PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp. Thời gian qua nông
nghiệp Việt Nam không ngừng phát triển, đặc biệt là sản xuất
lương thực đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp chế biến và xuất khẩu để thu ngoại tệ…
Phú Tân là một trong bốn huyện cù lao của tỉnh An Giang,
hàng năm sau khi nước rút để lại lượng phù sa dồi dào cho đất cùng
với hệ thống đường nước tốt nhất nhì của tỉnh, đã mang lại lợi thế
lớn cho Phú Tân trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt là lĩnh vực
trồng trọt, trong đó chủ yếu là trồng lúa nếp.
Hiện nay trên địa bàn huyện Phú Tân đa số người dân làm
nông nghiệp (trên 80%), trong đó diện tích trồng lúa nếp là 43.803
ha chiếm 75,56% tổng diện tích trồng trọt (năm 2007), sản lượng
thu được trên 205.000 tấn bằng 50% sản lượng nếp xuất khẩu của
Thái Lan.
Nghề trồng lúa nếp đã góp phần đáng kể vào sự phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương như tăng thu nhập và cải thiện đời sống
cho người nông dân; đóng góp vào ngân sách và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp của huyện Phú Tân, phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, của Đảng bộ tỉnh An Giang về
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
1
Bên cạnh những kết quả đạt được nghề trồng lúa nếp ở Phú
Tân vẫn còn một số hạn chế như vốn ít, kĩ thuật canh tác lạc hậu,
giống không đồng đều, giá cả và thị trường tiêu thụ không ổn
định… Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất,
chất lượng và hiệu quả của nghề trồng lúa nếp của địa phương.
Từ những nội dung đã nêu trên. Để góp phần tìm hiểu và
làm rõ hơn hiệu quả của nghề trồng lúa nếp trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong thời
kỳ mở cửa và hội nhập, bên cạnh khắc phục những khó khăn, tồn
tại, tôi đã chọn đề tài “Hiệu quả của nghề trồng lúa nếp trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hiệu quả của nghề trồng lúa nếp trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang từ năm 2001
đến nay.
3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
a. Đối tượng
- Nghiên cứu nghề trồng lúa nếp trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang dưới góc độ
kinh tế chính trị.
b. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu vai trò, sự cần thiết của sản xuất lương thực (lúa
nếp) trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Và chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về sản xuất lương thực.
2
- Đánh giá thực trạng và hiệu quả của nghề trồng lúa nếp.
Rút ra kết luận và đưa ra những kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả
của nghề trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nghề trồng lúa nếp và hiệu quả của nó trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang từ 2001 đến nay.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận được thông qua sẽ có ý nghĩa lí luận lẫn thực tiễn:
- Khẳng định tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp.
- Làm rõ hiệu quả của nghề trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang.
- Đưa ra một vài kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả
của nghề trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong thời
gian tới.
- Khóa luận có thể làm tư liệu tham khảo cho chính quyền địa
phương trong quá trình lãnh đạo để phát triển kinh tế nông nghiệp.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp logic kết hợp với lịch sử.
- Phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp, thống kê, mô
hình hóa…
7. Kết cấu khóa luận
3
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu
tham khảo, khóa luận có 2 chương:
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT LƯƠNG
THỰC VÀ NHỮNG CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1 Vai trò của sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
1.1.1.Vai trò của sản xuất lương thực trong đời sống kinh tế xã hội
* Tầm quan trọng của lương thực trong đời sống kinh tế - xã
hội
Xuất phát từ nhu cầu và thực tế cuộc sống của con người cho
ta thấy rằng lương thực có vị trí hàng đầu trong việc bảo đảm cho sự
tồn tại của con người từ xưa tới nay. An ninh lương thực là nền tảng
để phát triển đất nước ở mọi quốc gia.
Các Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn rồi
sau đó mới nói đến các hoạt động khác. Đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia cũng quan trọng như sự ổn định chính trị - xã hội của
đất nước.
* Vai trò của sản xuất lương thực trong đời sống kinh tế - xã
hội
4
Thứ nhất, sản xuất lương thực giúp tăng nguồn lương thực
phục vụ tốt cho lực lượng lao động, tái tạo lại sức lao động cho
con người để tiếp tục sản xuất các giá trị vật chất khác làm cho
đời sống con người ngày càng phong phú, đa dạng hơn.
