Biểu 4: Thị phần của Bảo Minh (2000-2004)
30%
28.10%
25.90%
25%
24.60%
24.37%
22.28%
20%
15%
10%
5%
0%
2000
2001
2002
2003
2004
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Năm 2000, thị phần của Bảo Minh là thấp nhất 22,28%. Cố gắng nâng
cao thị phần, Bảo Minh đã giảm phí liên tục và nới lỏng các quy định đối với
khách hàng trong khai thác, nhờ đó thị phần năm 2001 tăng lên 24,37%. Tuy
nhiên doanh thu phí bị ảnh hưởng, không những thế, tỉ lệ tổn thất cao làm chi
bồi thường lớn, lợi nhuận thu vì thế thấp. Vì vậy, năm 2002 với việc thực
hiện thị phần của Bảo Minh tăng là 24,6%. Năm 2003, thị phần của Bảo
Minh vẫn tiếp tục tăng 25,9%. Năm 2004, thị phần của Bảo Minh tăng rất
mạnh 28,1% do Bảo Minh đã nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, đã
quảng cáo mạnh mẽ trên các thông tin đại chúng.
2. Mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội.
Trước những thuận lợi và khó khăn đó, Bảo Minh Hà Nội đã đề ra
mục tiêu:
- Giữ vững vị trí thứ hai trên thị trường Bảo Hiểm Việt Nam và không
ngừng mở rộng thị phần.
- Khắc phục những mặt tồn tại của Công ty đồng thời củng cố, hoàn
thiện bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
- Mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại, tăng cường quan hệ hợp tác với
các công ty bảo hiểm nước ngoài.
Để đạt được mục tiêu đó, Bảo Minh Hà Nội phải giành được khách
hàng quen mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp nước ngoài và cạnh tranh
thành công với các doanh nghiệp khác của Hà Nội.
3. Kiến nghị:
Việc luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 09/12/2000 là một thành công của các nhà luật pháp. Tiếp
theo đó là nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Tài chính thể hiện sự
quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo điều
kiện và cơ sở pháp lý đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng
như tạo sự bình đẳng, đảm bảo lợi ích chính đáng và hợp pháp giữa những
người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản pháp
quy này phải đưa vào thực hiện một cách hoàn chỉnh.
3.1. Đối với Nhà nước:
Cùng với việc mở cửa của thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam tuy không dài nhưng mức độ và tính chất đã diễn
ra rất gay gắt thậm chí nhiều lúc đã mang tính tiêu cực. Vì thế sự can thiệp
của Nhà nước nhằm định hướng cho ngành bảo hiểm nước ta liên tục phát
triển một cách bền vững và lành mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh với các
công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất cần
thiết.
Trước lúc nhận bảo hiểm phục vụ giám định hiện trường kịp thời,
giảm thiểu nguy cơ, cơ hội tồn tại vấn đề trục lợi.
Khi có sự tổn thất cần làm tốt các khâu: giám định hiện trường, giám
định chính thức, bổ sung; giám định sửa chữa một cách chi tiết, cụ thể mẫn
cán, trung thực.
- Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của
thị trường, Nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) cần đưa ra mức phí sàn đối với
từng mặt hàng.
Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm đang hoạt
động trên thị trường Việt Nam, đồng thời khuyến khích các công ty tái bảo
hiểm ở trong nước trước khi tái ra nước ngoài. Một thực tế hiện nay là tỷ lệ
tái bảo hiểm cho các công ty nước ngoài rất cao, phần tái bảo hiểm cho
VINARARE hầu như chỉ vừa đủ theo quy định của Nhà nước. Thực trạng
này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến:
- Khi tái bảo hiểm Nhà nước ra nước ngoài, do tiềm lực tài chính của
các công ty tái bảo hiểm nước ngoài rất mạnh nên các công ty bảo hiểm của
Việt Nam tỏ ra yên tâm hơn, đồng thời khi tái bảo hiểm ra nước ngoài thì lợi
nhuận công ty nhận được thông thường lớn hơn so với khi tái bảo hiểm trong
nước.
- Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, các công ty bảo hiểm còn có thể
tranh thủ được công nghệ, kỹ thuật cao của các công ty đó. Đặc biệt những
trường hợp xảy tổn thất có tính chất phức tạp hoặc tranh chấp liên quan đến
phạm vi quốc tế thì việc giải quyết thông qua các công ty tái bảo hiểm đó
thường hiệu quả hơn.
