mưu sinh là nhu cầu thiết yếu tạo ra sản phẩm phục vụ đời sống cho bản thân, gia đình và xã hội, nhưng phải sinh sống bằng nghề nghiệp chân chính; kinh tế cũng đóng một vai trò quan trọng trong trật tự an toàn xã hội; đưa ra phương pháp kinh tế an sinh để kiến thiết một quốc gia cường thịnh. Nhìn chung, tác giả cho rằng trên cương vị một bậc giáo chủ, một mặt Đức Phật chú trọng về đời sống tâm linh, nhưng Đức Phật cũng ý thức được sự chi phối của kinh tế đối với đời sống xã hội con người và việc sử dụng vật chất (kinh tế) chỉ là phương tiện phục vụ đời sống xã hội, chứ không phải nô lệ hoá con người, biến chúng ta thành những môn đồ chủ nghĩa vật chất. Như vậy, giáo dục về kinh tế xã hội là một đề tài quan trọng đã được Phật giáo quan tâm từ lâu. - Peter Harvey, 2000. Đạo đức kinh tế theo quan điểm Phật giáo (Chương 5 trong tác phẩm An Introduction to Buddhist Ethics: Foundations, Values and Issues; trang 187-238). Dịch từ tiếng Anh. Người dịch Đỗ Kim Thêm, 2008 < Website Hoalinhthoai.com © 2008 – 2014>. Ở đây, tác giả đưa ra có triết lý của Phật giáo như: từ, bi, hỷ, xả… áp dụng trong hoạt động kinh tế sẽ có tác dụng để các hoạt động kinh tế phát triển bền vững. - Thích Quang Thạnh, 2008. Hoằng pháp trong thời hội nhập, một phương diện kinh tế: Phật giáo nhập thế và phát triển. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn giáo. Bài viết này, tác giả mới chỉ nêu ra được mối quan hệ giữa Hoằng pháp (một chức năng truyền đạo của Phật giáo) với vấn đề tài chính để thực hiện việc hoằng pháp. 7 - Ngô Hữu Thảo, 2015. Phát huy những giá trị văn hóa Phật giáo trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Công tác tôn giáo, số 1 + 2. Bài viết này đề cập đến một số nội dung cơ bản của “Kinh tế học Phật giáo” theo quan điểm của GS,TS.S.R.Batt, Phân khoa Triết học, Đại học Delhi, Ấn Độ và kinh sách Phật giáo cho thấy có nhiều giá trị của Phật giáo có thể vận dụng trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy cho sự tiến bộ của kinh tế ở nhiều góc độ khác nhau, như: chọn nghề nghiệp, tăng trưởng kinh tế phải là một sự cân bằng giữa tiêu thụ vật chất và phát triển tinh thần… Từ đó, nhìn lại Việt Nam thì Kinh tế học Phật giáo mới đang còn mới mẻ, mặc dù một số phật tử, doanh nghiệp đã bước đầu có sự vận dụng, định hướng trong sản xuất, kinh doanh của mình theo triết lý Phật giáo và một chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự cũng làm kinh tế theo khả năng của từng cơ sở thờ tự, thế mạnh của từng miền, từng vùng, tuy nhiên mới chỉ mang tính tự cấp, tự túc, nhưng hiệu quả của nó xét về phương diện văn hóa, xã hội thì cũng không phải nhỏ. - Prayudh Payutto, 1994. Buddhist Economics: A Middle Way for the Market Place (Kinh tế Phật giáo: Phương án trung hòa cho thị trường). Trong tác phẩm này, tác giả phê phán khuynh hướng của kinh tế học hiện đại khi khảo sát về mối giao hoán kinh tế mà lại tách rời những cứu xét về mặt đạo đức của vấn đề mua bán, đâu là hậu quả xã hội và môi sinh của các trao đổi này. Tác giả nhấn mạnh tới những hậu quả kinh tế của các tác phong đạo đức, ví dụ như dè dặt của nhà đầu tư khi có nhiều bất ổn xã hội, khách hàng không thỏa mãn nếu mặt hàng kém phẩm chất, chi phí y tế và tình trạng sức khoẻ tệ hại của các công nhân khi thực phẩm xấu. 1.1.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu, sách, bài viết đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến đề tài như nói ở trên, nhưng hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế 8 của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý hiện nay. Thực hiện đề tài này, tác giả sẽ kế thừa các kết quả đã có ở các công trình nghiên cứu nói trên, song tiếp tục nghiên cứu làm rõ: - Các hoạt động kinh tế của các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam diễn ra như thế nào. - Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế các tổ chức, đơn vị thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay ra sao. 