Thứ hai, sản xuất lương thực giúp đáp ứng nhu cầu lương
thực trong nước và thế giới, bảo đảm an ninh lương thực trong mọi
tình huống, duy trì cuộc sống của con người.
Thứ ba, sản xuất lương thực còn góp phần tăng thu nhập, tạo
thêm việc làm cho phần lớn người dân ở nông thôn, thu hút nhiều lao
động ở nông thôn.
Việc sản xuất lương thực còn giúp bảo vệ tài nguyên đất, sử
dụng hiệu quả tài nguyên nước,…
1.1.2 Vai trò của sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp
Sự phát triển của sản xuất lương thực đã dẫn đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp phù hợp với tình hình phát
triển của các nước có nền kinh tế nông nghiệp phát triển. Sự chuyển
dịch này thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển, đặc biệt là công
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm.
1.2 Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về sản xuất lương thực
1.2.1 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và
biện pháp thực hiện để sản xuất lương thực đạt hiệu quả và bền vững
thông qua: các chủ trương chính sách phát triển nông, lâm, ngư
5
nghiệp năm 1998; Trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, IX, X.
1.2.2 Chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh An Giang
Chủ trương, chính sách của tỉnh được đưa ra trong kế
hoạch 5 năm, 2001 – 2005; 2005- 2010 nhằm khắc phục những
tồn tại và phát huy thế mạnh sản xuất lương thực của tỉnh trong
thời gian tới.
1.3 Sự cần thiết phát triển sản xuất lương thực (lúa nếp) ở
nước ta và ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
Vai trò của lúa nếp trong đời sống của con người. Thực
trạng tiêu dùng lúa của một số quốc gia hiện nay.
Thực trạng lúa nếp trên thế giới hiện nay.
Lúa nếp là một loại lương thực được dùng rất phổ biến và
cần thiết ở Việt Nam.
Những đóng góp của nghề trồng nếp ở huyện Phú Tân trong
nền kinh tế quốc dân và trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở địa phương.
CHƯƠNG II: HIỆU QUẢ CỦA NGHỀ TRỒNG LÚA
NẾP Ở HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001
ĐẾN NAY
2.1 Đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội tác động
đến nghề trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân
Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã
hội tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất lúa nếp ở huyện Phú Tân: đất
đai, khí hậu, sông ngòi.
6
Tình hình kinh tế - xã hội: cơ sở hạ tầng, lao động, dân trí,
dân tộc, tôn giáo, văn hóa.
2.2 Thực trạng của nghề trồng lúa nếp huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang
2.2.1 Thực trạng và kết quả đạt được
Khẳng định cây nếp là cây trồng truyền thống ở huyện Phú
Tân. Sản xuất lúa nếp huyện Phú Tân lúc đầu chỉ đủ tiêu dùng ở địa
phương. Năm 1999 huyện mới bắt đầu quy hoạch diện tích trồng nếp
năm đầu tiên. Kết quả mang lại rất cao. Đến năm 2004 huyện bắt đầu
mở rộng quy mô nhân diện tích sản xuất lên toàn huyện. Từ đó diện
tích không ngừng tăng cho đến nay.
Sản xuất lúa nếp trở thành nét nổi trội trong nền kinh tế nông
nghiệp của huyện. Mỗi năm diện tích và sản lượng lại tăng lên không
chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn cho xuất khẩu.
Những thuận lợi và những sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của
Đảng, các cấp chính quyền tỉnh An Giang và chính quyền ở địa
phương về công tác đầu tư và trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ
cho việc sản xuất lúa nếp của huyện nhà.
2.2.2 Những hạn chế, khó khăn
Những hạn chế và nguyên nhân cản trở sự phát triển của sản
xuất lúa nếp huyện Phú Tân: giá cả, thị trường tiêu thụ, thiết bị sản
xuất, trình độ của nông dân, kinh tế hợp tác, thương hiệu.
2.3 Hiệu quả của nghề trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang từ năm 2001 đến nay
2.3.1 Góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ
giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh
7
Chứng minh hiệu quả trồng lúa nếp của huyện Phú Tân
về năng suất, sản lượng và chất lượng, tình hình thị trường tiêu
thụ, giá cả lúa nếp Phú Tân từ năm 2001 đến nay.
2.3.2 Góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn.
Trong nông nghiệp huyện Phú Tân có sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế: trồng trọt giữ vị trí hàng đầu theo xu hướng đẩy
mạnh xuất khẩu mặt hàng thiết yếu là lúa nếp, phát huy thế
mạnh của địa phương phù hợp với xu thế chung của cả nước.
Sự phát triển nghề trồng lúa nếp thúc đẩy ngành công
nghiệp chế biến lương thực và các dịch vụ nông nghiệp phát
triển, củng cố và mở rộng các thị trường nông sản.
2.3.1.3 Góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, sức lao động.
Nghề trồng lúa nếp giúp nông dân sử dụng nguồn vốn
sinh lợi nhuận cao hơn so với trồng các loại cây trồng khác.
Nghề trồng lúa nếp cùng góp phần sử dụng hiệu quả
phần lớn nguồn lao động của địa phương thông qua việc sử
dụng thời gian lao động nhàn rỗi của người dân có diện tích
canh tác lúa nếp.
2.3.4 Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, giữ gìn truyền thống
văn hóa dân tộc
Hiệu quả của nghề trồng lúa nếp qua việc nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho nông dân: lợi nhuận cao, mức sống
của người dân được nâng lên, đầu tư xây dựng và củng cố cơ sở
hạ tầng được mở rộng.
8
Lúa nếp vừa là “món ăn vật chất, vừa là món ăn tinh
thần” thể hiện và phát huy truyền thống dân tộc.
3.2.2 Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên và môi trường
sinh thái
Nghề trồng lúa nếp giúp bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài
nguyên và môi trường sinh thái do đặc điểm của cây trồng là kháng
sâu bệnh tốt, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, áp dụng
chương trình “3 giảm, 3 tăng” được phổ biển rộng rãi do đó hạn chế
sự ô nhiếm môi trường vì lượng phân bón, thuốc trừ sâu bị giảm đi.
Nghề trồng lúa nếp đã tận dụng hiệu quả tài nguyên và môi
trường chủ yếu là môi trường đất và môi trường nước.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Khẳng định huyện Phú Tân tỉnh An Giang có nhiều tiềm
năng để phát triển nghề trồng lúa nếp: vị trí tự nhiên thuận lợi, có
nguồn lao động dồi dào, có nhiều thị trường tin cậy. Nông dân có
nhiều kinh nghiệm và có tâm huyết với nghề trồng lúa nếp, với sự
chỉ đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh An Giang, cơ chế chính sách
phù hợp, sự điều hành và quan tâm, chỉ đạo sâu sắc của chính
quyền địa phương.
Bên cạnh còn những hạn chế: Qui mô sản xuất, hiệu quả
sản xuất. Chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của Hợp tác
xã nông nghiệp. Thương hiệu hàng hóa chậm được triển khai theo
kế hoạch. Khoa học kĩ thuật, trang thiết bị cho quá trình sản xuất
còn yếu.
9
Trước tình hình này chính quyền địa phương đã không
ngừng đầu tư và phát triển để phát huy những tiềm năng vốn có và
khắc phục những hạn chế nên nghề trồng lúa nếp huyện Phú Tân
trong những năm qua đạt được những thành tựu đáng kể.
2. KIẾN NGHỊ
Khẳng định vai trò và sự cần thiết sản xuất lúa nếp ở Việt
Nam, ở huyện Phú Tân. Từ đó đóng góp một vài suy nghĩ của bản
thân nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất lúa nếp của huyện
nhà. Cụ thể:
Một là, quy hoạch, khoanh vùng tập trung sản xuất lúa nếp,
lúa tẻ theo từng địa bàn trong huyện. Hướng nông dân tham gia sản
xuất tập trung, phù hợp nhu cầu của thị trường.
Hai là, củng cố hoạt động cúa các Hợp tác xã nông nghiệp,
nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kĩ sư.
Ba là, phát triển công nghiệp chế biến. Đầu tư trang thiết bị,
máy móc hiện đại đáp ứng đầy đủ hơn cho quá trình sản xuất nhất là
cho khâu thu hoạch và khâu chế biến.
Ứng dụng khoa học công nghệ tiến bộ trong lai tạo giống để
có thể tạo ra được giống lúa tốt, độ thuần cao có thể chống lại các
loại sâu, bệnh.
Bốn là, tổ chức nhiều đợt tập huấn, báo cáo các mô hình sản
xuất đạt hiệu quả cao cho nông dân, hỗ trợ và khuyến khích nông
dân nâng cao trình độ ứng dựng khoa học kĩ thuật, nắm bắt thông tin
về nhu cầu và giá cả của thị trường. Có chính sách hỗ trợ giá cho mặt
hàng nông sản thiết yếu, hỗ trợ vốn cho nông dân để mua máy móc.
Đầu tư phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, nối mạng
Internet ở nông thôn, đưa thông tin về giá cả nông sản hàng ngày.
10
Năm là, đẩy mạnh hơn nữa các chương trình khuyến công,
khuyến nông, đầu tư phát triển ngành công nghiệp; mở thêm nhiều xí
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm.
Sáu là, phát triển các loại hình dịch vụ nông nghiệp, có chính
sách ổn định giá vật tư nông nghiệp. Bên cạnh khuyến khích nông
dân sản xuất nông – lâm kết hợp để đảm bảo tính bền vững cho nông
nghiệp. Bố trí cán bộ kĩ thuật theo dõi, chỉ dẫn nông dân áp dụng
giống mới, kĩ thuật mới. Phát triển nhiều tuyến đường giao thông,
xây dựng nhà kho, bến bãi cố định thuận lợi cho việc cất trữ, bảo
quản, vận chuyển.
Bảy là, chủ động tìm kiếm thêm nhiều thị trường tin cậy, chú
ý những thị trường thân thiết và thị trường trong nước. Tăng sự liên
kết giữa nông dân với doanh nghiệp, kiểm soát đội ngũ hàng xáo.
Tám là, xây dựng thương hiệu cho hàng hóa và sản phẩm.
Chín là, nêu cao và phổ biến phong trào thi đua yêu nước,
đặc biệt là phong trào “nông dân sản xuất – kinh doanh giỏi”.
Qua đề tài “Hiệu quả của nghề trồng lúa nếp trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang” em xin đóng góp một số giải pháp mang tính chất kiến
nghị, tham khảo với mong muốn góp phần vào việc nâng cao hiệu
quả sản xuất lúa nếp của huyện nhà.
Tuy nhiên do thời gian, trình độ và năng lực nghiên cứu
còn hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, khuyết
điểm. Em rất mong thầy, cô và các cán bộ của huyện Phú Tân đóng
góp, bổ sung ý kiến để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Trân trọng kính chào!
11
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời, được thiên
nhiên ưu đãi và có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, thực phẩm. Sản lượng lương thực xuất
khẩu của Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). Sự phát triển
không ngừng của nông nghiệp thời gian qua đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho
các ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu để thu ngoại tệ…
Phú Tân là một trong bốn huyện cù lao của tỉnh An Giang, hàng năm
sau khi nước rút để lại lượng phù sa dồi dào cho đất cùng với hệ thống đường
nước tốt nhất nhì của tỉnh, đã mang lại lợi thế lớn cho Phú Tân trong sản xuất
nông nghiệp. Đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt, trong đó chủ yếu là trồng lúa nếp.
Hiện nay trên địa bàn huyện Phú Tân đa số người dân làm nông
nghiệp (trên 80%), trong đó diện tích trồng lúa nếp là 43.803 ha chiếm
75,56% tổng diện tích trồng trọt (năm 2007), sản lượng thu được trên
205.000 tấn bằng 50% sản lượng nếp xuất khẩu của Thái Lan.
Nghề trồng lúa nếp đã góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương như tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người nông dân;
đóng góp vào ngân sách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện
Phú Tân, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của
Đảng bộ tỉnh An Giang về phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nghề trồng lúa nếp ở Phú
Tân vẫn còn một số hạn chế như vốn ít, kĩ thuật canh tác lạc hậu, giống không
đồng đều, giá cả và thị trường tiêu thụ không ổn định… Những hạn chế trên
đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của nghề
trồng lúa nếp của địa phương.
Để góp phần tìm hiểu và làm rõ hơn hiệu quả của nghề trồng lúa nếp
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
trong thời kỳ mở cửa và hội nhập, tôi đã chọn đề tài “Hiệu quả của nghề
trồng lúa nếp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện
Phú Tân, tỉnh An Giang” làm khóa luận tốt nghiệp.
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 1
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ hiệu quả của nghề trồng lúa nếp trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
a. Đối tượng
- Nghiên cứu nghề trồng lúa nếp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang dưới góc độ kinh tế chính trị.
b. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu vai trò, sự cần thiết của sản xuất lương thực (lúa nếp) trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Và chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về sản xuất lương thực.
- Đánh giá thực trạng và hiệu quả của nghề trồng lúa nếp. Rút ra kết
luận và đưa ra những kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả của nghề trồng lúa
nếp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nghề trồng lúa nếp và hiệu quả của nó trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang từ 2001 đến nay.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận được thông qua sẽ có ý nghĩa lí luận lẫn thực tiễn:
- Khẳng định tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
- Làm rõ hiệu quả của nghề trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang.
- Đưa ra một vài kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của nghề
trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong thời gian tới.
- Khóa luận có thể làm tư liệu tham khảo cho chính quyền địa phương
trong quá trình lãnh đạo để phát triển kinh tế nông nghiệp.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
logic kết hợp với lịch sử.
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 2
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
- Phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp, thống kê, mô hình hóa…
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận có 2 chương:
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT LƯƠNG THỰC VÀ
NHỮNG CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
TA TRONG CHUYẾN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1 Vai trò của sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp
1.1.1 Vai trò của sản xuất lương thực trong đời sống kinh tế - xã hội
1.1.2 Vai trò của sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp
1.2 Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về sản xuất
lương thực
1.2.1 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
1.2.2 Chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh An Giang
1.3 Sự cần thiết phát triển sản xuất lương thực (lúa nếp) ở nước ta và ở
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
CHƯƠNG 2: HIỆU QUẢ CỦA NGHỀ TRỒNG LÚA NẾP Ở
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
2.1 Đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến nghề
trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.2 Thực trạng của nghề trồng lúa nếp huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
2.2.1 Thực trạng và kết quả đạt được
2.2.2 Những hạn chế, khó khăn
2.3 Hiệu quả của nghề trồng lúa nếp ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
từ năm 2001 đến nay
2.3.1 Góp phần tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và
nâng cao sức cạnh tranh
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 3
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
2.3.2 Góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
2.3.3 Góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, sức lao động
2.3.4 Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người dân, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc
2.3.5 Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên và môi trường sinh thái
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 4
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT LƯƠNG THỰC VÀ NHỮNG
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1 Vai trò của sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp
1.1.1 Vai trò của sản xuất lương thực trong đời sống kinh tế - xã hội
* Tầm quan trọng của lương thực trong đời sống kinh tế - xã hội:
Nhu cầu ăn là nhu cầu cơ bản, hàng đầu của con người. Xã hội có thể
thiếu nhiều loại sản phẩm nhưng không thể thiếu lương thực cho xã hội. Sản
phẩm quan trọng hàng đầu mà con người làm ra để nuôi sống mình cũng chính
là lương thực. Do đó, việc thỏa mãn nhu cầu về lương thực trở thành một trong
những điều kiện khá quan trọng để ổn định xã hội, ổn định kinh tế. Các Mác đã
khẳng định, con người trước hết phải có ăn (mặc, ở,…) rồi sau đó mới nói đến
các hoạt động khác. Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng quan trọng
như sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Con người từ lúc sinh ra và trưởng thành về thể chất lẫn tinh thần nhờ
phần lớn vào thức ăn bằng lương thực và thực phẩm. Trong đó cây lương thực
là nguồn cung cấp chủ yếu tinh bột cho người và gia súc. Người nguyên thủy
sinh sống lúc đầu bằng nghề săn bắt và hái lượm, trải qua một thời gian dài
con người mới biết trồng trọt và chăn nuôi những con vật săn được, khi họ
nhận ra được nguồn thức ăn họ tìm được trong tự nhiên ngày càng khan hiếm
đi. Từ khi con người biết trồng trọt và chăn nuôi, cuộc sống con người được
cải thiện do nguồn thức ăn dự trữ ngày càng nhiều.
Lúa là một trong những cây lương thực được xem là cây trồng cổ xưa
nhất. Sự tiến hóa của cây lúa gắn liền với lịch sử tiến hóa của loài người, đặc
biệt là ở Châu Á. Ở Trung Quốc, cây lúa được trồng khoảng 2800 – 2700 năm
trước Công nguyên. Các tài liệu khảo cổ học ở Ấn Độ cho thấy: các hạt thóc
hóa thạch tìm được có tuổi từ 1000 – 750 năm trước Công nguyên. Ở Thái Lan,
cây lúa được trồng vào 4000 năm trước Công nguyên. Còn ở nước ta, cây lúa
được trồng phổ biến và nghề trồng lúa đã khá phồn thịnh ở thời kì đồ đồng
(4000 – 3000 năm trước Công nguyên). [14;16]
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 5
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
Hiện nay, 1/2 diện tích đất canh tác trên thế giới được dành để trồng
các loại cây lương thực. Ở các nước đang phát triển, sản lượng lương thực
dành cho người chiếm đến 3/4. [12;237]
Trong mọi thời đại, lương thực bao giờ cũng là sản phẩm thiết yếu, là
nhu cầu cơ bản của con người, được chú trọng hàng đầu. Ở Mỹ, đã từng coi
lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng là “nông phẩm chính trị” rất lợi
hại của mình. Ở Việt Nam và một số nước khác ở Châu Á như Trung Quốc,
Thái Lan, Ấn Độ, Inđônêsia, Nhật Bản…lương thực cũng giữ vị trí quan
trọng trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Điển hình ở Nhật vào
cuối thế kỷ XIX, thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa, nông nghiệp trồng lúa
giữ địa vị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo được cơ sở kinh tế xã hội ổn định, cung cấp nguồn vốn và nhân lực quan trọng cho công nghiệp
hóa; và thực tế cho thấy ở Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trước hết cũng bắt đầu từ nông nghiệp.
Hiện nay khi tình hình thế giới đang có nhiều biến động: thiên tai liên
tiếp xảy ra ở nhiều nơi, chiến tranh và khủng bố gia tăng, cùng với dân số
ngày càng tăng lên đã làm cho khoảng 2 tỷ người trên thế giới đang bị đe dọa
trước nạn đói thì an ninh lương thực đang là vấn đề cấp thiết và cần được giải
quyết trước hết. Thế giới đang đứng trước nguy cơ thiếu lương thực, đời sống
nhân dân nhân ở nhiều nước đang gặp khó khăn. Theo đánh giá của Ngân
hàng thế giới (WB), trong ba năm qua (2005-2008), do giá lương thực và thực
phẩm tăng cao, tỷ lệ người nghèo đói trên thế giới đã tăng từ 3 đến 5% nhất là
các nước ở Châu Phi như Congo, Sudan, Kenya, Zambia, Zimbabwe, Malawi,
,… Tuổi thọ trung bình của người dân ở đây giảm đáng kể vì bệnh tật. Tuổi
thọ trung bình của những người sinh vào những năm 70 là 50 tuổi nhưng đến
thời điểm này con số đó chỉ còn là khoảng 32. Tình trạng trẻ em suy dinh
dưỡng phải đưa vào các cơ sở điều trị đang gia tăng.
Năm 2007, giá lương thực toàn cầu đã tăng gần 40%, khiến đời sống
người nghèo ngày càng khó khăn. Sản lượng ngũ cốc của châu Âu, Mỹ và đặc
biệt là Australia bị giảm mạnh do thiên tai. Các bệnh dịch như cúm gia cầm,
heo tai xanh, dịch bệnh lở mồm long móng ở trâu bò tại nhiều nước Châu Á đã
tác động mạnh đến ngành chăn nuôi.
Trong tháng 3/2008, tại các nước: Ai-cập, Ca-mơ-run, Bờ Biển Ngà,
Xê-nê-gan, Buốc-ki-na Pha-xô, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin và Ha-i-ti đã xảy ra
những vụ bạo động vì thiếu lương thực, giá lương thực tăng cao. Tại Ai-cập đã
nổ ra nhiều cuộc bãi công và biểu tình do bất bình với giá lương thực ngày
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 6
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
càng leo thang. Tại Y-ê-men, trẻ em cũng xuống đường biểu tình đòi Chính
phủ giải quyết nạn đói,…
Do vậy, có thể nói rằng lương thực gắn liền với cuộc sống của con
người, quy định sự sống còn của con người, là chiến lược hàng đầu của các
quốc gia. Không một dân tộc, một quốc gia nào có thể tồn tại được nếu
thiếu lương thực.
* Vai trò của sản xuất lương thực trong đời sống kinh tế - xã hội:
Sản xuất lương thực thuộc loại sản xuất vật chất quan trọng nhất của
nông nghiệp. Nó là một bộ phận của nông nghiệp – thuộc lĩnh vực trồng trọt
(nông nghiệp gồm: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản). Do đó, hoạt
động sản xuất lương thực không chỉ gắn liền với các yếu tố kinh tế, xã hội mà
còn gắn với yếu tố tự nhiên.
Thứ nhất, sản xuất lương thực giúp tăng nguồn lương thực phục vụ tốt
cho lực lượng lao động, tái tạo lại sức lao động cho con người để tiếp tục sản
xuất các giá trị vật chất khác làm cho đời sống con người ngày càng phong
phú, đa dạng hơn. Thức ăn chính của con người là lúa gạo, nguồn cung cấp
chính về năng lượng và chất bột cacbohydrat trong khẩu phần thức ăn
mà mỗi người cần có cho cơ thể hoạt động hàng ngày, chiếm tới 45-65% tổng
lượng calorie hàng ngày.
Thứ hai, Cung ứng thêm một phần nguyên liệu quan trọng cho các
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống như bánh, kẹo, mứt, cốm,
rượu, bia,…
Đối với các quốc gia phát triển có tiềm năng lương thực sẵn có sẽ giảm
được một lượng chi phí khá lớn cho việc nhập khẩu lương thực từ nước ngoài
như: Úc, Cannada, Đan Mạch, Thụy Điển, Tân Tây Lan, Mỹ, Thái Lan.
Còn đối với các quốc gia đang phát triển hiện nay, đặc biệt là ở Việt
Nam, với tiềm năng sản xuất lương thực to lớn là thế mạnh để tăng trưởng
và phát triển kinh tế trong nước và xuất khẩu thu ngoại tệ cao, tăng thêm
nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ở Việt Nam, sản xuất lương thực có thể gọi là kỳ tích. Từ một nước thiếu
lương thực triền miên và phải nhập khẩu, trong thời kỳ đổi mới Việt Nam đã
vươn lên không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn có sản lượng
lương thực xuất khẩu ngày càng tăng, và là nước đang giữ vị trí thứ hai về xuất
khẩu gạo trên thế giới. Sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu
tấn; từ 34,3 triệu tấn năm 2001, bình quân đầu người đạt 435,5 kg, đã tăng lên
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 7
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
đến 39,9 triệu tấn năm 2005, bình quân đầu người đạt 480 kg. Năm 2005 Việt
Nam đã xuất khẩu được 5,2 triệu tấn gạo, chiếm 30% sản lượng. [15;10]
Tuy nhiên, những năm gần đây, ở một số nước phát triển và
đang phát triển thì công nghiệp lại chiếm ưu thế hơn. Vai trò của nông
nghiệp bị xem nhẹ làm giảm đi sản lượng lương thực cung ứng trong nước
và trên thế giới. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng lương thực để chế biến thành
nhiều loại nhiên liệu để thay xăng và dầu diesel trong ngành vận tải như diesel
sinh học (chế biến từ dầu thực vật thay thế dầu diesel trong các loại xe hơi),
ethanol (loại nhiên liệu sinh học được dùng phổ biến nhất hiện nay, làm từ
đường, mía hay củ cải đường, tinh bột ngũ cốc và bắp), butanol và propanol…
đều được chế tạo ra từ lương thực, thực phẩm đã dẫn đến nhiều tình trạng
bất ổn ở nhiều nước hiện nay như khan hiếm lương thực, giá tăng, lạm
phát. Ảnh hưởng tình hình an ninh lương thực chung của thế giới. Đến
đầu năm 2008, tình hình mất an ninh lương thực trên thế giới đang là vấn
đề báo động. Nhiều quốc gia đang nhập khẩu liên tục lương thực làm cho
giá tăng vọt gây khó khăn cho đời sống nhân dân. Nhiều quốc gia ở các
Châu lục đang trong tình trạng khủng hoảng lương thực nhất là ở Châu
Phi như Burundi, Trung Phi, Bờ biển Ngà, Eritrea, Ethiopia, …Ở Châu Á:
Afghanistan, Bangladesh, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên,
Indonesia,...Ở Châu Mỹ La Tinh: Bolivia, Haiti, Nicaragua, Cộng hòa
Dominican. Ở Châu Âu: Moldavia, Chechnya (Liên bang Nga).
Cho nên, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, công nghiệp hóa đất nước
phải chú trọng phát triển cả công nghiệp và nông nghiệp trong đó chú ý đến
phát triển nông nghiệp đặc biệt là sản xuất lương thực.
Thứ ba, sản xuất lương thực giúp đáp ứng nhu cầu lương thực trong
nước và thế giới, bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống, duy trì
cuộc sống của con người.
Sản xuất lương thực trước hết là để cung cấp đủ cái ăn cho xã hội, đảm
bảo cho sự phát triển về thể chất của con người, là nguồn cung cấp chủ yếu
lượng tinh bột cho cơ thể hàng ngày. Nhưng việc sản xuất lương thực còn liên
quan đến vấn đề kinh tế - xã hội thậm chí đến tình hình chính trị của các quốc
gia. Thực tế vào những năm 1960 và 1970 các quốc gia như Ấn Độ, Philippin,
Inđônêxia…cho thấy rõ, mỗi khi xảy ra thiên tai, nạn đói nghiêm trọng thường
dễ dẫn tới nạn trộm cắp, cướp bóc, xã hội mất ổn định ảnh hưởng đến an ninh
quốc phòng làm cho dân chúng hoang mang. Do đó, vấn đề an ninh lương
thực phải được đảm bảo cho mọi quốc gia. Trong Hội nghị thượng đỉnh thế
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 8
Niên khóa: 2004 - 2008
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm
Chuyên ngành giáo dục chính trị
giới về lương thực năm 1996 tại Rome cũng đã đánh giá tóm tắt về tình hình
an ninh lương thực trên thế giới một cách khách quan: “Đói và mất an ninh
lương thực là vấn đề mang tính toàn cầu và ngày càng có xu hướng trầm trọng
thêm ở một số khu vực, đòi hỏi phải có ngay hành động khẩn cấp vì theo dự
báo, dân số thế giới sẽ ngày càng tăng và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày
càng cạn kiệt”. [13;100]
Thứ tư, sản xuất lương thực còn góp phần tăng thu nhập, tạo thêm
việc làm cho phần lớn người dân ở nông thôn, thu hút nhiều lao động ở nông
thôn. Ở nhiều nước, cơ cấu dân số tập trung trong khu vực I (nông nghiệp)
nhiều hơn trong các khu vực II, III (công nghiệp và dịch vụ) như Inđônêxia,
Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ. [12;116,117]
Ở Việt Nam, dân số chủ yếu tập trung trong khu vực I, đặc biệt là ở
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2006, dân số Việt
Nam ước 86 triệu người. Dân cư nông thôn chiếm khoảng 70% dân số cả
nước. Sản xuất lương thực có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tuy hiện nay tỷ trọng nông nghiệp có giảm do sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo xu hướng phát triển chung nhưng vẫn còn giữ vị trí trung
tâm trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, việc sản xuất lương thực còn giúp bảo vệ tài nguyên đất
không bị rửa trôi, bạc màu, hoang hóa, tăng độ tơi xốp và giữ nước; sử dụng
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, nước,…).
Do vậy, việc sản xuất lương thực sẽ đáp ứng nhu cầu chủ yếu về đời
sống cho toàn thể nhân dân. Nên nó cần được quan tâm hàng đầu và đầu tư
đúng mức.
1.1.2 Vai trò của sản xuất lương thực trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
Sự phát triển mạnh của sản xuất lương thực làm cho ngành trồng trọt
luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Và sự phát
triển này cũng kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Sản
xuất lương thực không ngừng tăng lên đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con
người dẫn đến sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến lương thực
cùng với các dịch vụ phục vụ sản xuất lương thực ngày càng đa dạng hơn.
Hiện nay các nước có nền nông nghiệp phát triển đang trong xu hướng đẩy
mạnh xuất khẩu lương thực, kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp.
Sv: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Trang 9
Niên khóa: 2004 - 2008
- Xem thêm -