Vì những lý do trên nên hiện nay tỷ lệ tái bảo hiểm ra nước ngoài
trong nghiệp vụ hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở
nước ta là rất cao, giải quyết vấn đề này cần có sự định hướng phát triển
đúng đắn cũng như những chính sách nhất quán từ phía Nhà nước.
Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
Nhà nước để giúp các doanh nghiệp này tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, trong ngành bảo hiểm việc tố tụng hay xảy ra giữa người
được bảo hiểm và người bảo hiểm, kiểm tra tính chính xác của việc giải
quyết khiếu nại, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra
kiện tụng còn xảy ra giữa người bảo hiểm với bên thứ ba, thường là chủ tàu.
Vì vậy, tính chính xác của các bản án rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp bảo hiểm.
So với các luật khác, luật bảo hiểm vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Mặc dù
luật kinh doanh bảo hiểm ra đời là bước ngoặt quan trọng trong ngành bảo
hiểm Việt Nam nhưng nó chỉ là điều chỉnh về mặt kinh doanh thành lập và
kiểm tra của Nhà nước. Việc giải quyết các tố tụng trong bảo hiểm vẫn chưa
được xét đến.
- Pháp luật cần xác định rõ Toà án nào có thẩm quyền xét xử các vụ
kiện trong bảo hiểm.
Việc bắt giữ tàu nước ngoài gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm
quá khó khăn, làm cho doanh nghiệp bảo hiểm không đòi lại được số tiền đã
bồi thường.
Do đó, Nhà nước cần xem xét bổ sung luật tố tụng trong bảo hiểm và
có các chương trình đào tạo kiến thức về bảo hiểm cho quan toà.
3.2. Đối với Bảo Minh.
a. Về mặt nghiệp vụ:
(*) Công tác khai thác và dịch vụ chăm sóc khách hàng:
Trước sức ép cạnh tranh từ phía các công ty bảo hiểm khác, thị phần
của toàn Tổng công ty Bảo Minh sẽ bị san sẻ, nên Tổng công ty cần phải tìm
kiếm thêm khách hàng cho mình. Sự an toàn trong hoạt động bảo hiểm phụ
thuộc vào số phí thu được, mà số phí thu được lại phụ thuộc vào khả năng
khai thác của các đại lý và các chính sách khách hàng. Chính sách khách
hàng tại Tổng công ty Bảo Minh nói chung và Công ty Bảo Minh Hà Nội nói
riêng được thực hiện như sau:
- Hàng năm, hàng quý công ty có thể tổ chức hội nghị khách hàng.
Đây là dịp tốt để công ty tạo nên ấn tượng của mình với khách hàng. Ngoài
ra còn giúp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
- Phân loại khách hàng thường xuyên để có những chính sách thích
hợp, khuyến khích, ưu đãi khách hàng về phía có ưu tiên đối với những
khách hàng lớn và khách hàng truyền thống của công ty.
- Tuyên truyền phổ biến chính sách khách hàng đến tất cả các nhân
viên trong công ty, có quy trình về trách nhiệm, có sơ kết, có đề xuất với
lãnh đạo, để đưa công tác khách hàng không ngừng phát triển về chất lượng
phục vụ.
* Củng cố và phát triển đại lý, cộng tác viên.
Hệ thống đại lý, cộng tác viên của Tổng công ty có đảm bảo thì Tổng
công ty mới hoàn thành tốt được kế hoạch đề ra. Tổng công ty và Công ty
Bảo Minh Hà Nội nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống đại lý, cộng tác
viên trong việc kinh doanh bảo hiểm nên đã không ngừng phát triển và mở
rộng hệ thống đại lý, đồng thời nâng cao trình độ của các đại lý. Tổng công
ty, Công ty Bảo Minh Hà Nội đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo các đại
lý. Song cần tập trung vào việc xây dựng quy trình phát triển hệ thống đại lý
mới. Các đơn vị trong toàn Tổng công ty cần phải thấy được tầm quan trọng
của đại lý và thực sự quan tâm đến hoạt động của đại lý, cộng tác viên. Thực
hiện tốt các quy định về quản lý tài chính đối với đại lý, cộng tác viên: ấn
chỉ, hoá đơn, thu nộp phí…
* Chương trình tái bảo hiểm:
Tái bảo hiểm cũng là một công việc quan trọng trong các nghiệp vụ
bảo hiểm, nếu các công ty bảo hiểm tính toán đúng các phương thức và tỷ lệ
tái không những sẽ giúp cho Tổng công ty tránh được phá sản khi có tổn thất
quá lớn xảy ra mà còn giúp cho Tổng công ty tăng lợi nhuận. Đối với Bảo
Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội các chương trình tái cũng đã được Tổng
công ty quan tâm đáng kể nhưng cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau:
- Tập trung hướng dẫn giúp đỡ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ kế toán,
thống kê của các địa phương nắm vững nội dung các chương trình tái, tỷ lệ
nhượng tái, thu hoa hồng nhượng tái…
- Thông báo kịp thời tình hình tái cho các đơn vị để làm cơ sở tính
toán hiệu quả.
- Tăng cường trách nhiệm của phòng tái về đòi bồi thường hoa hồng
từ tái bảo hiểm.
b. Về mặt quản lý.
(*) Về công tác cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp.
Theo định hướng chung của toàn quốc, đến hết năm 2005, tất cả các
doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước (trừ Bảo Việt) đều được tiến hành cổ phần
hóa. Tổng công ty Cổ phần Bảo Minh đã được thành lập theo giấy phép
thành lập và hoạt động số 27GP/KDBH ngày 8/9/2004 của Bộ Tài chính.
Trong thời gian này, Tổng công ty đã thực hiện một số phương pháp quản lý
mới như khoán lương 100% theo hiệu quả kinh doanh. Tổng công ty thuê
những tư vấn giỏi để xây dựng chiến lược kinh doanh cho Tổng công ty
trong tình hình mới.
(*) Công tác kế hoạch thống kê:
Thực hiện triệt để định hướng kinh doanh: Hiệu quả là mục tiêu hàng
đầu, xây dựng chỉ tiêu doanh thu thuần và khoản định mức theo chỉ tiêu này.
Tăng cường kiểm tra theo dõi công tác thực hiện kế hoạch và có biện
pháp chấn chỉnh kịp thời.
(*) Công tác tài chính kế toán:
- Nhanh chóng hoàn chỉnh và triển khai phần mềm quản lý tài chính
kế toán FAST. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quyết toán tài chính cho
các đơn vị quyết toán nhanh các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành.
- Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính, hướng dẫn chi tiêu
phù hợp tới sự đổi mới của Tổng công ty. Hướng dẫn các biện pháp tiết kiệm
chi phí quản lý.
(*) Phát triển bộ máy nhân sự:
Sự thành công của việc kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc phần lớn vào
trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong Tổng công ty nói chung và trong
từng đơn vị nói riêng. Các cán bộ trong từng công ty cần phải am hiểu tường
tận các nghiệp vụ bảo hiểm, các điều luật liên quan và có khả năng phân tích
mọi điều khoản của các bộ luật, các văn bản chuyên ngành và các văn bản
liên quan phục vụ cho công việc như: phân tích cho khách hàng những thắc
mắc của họ, giải quyết các yêu cầu của khách hàng đúng luật, tạo nên uy tín
trong khách hàng về đội ngũ nhân viên am hiểu về nghiệp vụ và các vấn đề
có liên quan.
- Bổ sung thêm kiến thức cho nhân viên trong toàn công ty về các lĩnh
vực như: tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới trong các ngành. Công ty cần
kiểm tra định kỳ các nhân viên của mình về kỹ năng nghiệp vụ của họ nhằm
sắp xếp công việc phù hợp cho nhân viên của mình tạo năng suất và hiệu quả
làm việc cao nhất.
- Công ty nên có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những nhân viên
có thành tích tốt trong công tác, phải phê bình nghiêm khắc đối với các nhân
viên vi phạm các quy chế của công ty, của Tổng công ty. Công ty có thể tổ
chức một buổi họp khen thưởng và phê bình, điều này là rất tốt vì như thế sẽ
thúc đẩy các nhân viên làm việc tốt hơn để đạt được những thành tích tốt
trong công việc.
- Tổng công ty và Công ty cần đặt ra chế độ thi tuyển nhânb viên rộng
rãi khắp toàn quốc nhằm thu hút người tài, có năng lực về làm việc trong
Tổng công ty, Công ty.
- Công ty cần tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt,
cập nhật thường xuyên các kiến thức thông tin cho cán bộ. Tổ chức các lớp
huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên giúp họ theo kịp yêu cầu của công tác
mới.
4. Giải pháp
4.1. Về công tác khách hàng
Đây là khâu quan trọng trong chiến lượcMarketing của doanh nghiệp
nói riêng và trong cơ chế thị trường khi mà cung luôn vượt quá cầu. Mục
tiêu thu hút khách hàng luôn đượcđặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp bảo
hiểm.
Trước hết phải kể đến việc nghiên cứu thị trường và khách hàng. Đây
là công việc cần làm trước khi hoạch định các chiến lược lược chính sách và
đề ra kế hoạch cho năm nghiệp vụ, nhằm xác định được những bộ phận thị
trường mục tiêu mà doanh nghiệp có thể hoạt động với nhiều lợi thế nhất,
mặt khác giúp doanh nghiệp hiểu rõ về khách hàng, đối thủ cạnh tranh, tình
hình thị trường. Để làm được điều này hàng năm công ty cần phải có kế
hoạch thu nhập các thông tin về hạn ngạch xuất nhập khẩu cho từng mặt
hàng nắm được định hướng xuất nhập khẩu trong năm. Công ty cần cử các
nhân viên xuống gặp gỡ với các công ty xuất nhập khẩu để có thể tư vấn cho
họ về việc mua bảo hiểm của công ty mình. Mặt khác cũng thông qua tiếp
cận với khách hàng tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị để
phân chia khách hàng thành từng nhóm: nhóm khách hàng có nhu cầu
thường xuyên, nhóm có nhu cầu không thường xuyên hay nhóm các khách
hàng chuyên xuất mặt hàng gạo, nông thuỷ sản hoa quả, hàng thủ công mỹ
nghệ… nhóm khách hàng chuyên nhập các mặt hàng phục vụ cho sản xuất
như xi măng, sắt thép, phân bón… đồng thời căn cứ vào nhu cầu thực tế của
từng đơn vị để có thể thành lập một bảng kế hoạch chi tiết trong đó có sự
phân nhóm rõ ràng và kế hoạch tiếp cận, khai thác đối với từng đối tượng.
Tổng công ty có thể phân chia khách hàng theo nhóm khách hàng truyền
thống và nhóm khách hàng mới để có những chính sách ưu đãi phù hợp.
Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường, khách hàng thì vấn đề cao chất
lượng cũng là một điều cần bàn. Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là
một dịch vụ tài chính vô hình khách hàng rất khó cảm nhận đượclợi ích của
nó thông qua các giác quan. Chính vì vậy mà chúng ta phải nâng cao chất
lượng phục vụ khách hàng để tăng tính hữu hình của sản phẩm. Cụ thể là
Tổng công ty cần phải có những nội quy rõ ràng để hướng dẫn các nhân viên
trong việc tiếp xúc khách hàng, giải quyết khiếu nại, thu phí. Mấy năm vừa
qua vấn đề này được Bảo Minh Hà Nội quan tâm giải quyết, cho đến nay kết
quả đã thấy rõ rệt.
Một thực trạng trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở nước ta
hiện nay chính là việc các doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá
theo điều kiện CIF. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta giành quyền vận
chuyển và bảo hiểm hàng hoá cho phía đối tác nước ngoài. Đây chính là
nguyên nhân khiến cho hàng năm chúng ta làm thất thoát một khối lượng lớn
ngoại tệ ra nước ngoài. Nhiệm vụ của doanh nghiệp bảo hiểm ở đây là tạo
dựng cho khách hàng sự tin tưởng vào chất lượng phục vụ của tổng công ty,
căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp để tư vấn cho doanh nghiệp về
các điều kiện xuất và nhập hàng, khuyến khích họ xuất khẩu theo giá CIF và
nhập theo giá được đặt ra đối với FOB. Tất nhiên, trong tình hình thực tế của
các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đây là một vấn đề khó khăn nhưng nếu
không làm được như vậy thì hàng năm chúng ta vẫn phải chấp nhận một
khối lượng khổng lồ hàng hoá xuất nhập khẩu của chúng ta tham gia bảo
hiểm ở các công ty nước ngoài.
Mặt khác, khách hàng luôn mong muốn được bồi thường khi tổn thất
xảy ra đối với phí bảo hiểm thấp nhất. Vì vậy đôi khi họ mua bảo hiểm
không phù hợp với hàng hoá. Bảo Minh Hà Nội cần tránh những vụ từ chối
bồi thường đáng tiếc để đảm bảo lợi ích và tạo tin tưởng cho khách hàng.
Thứ nhất: Lúc ký hợp đồng, cán bộ khai thác cần phải dựa trên tính
chất, đặc điểm của hàng, cách đóng gói bao bì, cách thức xếp hàng trên tàu,
khả năng xảy ra các rủi ro để tư vấn điều kiện thích hợp cho khách hàng. Ví
dụ:
- Các mặt hàng như quặng, gỗ, sắt, thép, xăng dầu chỉ cần bảo hiểm
theo điều kiện C.
- Loại hàng được vận chuyển trên boong tàu và loại hàng cồng kềnh
như sắt thanh, gỗ tròn, than đá, bột và bắp nên được bảo hiểm theo điều kiện
B.
- Các mặt hàng quý có giá trị cao, dễ vỡ, như hàng điện tử, hàng dễ
hư thiếu hụt như thuốc men, gạo, lúa mỳ, đường, hoá chất, phân bón phải
bảo hiểm theo điều kiện A.
Ngoài ra một số loại hàng không nhất thiết phải mua bảo hiểm theo
điều kiện A mà có thể mua ban hành theo điều kiện C hay B rồi mua bảo
hiểm thêm một số rủi ro phụ hay xảy ra đối với hàng đó. Ví dụ:
- Bông thô: điều kiện A cộng với điều khoản hư hỏng từ nơi xuất xứ
như hư hỏng gây ra do mưa, bùn trươc khi giữ hàng.
- Than: do đặc tính dễ bắt lửa và tự bốc cháy, người được bảo hiểm
nên mua điều kiện bảo hiểm C và cộng thêm điều kiện bảo hiểm nóng.
Nếu trộm cắp hay xảy ra trên hành trình, khách hàng có thể mua thêm
rủi ro trộm cắp, không giao hàng.
Thứ hai: cần hướng dẫn khách hàng lập những chứng từ cần thiết
chứng minh tổn thất và khiếu nại người thứ ba để đảm bảo quyền được bồi
thường của khách hàng.
4.2. Mức phí bảo hiểm:
Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặc
biệt đó là một cơ chế chuyển giao rủi ro với đặc tính là có hiệu quả rê dịch và
có chu trình kinh doanh đảo ngược. Vì thế người mua khó nhận biết về lợi
ích kinh doanh của nó, họ thường quan tâm tới mức phí (giá cả của sản phẩm
bảo hiểm). Phí bảo hiểm không thể quá cao làm cho khách hàng tham gia
bảo hiểm ở công ty khác, nhưng cũng không được quá thấp vì còn phải đủ để
bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm và trang trải
các chi phí như: hoa hồng, chi phí quản lý, trích lập dự phòng nghiệp vụ,
Tổng công ty cần phải có những chính sách giảm phí cho những khách hàng
truyền thống, có kim ngạch bảo hiểm lớn. Phí bảo hiểm cần phải được xây
dựng trên cơ sở thống kê rủi ro, tổn thất qua các năm từ đó xác định được phí
thuần, sau khi cộng thêm một số chi phí như: chi phí ký kết hợp đồng, chi
phí quản lý… Ta sẽ được phí thương mại. Để có mức phí hợp lý công ty phải
căn cứ vào một số yếu tố… thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh… rồi
sau đó mới đưa ra được biểu phí cho khách hàng. Ngoài ra Công ty cần phải
thường xuyên theo dõi ảnh hưởng của mức phí đến tâm lý khách hàng cũng
như sự tương quan với mức phí của các công ty khác để có sự điều chỉnh kịp
thời.
4.3. Về công tác phòng, hạn chế tổn thất.
Với những đặc điểm của mình, vận tải đường biển thường gặp phải
rất nhiều rủi ro bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế, để công
tác đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả thì công tác này cần được thực
hiện ngay từ khi xếp hàng lên tàu và tiếp tục duy trì trong suốt hành trình cho
đến khi dỡ hàng tại cảng đến.
Hiện nay việc đề phòng hạn chế tổn thất đang được công ty thực hiện
bằng cách chỉ định một công ty khác của bảo hiểm tại bến cảng hoặc thuộc
đơn vị chuyên trách tiến hành quá trình bốc xếp hàng hoá lên, xuống tàu
nhằm ngăn chặn những công nhân bốc xếp không làm đúng quy cách hoặc
dùng phương tiện không thích hợp trong việc bốc xếp hàng hoá.
Từ những biện pháp này, công ty đã hạn chế số vụ tổn thất bồi thường
của công ty trong thời gian qua. Công ty cũng tăng cường công tác đề phòng
hạn chế tổn thất qua việc tăng chi cho công tác này. Năm 2002, công ty đã
tăng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất 1,53% trong tổng chi nghiệp
vụ. Hiệu quả được thể hiện là trong năm 2003 và năm 2004, thực chi bồi
thường của Tổng công ty đã giảm rõ rệt. Công ty nên tiếp tục phát huy và
làm tốt hơn một số vấn đề như:
Đối với luồng vận chuyển, từng chuyến hành trình Công ty vẫn
nghiên cứu kỹ những đặc điểm của cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải, cảng
lánh nạn (nếu có), những rủi ro có thể xảy ra… Đồng thời với các con tàu
vận chuyển cho từng chuyến hàng, công ty cũng cần xem xét, tìm hiểu các
đặc tính như cấp hạn tàu, tuổi tàu cỡ hạn tàu, chủ tàu… Trên cơ sở đó phòng
hàng hải sẽ lập ra bản hướng dẫn đối với những khách hàng mua bảo hiểm
cho hàng hoá xuất nhập khẩu bao gồm: Một bản chung áp dụng cho tất cả
những khách hàng trong đó ghi thông tin về tất cả các đặc điểm của từng vận
chuyển, từng nhóm tàu kèm theo là lời khuyên nên chọn nhóm tàu nào và
biện pháp cho việc phòng tránh rủi ro. Một bản khác sẽ được sử dụng trong
từng trường hợp cụ thể đối với từng khách hàng và hợp đồng cụ thể trên đó
phân tích các đặc tính của tàu, của lô hàng tham gia bảo hiểm và kèm theo
các khuyến cáo về phòng tránh rủi ro, tổn thất.
Đối với khách hàng tham gia hợp đồng bảo hiểm bao, Bảo Minh Hà
Nội nên đề nghị khách hàng thông báo gửi về cho công ty trước mỗi chuyến
hành trình, phải ghi thật đầy đủ, cụ thể các đặc điểm của chuyến theo đó
công ty sẽ thông báo lại cho khách hàng về con tàu nên thuê cách thức đóng
gói, bốc, dỡ, chất xếp hàng cần làm…
Bên cạnh đó công ty cũng lên tham mưu cho khách hàng về các mặt:
điều kiện bảo hiểm tốt nhất, chất lượng hàng, bao bì đóng gói, điều kiện bốc
dỡ, đóng gói, tình trạng tàu, tình trạng tài chính của tàu.
Nếu như lô hàng có giá trị lớn, số lượng nhiều, chiếm một khoảng
không gian đáng kể trong hầm tàu thì chủ hàng nên đề nghị chủ tàu tiến hành
việc nâng hàng và chăm sóc hàng ngay từ đầu.
Trong trường hợp khách hàng lớn, thường xuyên tiến hành xuất nhập
khẩu và hay bốc dỡ tại một cảng nào đó thì công ty cũng nên để khuyến cáo
khách hàng cần có đề xuất với cảng chấp nhận phương án sau. Nếu trong
một thời gian nhất định (có thể là một quý hoặc một năm). Các lô hàng hoá
xuất nhập khẩu trong quá trình bốc xếp không may xảy ra mất mát, hao hụt,
trả lại hoặc xảy ra nhưng với điều kiện nhỏ hơn mức độ ấn định thì cũng sẽ
được thưởng một khoản tiền tương xứng. Còn nếu ngược lại thì các giá trị
tổn thất xảy ra vượt quá mức cho phép thì cảng phải trả cho chủ hàng một số
tiền tỷ lệ với giá trị tổn thất. Bằng cách này sẽ nâng cao được trách nhiệm
của cảng đối với hàng hoá, qua đó có thể giảm được đáng kể các tổn thất khi
bốc dỡ và xếp hàng.
4.4. Về công tác giám định.
Qua số liệu tổng kết của công ty trong thời gian gần đây ta thấy khoản
chi cho giám định hàng hoá tăng lên. Điều này có thể lý giải là do những
năm đầu số vụ tổn thất còn ít nên hầu hết các vụ đều do cán bộ của Công ty
hoặc của Tổng công ty giám định. Song càng về sau số vụ tổn thất càng tăng
lên theo số lượng hợp đồng trong khi đó số lượng cán bộ phòng hàng hải của
Bảo Minh là quá mỏng, lại phải đảm đương tất cả các khâu từ khai thác đến
bồi thường nhiều nghiệp vụ: bảo hiểm, tàu biển, bảo hiểm tàu phà sóng biển,
đồng thời tính chất phức tạp của tổn thất cũng tăng lên vì thế công ty phải
thuê các chuyên gia giám định có uy tín để thực hiện. Do đó đã làm chi phí
giám định tăng lên.
Để tăng cường chất lượng công tác giám định đồng thời đảm bảo tiết
kiệm chi phí, một mặt công ty cần phải không ngừng đào tạo nâng cao trình
độ cho cán bộ giám định, mặt khác nên để chuyên môn hoá khâu giám định
bằng cách mỗi cán bộ phòng hàng hải chịu trách nhiệm giám định cho một
số mặt hàng cụ thể nào đó. Có như vậy thì mới có thể đi sâu nghiên cứu và
chuyên môn hoá trong lĩnh vực của mình để nhằm hạn chế bớt các chi phí
phát sinh và nâng cao hiệu suất của công việc.
4.5. Công tác bồi thường:
Hiệu quả công tác bồi thường phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất và đơn giản hóa các thủ tục trong
quá trình xét giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường. Vì thế, để nâng cao chất
lượng công tác này, Tổng công ty và Công ty không chỉ cần làm tốt các yếu
tố trên mà còn phải có những biện pháp ngăn ngừa những gian lận có thể xảy
ra trong quá trình khiếu nại đòi bồi thường.
Để ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra tổn thất khi xem xét khiếu
nại đòi bồi thường tổn thất, công ty cần tìm hiểu và xác định rõ các tổn thất.
Kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn của các cán bộ của công ty nên
đề ra những chuẩn mực và các điểm chú ý cần thiết trong quá trình giải quyết
khiếu nại cho tất cả cán bộ phòng hàng hải của Tổng công ty. Mặt khác, tổng
công ty cũng cần đề ra những yêu cầu đối với khách hàng về tinh thần trung
thực cũng như thiện chí khi ký kết hợp đồng, đặc biệt là đối với những khách
hàng mới. Nếu họ vi phạm những thoả thuận đó thì công ty có thể xử phạt
tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Có thực hiện được như trên thì mới tạo được
những hiệu quả thiết thực trong việc ngăn ngừa gian lận trong bảo hiểm hàng
hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, từ đó góp phần nâng cao
chất lượng công tác giải quyết khiếu nại bồi thường của Công ty cũng như
Tổng công ty.
4.6. Về công tác cán bộ:
Hiện nay ở công ty Bảo Minh Hà Nội, đội ngũ cán bộ công tác trong
phòng hàng hải đều rất tâm huyết với công việc và có trình độ chuyên môn
cao trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển. Những cán bộ này được đào tạo các kiến thức về chuyên ngành
bảo hiểm, hàng hải, ngoại thương, luật trong các trường đại học có uy tín.
Ngoài ra hàng năm các cán bộ này còn tham gia nhiều khoá huấn luyện hội
thảo trong nước cũng như ngoài nước (Anh, Mỹ, Hàn Quốc). Mặt khác đa
phần trong số họ đều làm việc cho Tổng công ty ngay từ đầu thành lập nên
rất am hiểu thực trạng của Tổng công ty, vị thế của Tổng công ty trên thị
trường, các khách hàng truyền thống,… đây có thể nói là những thuận lợi
của công ty về mặt nhân sự, có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của công ty
trong thời gian qua.
Tuy nhiên hiện nay cán bộ trong phòng hàng hải của Tổng công ty
còn ít so với khối lượng đồ sộ của công việc và thường xuyên phải thực hiện
những chuyến công tác dài ngày để giám định bồi thường tổn thất. Vì vậy
xin đề nghị với Tổng công ty cũng như Công ty lưu tâm hơn đến chế độ đãi
ngộ cũng như lương, thưởng đối với cán bộ phòng bảo hiểm để khuyến khích
họ ngày càng làm việc tốt hơn và hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với kinh tế trong
khu vực cũng như nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy, hoạt động thông
thương buôn bán quốc tế đang diễn ra nhộn nhịp góp phần thúc đẩy tiến trình
hội nhập của nền kinh tế nước ta.
Với vai trò là tấm lá chắn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, bảo hiểm hàng hoá nói chung và bảo hiểm hàng vận chuyển
bằng đường biển nói riêng đã không ngừng phát triển và góp phần vào sự
phát triển chung của nền kinh tế.
Cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường Việt Nam,
Bảo Minh Hà Nội cũng đã và đang triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển và đã nắm giữ một thị phần
không nhỏ đối với nghiệp vụ này, đóng góp chung vào kết quả của cả Tổng
công ty. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các công ty bảo hiểm trong nước cũng như
Bảo Minh là phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị
trường, cải tiến các sản phẩm cho phù hợp hơn với các yêu cầu của khách
hàng. Về phiá Nhà nước cũng cần có những biện pháp hỗ trợ để hàng hoá
xuất nhập khẩu của Việt Nam được bảo hiểm tại thị trường trong nước nhằm
thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển cũng như tiết kiệm ngoại tệ phục vụ cho
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Sau một thời gian thực tập ở công ty Bảo Minh Hà Nội, với sự giúp
đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng Bảo hiểm Hàng hảI,sự hướng dẫn tận
tình của cô giáo - thạc sĩ Nguyễn Thị Chính, em đã hoàn thành chuyên đề tốt
nghiệp của mình, với hi vọng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện nghiệp
vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, trong
thời gian tới đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của chủ hàng khi tham gia bảo
hiểm và góp phần vào sự phát triển chung của Tổng công ty. Một lần nữa em
xin chân thành cảm ơn những người đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề
tàI này.
Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm, TS. Nguyễn Văn Định, NXB Thống
kê - 2004
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh Bảo hiểm, TS. Nguyễn Văn Định,
NXB Thống kê - 2004
3. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành (Insurance Principle and
Practice) – Học viện Hoàng gia Anh.
4. Các tạp chí thông tin thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm, VINARE.
5. Tạp chí bảo hiểm.
6. Tài liệu của phòng bảo hiểm Hàng hải – Công ty Bảo Minh Hà Nội.
7. Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà
Nội các năm 1998 – 2004.
8. Báo cáo năng lực của Bảo Minh (12/2004).
9. Website: www.baominh.com.vn
ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Vai trò của vận tải biển và sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
1.1. Vai trò của vận chuyển bằng đường biển.
1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển.
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển.
2.1. Các loại rủi ro
2.2. Các loại tổn thất
3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển.
3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
a. Đối tượng bảo hiểm
b. Phạm vi bảo hiểm
3.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm.
a. Giá trị bảo hiểm.
b. Số tiền bảo hiểm
c. Phí bảo hiể
3.3. Điều kiện bảo hiểm
a. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1
b. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1982.
3.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển.
a. Khái niệm và tính chất của hợp đồng bảo hiểm.
b. Các loại hợp đồng bảo hiểm
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG
HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
TẠICÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI
1. Vài nét về Tổng công ty Bảo Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội
2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội.
2.1. Công tác khai thác bảo hiểm.
a. Kiểm tra chứng từ và đánh giá rủi ro
b. Xem xét chấp nhận, từ chối bảo hiểm.
c. Cấp đơn bảo hiểm.
d. Thu phí và theo dõi sau khi cấp đơn bảo hiểm.
2.2. Công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển tại Tổng Công ty bảo hiểm Bảo Minh.
a. Nhận yêu cầu giám định:
b. Tiến hành thực hiện việc giám định.
c. Lập biên bản giám định.
d. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định.
2.3. Công tác giải quyết khiếu nại bồi thường.
a. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại:
b. Kiểm tra chứng từ:
c. Xác minh phí:
d. Giám định tổn thất:
e. Thanh toán bồi thường.
3. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội.
4. Những thuận lợi và khó khăn của Bảo Minh Hà Nội.
4.1. Những thuận lợi
4.2. Những khó khăn
5. Mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội.
CHƯƠNG III:
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO
HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG
BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI.
1. Kiến nghị:
1.1. Đối với Nhà nước
1.2. Đối với Bảo Minh Hà Nội .
a. Về mặt nghiệp vụ
b. Về mặt quản lý
2. Giải pháp:
2.1. Về công tác khách hàng
2.2. Mức phí bảo hiểm:
2.3. Về công tác phòng, hạn chế tổn thất.
2.4. Về công tác giám định.
2.5. Công tác bồi thường:
2.6. Về công tác cán bộ:
- Xem thêm -