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế của các tổ chức tôn giáo 1.2.1. Những vấn đề chung về hoạt động kinh tế của các tổ chức tôn giáo 1.2.1.1. Một số khái niệm liên quan a. Hoạt động kinh tế của tổ chức tôn giáo “Kinh tế là một phạm trù chỉ quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, dựa trên sở hữu và lợi ích kinh tế chi phối. Phạm trù này chứa đựng các khía cạnh hoạt động kinh tế tiết kiệm và hiệu quả, dựa trên sự so sánh các yếu tố đầu và và đầu ra, các lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu thông và tiêu dùng của cả. Kinh tế là mặt xã hội của sản xuất nên nó có tính giai cấp, tính chính trị, tính hiệu quả và tính tăng trưởng bền vững” (Phan Huy Đường, 2015, trang 64). “Hoạt động kinh tế là hoạt động sản xuất, kinh doanh của con người nhằm tìm kiếm lợi ích kinh tế của mình. Nếu là một khái niệm chỉ mối liên hệ xã hội của con người trong quá trình tái sản xuất xã hội dựa trên sở hữu và lợi ích kinh tế thì hoạt động kinh tế là khái niệm chỉ rõ hoạt động của con người, của các chủ thể kinh tế nhằm nhằm đạt được lợi ích kinh tế. 9 Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản bao quát rất rộng, nó gắn chặt với hoạt động sinh tồn nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người ngày càng tăng cao, là hoạt động vì lợi ích của con người, bảo đảm cho con người ngày càng phát triển toàn diện, thực sự tự do, hạnh phúc và giàu có. Nó có tính đặc thù riêng khác với hoạt động chính trị, xã hội…” (Phan Huy Đường, 2015, trang 64, 67). Vấn đề Kinh tế tôn giáo vẫn là điều còn mới mẻ, kể cả trong một số tôn giáo, trong đó có Phật giáo. Bởi từ lâu phần đông mọi người trong xã hội đều nghĩ rằng: tôn giáo tiêu biểu cho tinh thần tín ngưỡng mang tính thiêng liêng và tâm linh, tức để mọi người hướng đến sùng bái, kính ngưỡng, cầu nguyện và tu hành. Thuật ngữ “Kinh tế học tôn giáo” hầu như chưa được nhắc đến nhiều, tuy nhiên ở một số tôn giáo cũng đã được nhắc đến, như: Thuật ngữ "Kinh tế học Phật giáo" được E. F. Schumacher sử dụng vào năm 1955, khi ông đến Miến Điện với tư cách là cố vấn kinh tế cho Thủ tướng U Nu, sau đó là những môn đệ của Schumacher, như: Prayudh Payutto, một nhà sư người Thái lan, một học giả danh tiếng đã triển khai khái niệm về kinh tế học Phật giáo trong tác phẩm “Buddhist Economics: A Middle Way for the Market Place (1994)”. Trong tác phẩm này, ông phê phán về khuynh hướng của kinh tế học hiện đại khi khảo sát về mối giao hoán kinh tế, nhưng lại tách rời những cứu xét về mặt đạo đức của vấn đề mua bán, đâu là hậu quả xã hội và môi sinh của các trao đổi này. Ông nhấn mạnh tới những hậu quả kinh tế qua các tác phong đạo đức, như: sự dè dặt của nhà đầu tư khi có nhiều bất ổn xã hội, khách hàng không thỏa mãn nếu mặt hàng kém phẩm chất, chi phí y tế và tình trạng sức khoẻ tệ hại của các công nhân khi thực phẩm xấu. Kinh tế Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí óc con người, những ưu tư, khát vọng, cảm xúc vốn thúc đẩy hoạt động kinh tế. Cách hiểu 10 về kinh tế Phật giáo nhằm đến việc làm rõ những gì là có hại, những gì là có ích trong những hoạt động của con người liên quan đến sản xuất và tiêu thụ, nhất là cố gắng làm cho con người trưởng thành về mặt đạo đức. Kinh tế Phật giáo cho rằng những quyết định duy lý thực sự chỉ có thể có được khi chúng ta hiểu điều gì đã tạo nên sự bất duy lý. Khi hiểu điều gì tạo ra ham muốn, con người nhận ra rằng tất cả của cải trên thế gian này không thể thỏa mãn được ham muốn đó. Khi con người hiểu được tính phổ quát của sợ hãi, họ trở nên có lòng trắc ẩn hơn với mọi sinh linh. Như vậy cách tiếp cận đối với kinh tế học này không dựa trên lý thuyết và mô hình mà dựa trên sức mạnh của sự cảm quan, sự thấu hiểu và sự kiềm chế. Trong thực tế, sự tham gia hoạt động kinh tế của các tổ chức tôn giáo thuộc một số tôn giáo để tạo nguồn thu bằng nhiều cách như: góp vốn vào các công ty, cho thuê nhà ở, trụ sở làm việc, bãi đỗ xe, nhà máy, mua cổ phiếu, thành lập các công ty... đã có ở nhiều nước, như: + Ở Hoa Kỳ: một số tổ chức tôn giáo thuộc một số tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Do Thái giáo, cũng như một số tổ chức tôn giáo mới đã dùng nguồn tài chính có được để mua cổ phiếu, thuê nhà ở, trụ sở làm việc, bãi đỗ xe, nhà máy, sở hữu một số công ty lớn… “Nguồn tài chính quan trọng nhất của các tổ chức tôn giáo là tiền lạc quyên... Có trong tay số tiền lớn như vậy, các nhà hoạt động tôn giáo không chỉ dùng chúng để chi cho bộ máy của Giáo hội, xây dựng nhà thờ và các công trình liên quan, trả lương giảng viên trong các trường của Giáo hội, mà còn dùng để mua cổ phiếu của ngân hàng, của các xí nghiệp công nghiệp, của các hãng bảo hiểm. Doanh lợi thu được từ các hoạt động tài chính này là không nhỏ. Tiền lạc quyên không phải nguồn thu tài chính duy nhất của các giáo hội. Họ còn các nguồn thu khác như tiền cho thuê nhà ở, trụ sở làm việc, bãi đỗ xe, nhà máy, cổ phiếu. Ví dụ, Giáo hội ở Ohio sở hữu cả một trung tâm 11 thương mại, một hãng điện tử, một công ty sản xuất dây thép và lưới thép” (Nguyễn Văn Dũng, 2009. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 02, trang 41). + Ở Italia: Các nhà thờ của Công giáo đều cho cho thuê đất, thuê bất động sản… để tạo nguồn thu. Đặc biệt Vatican (Công giáo) được coi là một trong những thế lực kinh tế lớn ở Châu Âu, có nguồn tài chính khổng lồ thu được từ từ các công ty tư bản ở các nước Âu, Mỹ mà Vatican có cổ phần. Ngoài ra, Vatican còn có lợi tức 50% trong số tiền 01 tỷ USD, chủ sở hữu 250.000ha ruộng đất ở Italia, 1/3 diện tích trồng trọt ở Tây Ban Nha, 15 bất động sản ở Rô ma… (một số diện tích đất, bất động sản được các nhà thờ cho thuê để tạo nguồn thu). Riêng đối với Phật giáo, ngay khi còn tại thế đức Phật cũng đã chủ trương chức sắc, nhà tu hành phải có đời sống phạm hạnh thanh cao, khi đã xuất gia thì mọi việc như: tình, tiền, danh lợi đều buông xuống, giải thoát... Nên mọi sinh hoạt, đời sống của họ đều do Phật tử cúng dường, ủng hộ. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật nhập diệt, Phật giáo truyền đến nhiều nước trên thế giới. Phong tục tập quán mỗi quốc gia, địa phương đều có phần khác nhau: có nơi, chức sắc, nhà tu hành có thể mỗi sáng ôm bát đi trì bình khất thực, ăn trước 12h. Nhưng cũng có nơi tu học chung trong một cơ sở thờ tự với hàng ngàn vị, không thể đi khất thực. Cho nên, từ đây ý tưởng nên làm một cái gì đó để chia sẻ một phần gánh nặng trong đời sống của hàng cư sĩ tại gia và khởi xướng mạnh mẽ nhất là từ thời tổ sư Bách Trượng, tổ sư đời thứ 3 sau lục tổ Huệ Năng, vị tổ sư nổi tiếng của Phật giáo thiền tông Trung Hoa với phương châm: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (Một ngày không làm, một ngày không ăn). Đây là câu thiền ngữ độc đáo, đặc sắc, là tư tưởng chủ đạo cho việc làm kinh tế tự túc trong giới chức sắc, nhà tu hành, tín đồ Phật giáo. Nối tiếp ngay sau đó thời tổ Quy Sơn, hình ảnh Thượng toạ Ngưỡng Sơn và nhiều vị thiền sinh khác mỗi ngày cày ruộng dưới chân núi Quy Sơn, 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất