TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGÔ THÀNH TRÍ
NGHIÊN CỨU SỰ SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG
SỬ DỤNG MỘT SỐ LOÀI RONG BIỂN
NUÔI BÀO NGƯ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2010
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGÔ THÀNH TRÍ
NGHIÊN CỨU SỰ SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG
SỬ DỤNG MỘT SỐ LOÀI RONG BIỂN
NUÔI BÀO NGƯ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ts. NGÔ THỊ THU THẢO
2010
2
LỜI CẢM TẠ
Tôi chân thành cảm ơn quý thầy cô đã giảng dạy những kiến thức bổ ích cho
chúng tôi trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Cần Thơ. Cảm ơn
quý thầy cô Khoa Thủy sản đã truyền thụ những kiến thức chuyên ngành,
những kinh nghiệm thực tế cho chúng tôi và giúp chúng tôi hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập, nghiên cứu của mình.
Xin tỏ lòng biết ơn đến cô Ts.Ngô Thị Thu Thảo – Người hướng dẫn tôi hoàn
thành Luận văn tốt nghiệp Đại học này, cảm ơn cô đã theo sát suốt quá trình
làm đề tài cũng như hướng dẫn tận tình trong quá trình viết bài và sửa bài.
Cảm ơn các bạn trong Trại thực nghiệm Động vật thân mềm đã giúp đở tôi
trong suốt quá trình làm thí nghiệm.
Cuối cùng tôi chân thành cảm ơn các bạn lớp Nuôi trồng Thủy sản K32 đã
cùng tôi đoàn kết, gắn bó, vượt qua những khó khăn trong suốt quá trình dài 4
năm học tập, rèn luyện tại trường Đại học Cần Thơ. Đặc biệt cảm ơn những
bạn đã phụ giúp tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài tốt
nghiệp và viết báo cáo…
Chân thành cảm ơn!!!
3
TÓM TẮT
Thí nghiệm “Nghiên cứu sự sinh trưởng và khả năng sử dụng một số loài
rong biển nuôi bào ngư” được thực hiện tại Khoa Thủy sản – Đại học Cần
Thơ từ tháng 05-08/2009. Hai thí nghiệm được thực hiện: Thí nghiệm 1 về
sinh trưởng và thành phần sinh hóa của 3 loài rong biển tương ứng với 3
nghiệm thức: rong xà lách Ulva sp., rong chỉ vàng Gracilaria tenuistipitata,
rong câu thắt Gracilaria blodgettii, mỗi nghiệm thức có 15 lần lặp lại và được
thực hiện trong 90 ngày. Độ mặn nuôi rong là 25‰, thể tích bể là 0,5m3. Kết
quả cho thấy tốc độ tăng trưởng của rong xà lách là cao nhất (1,46%/ngày),
đến rong chỉ vàng (1,30%/ngày) và thấp nhất là rong câu thắt (0,56%/ngày).
Tốc độ tăng trưởng của 3 loài rong thí nghiệm là khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Về thành phần sinh hóa, lipid có sự biến động nhiều giữa trước và
sau thí nghiệm, protein của rong xà lách có sự biến động nhiều giữa trước,
trong và sau thí nghiệm, trong khí đó rong chỉ vàng và rong câu thắt ít có sự
biến động hơn. Thí nghiệm 2 nghiên cứu về khả năng tiêu thụ rong của bào
ngư với 3 loài rong ở thí nghiệm 1 tương ướng với 3 nghiệm thức: NT1 ăn
rong xà lách, NT2 ăn rong chỉ vàng và NT3 ăn rong câu thắt, thời gian thí
nghiệm là 3 tháng. Kết quả cho thấy bào ngư ăn nhiều nhất là rong câu thắt
(1,17% trọng lượng thân/ngày), kế đến là rong chỉ vàng (1,05% trọng lượng
thân/ngày) và thấp nhất là rong xà lách (0,91% trọng lượng thân/ngày). Giữa
NT1 với NT2 và NT2 với NT3 không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) nhưng NT1 có khác biệt có ý nghĩa thống kê với NT3 (p<0,05). Về
tỷ lệ sống của bào ngư thì NT2 có tỷ lệ bào ngư sống cao nhất (98%), kế đến
là NT3 (84%) và thấp nhất NT1 (70%).
4
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm tạ ---------------------------------------------------------------------------------- i
Tóm tắt ------------------------------------------------------------------------------------- ii
Mục lục ------------------------------------------------------------------------------------ iii
Danh sách bảng --------------------------------------------------------------------------- v
Danh sách hình --------------------------------------------------------------------------- vi
Phần 1: ĐẶC VẤN ĐỀ ------------------------------------------------------------------- 1
1.1 Giới thiệu ---------------------------------------------------------------------------- 1
1.2 Mục tiêu đề tài ---------------------------------------------------------------------- 2
1.3 Nội dung đề tài---------------------------------------------------------------------- 2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ------------------------------------------------------ 3
2.1 Rong biển ---------------------------------------------------------------------------- 3
2.1.1 Đặc điểm chung --------------------------------------------------------------- 3
2.1.2 Đặc điểm của rong câu thắt Gracilaria blodgettii ------------------------- 4
2.1.2.1 Phân loại ------------------------------------------------------------------- 4
2.1.2.2 Đặc điểm sinh học -------------------------------------------------------- 4
2.1.3 Đặc điểm của rong câu chỉ vàng Gracilaria tenuistipitata --------------- 4
2.1.3.1 Phân loại ------------------------------------------------------------------- 4
2.1.3.2 Đặc điểm sinh học -------------------------------------------------------- 4
2.1.4 Đặc điểm của rong xà lách Ulva sp. ---------------------------------------- 5
2.1.4.1 Phân loại ------------------------------------------------------------------- 5
2.1.4.2 Đặc điểm sinh học ------------------------------------------------------- 5
2.1.5 Một số nghiên cứu về rong biển --------------------------------------------- 6
2.2 Bào ngư vành tai (Haliotis asinine) --------------------------------------------- 7
2.2.1 Đặc điểm phân loại bào ngư vành tai (Haliotis asinina) ----------------- 7
2.2.2 Đặc điểm sinh học của bào ngư vành tai (Haliotis asinina) ------------- 8
2.2.2.1 Phân bố --------------------------------------------------------------------- 8
2.2.2.2 Phương thức sống --------------------------------------------------------- 8
2.2.2.3 Thức ăn --------------------------------------------------------------------- 8
2.2.2.4 Sinh trưởng ---------------------------------------------------------------- 9
2.2.3 Một số nghiên cứu về bào ngư ---------------------------------------------- 9
Phần 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU -----------------------11
3.1 Thời gian và địa điểm ------------------------------------------------------------11
3.2 Vật liệu nghiên cứu ---------------------------------------------------------------11
3.2.1 Vật liệu nuôi rong (Thí nghiệm 1) -----------------------------------------11
3.2.2 Vật liệu nuôi bào ngư (Thí nghiệm 2) -------------------------------------11
3.2.3 Vật liệu theo dõi môi trường ------------------------------------------------11
3.2.4 Vật liệu khác ------------------------------------------------------------------12
5
3.3 Phương pháp nghiên cứu --------------------------------------------------------12
3.3.1 Thí nghiệm 1: Nuôi rong ----------------------------------------------------12
3.3.1.1 Phương pháp chuẩn bị dụng cụ ----------------------------------------12
3.3.1.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm -----------------------------------------12
3.3.1.3 Phương pháp quản lý, chăm sóc ---------------------------------------13
3.3.1.4 Phương pháp thu số liệu ------------------------------------------------13
3.3.2 Thí nghiệm 2: Nuôi bào ngư vành tai -------------------------------------14
3.3.2.1 Phương pháp chuẩn bị dụng cụ ----------------------------------------14
3.3.2.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm -----------------------------------------14
3.3.2.3 Phương pháp quản lý, chăm sóc ---------------------------------------15
3.3.2.4 Phương pháp thu số liệu ------------------------------------------------15
3.4 Phương pháp thu số liệu môi trường ----------------------------------------------15
3.5 Phương pháp xử lý số liệu ----------------------------------------------------------16
Phần 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN -----------------------------------------------------17
4.1 Thí nghiệm 1: Nuôi rong ---------------------------------------------------------17
4.1.1 Các yếu tố môi trường--------------------------------------------------------17
4.1.1.1 Nhiệt độ -------------------------------------------------------------------17
4.1.1.2 pH và độ kiềm KH môi trường nước ----------------------------------18
4.1.1.3 NH4+ và NO3---------------------------------------------------------------19
4.1.2 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của rong ------------------------------------19
4.1.3 Tốc độ tăng trưởng tương đối của rong -----------------------------------21
4.1.4 Thành phần sinh hóa của 3 loài rong --------------------------------------21
4.2 Thí nghiệm 2: Nuôi bào ngư -----------------------------------------------------22
4.2.1 Các yếu tố môi trường -------------------------------------------------------22
4.2.1.1 Nhiệt độ -------------------------------------------------------------------22
4.2.1.2 pH và độ kiềm KH môi trường nước ----------------------------------23
4.2.1.3 NH4+, NO2- và NO3- ------------------------------------------------------24
4.2.2 Khả năng tiêu thụ 3 loài rong của bào ngư -------------------------------24
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT --------------------------------------------------27
5.1 Kết luận ----------------------------------------------------------------------------27
5.2 Đề xuất -----------------------------------------------------------------------------27
TÀI LIỆU THAM KHẢO --------------------------------------------------------------28
PHỤ LỤC ---------------------------------------------------------------------------------30
6
DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Phân nhóm bào ngư theo trọng lượng ------------------------------------15
Bảng 3.2: Thu các số liệu môi trường của 2 thí nghiệm ----------------------------15
Bảng 4.1: Trung bình pH và độ kiềm KH môi trường bể nuôi rong --------------18
Bảng 4.2: Hàm lượng NH4+ và NO3- của các bể nuôi rong -------------------------19
Bảng 4.3: Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của rong -----------------------------------20
Bảng 4.4: Tốc độ tăng trưởng tương đối của rong ----------------------------------21
Bảng 4.5: Thành phần sinh hóa của rong biển ---------------------------------------22
Bảng 4.6: Trung bình pH và độ kiềm KH bể nuôi bào ngư ------------------------23
Bảng 4.7: Trung bình NH4+, NO2- và NO3- bể nuôi bào ngư ----------------------24
Bảng 4.8: Khả năng tiêu thụ rong của bào ngư --------------------------------------25
7
DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1: Rong câu thắt ------------------------------------------------------------------ 4
Hình 2.2: Rong chỉ vàng ----------------------------------------------------------------- 4
Hình 2.3: Rong xà lách ------------------------------------------------------------------ 5
Hình 2.4: Bào ngư vành tai -------------------------------------------------------------- 7
Hình 3.1: Bể thí nghiệm nuôi rong-----------------------------------------------------12
Hình 3.2: Bể nuôi bào ngư -------------------------------------------------------------14
Hình 4.1 Biến động nhiệt độ bể nuôi rong theo thời gian --------------------------17
Hình 4.2 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của các loài rong theo thời gian----------20
Hình 4.3: Biến động nhiệt độ bể nuôi bào ngư theo thời gian ---------------------23
8
Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Rong biển hay còn gọi là tảo biển (marine algae, seaweed) là loài tảo có cấu
tạo đơn bào hay đa bào, phân bố ở vùng cửa sông, vùng nước lợ, vùng triều
hay biển sâu. Nhiều loại rong có giá trị dinh dưỡng cao, chúng chứa nhiều
khoáng vi lượng, vitamin, protein… Đặc biệt, trong protein có nhiều acid amin
thiết yếu (Trần Ngọc Hải, 2000 và Báo phụ nữ truy cập ngày 06/12/2009).
Theo Trần Ngọc Hải (2000) thì rong biển từ lâu chỉ được khai thác tự nhiên
như một nghề truyền thống của người dân vùng biển, tuy nhiên nguồn lợi này
ngày càng suy giảm do nhu cầu về rong biển và sản phẩm rong biển tăng trung
bình 10% mỗi năm. Những năm gần đây nghề trồng rong biển mới phát triển
do có những tiến bộ trong kỹ thuật trồng. Có 3 nhóm rong biển lớn là rong đỏ,
rong nâu và rong lục là có giá trị. Nước ta khai thác và trồng chủ yếu là rong
câu để làm nguyên liệu chế biến agar.
Rong biển chủ yếu được trồng để làm thức ăn cho người, dùng trong y học,
thức ăn gia súc và trong công nghiệp. Trong nuôi trồng thủy sản rong biển
được dùng để cải thiện môi trường nước và làm thức ăn cho bào ngư (Lê Đức
Minh, 2000). Do đó phải cần thiết tìm hiểu về đặc điểm sinh trưởng và giá trị
dinh dưỡng của một số loại rong dùng làm thức ăn nuôi bào ngư để có thể vừa
chủ động được nguồn thức ăn, vừa tăng hiệu quả kinh tế.
Bào ngư là động vật thân mềm biển có giá trị kinh tế lớn. Thịt bào ngư mềm,
mùi vị thơm ngon, có hàm lượng protein cao, có tới 19 loại acid amin thiết yếu
cần cho cơ thể. Theo đông y Trung Quốc, bào ngư có khả năng bổ âm, tăng
khí, hạ nhiệt, giúp sáng mắt, trị ho, khó tiêu. Trong bào ngư còn có các chất
diệt khuẩn Paolin I và Paolin II, chất kháng khuẩn (Nguyễn Văn Thông,
2007). Vỏ bào ngư dùng để chữa trị bệnh mắt mờ và gan, vỏ còn được sử dụng
làm đồ trang sức, đồ kỹ nghệ và làm nguyên liệu nuôi cấy ngọc trai (Lê Đức
Minh, 2000).
Với giá trị kinh tế lớn của bào ngư nên việc khai thác quá mức đã làm nguồn
bào ngư tự nhiên ở nước ta và trên thế giới suy giảm nghiêm trọng. Hiện nay
nghề nuôi bào ngư cũng đã phát triển cùng với việc đã sản xuất giống bào ngư
nhân tạo thành công (Lê Đức Minh, 2000). Bào ngư ăn thực vật và ăn các loài
rong biển do đó phụ thuộc nhiều vào thức ăn trong tự nhiên. Do ăn nhiều loài
rong biển khác nhau nên việc tìm hiểu loài rong biển nào bào ngư tiêu thụ tốt
cũng được đặt ra.
9
Với những vấn đề trên thì đề tài nghiên cứu “Tìm hiểu đặc điểm sinh trưởng
và giá trị dinh dưỡng của một số loài rong biển” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu của đề tài
– Xác định mức tăng trưởng và giá trị dinh dưỡng của các loại rong khác
nhau trong môi trường nuôi nhân tạo từ đó góp phần vào việc chủ động nuôi
rong làm thức ăn cho bào ngư nói riêng và nghề trồng rong biển nói chung.
– Xác định được loại rong bào ngư tiêu thụ tốt nhất để có những khuyến cáo
trong việc nuôi bào ngư thương phẩm.
1.3 Nội dung đề tài
– Thí nghiệm 1: Tìm hiểu sinh trưởng và giá trị dinh dưỡng của 3 loài rong:
rong câu thắt Gracilaria blodgettii, rong chỉ vàng Gracilaria tenuistipitata và
rong xà lách Ulva sp..
– Thí nghiệm 2: Tìm hiểu khả năng tiêu thụ của bào ngư vành tai (Haliotis
asinina) đối với 3 loài rong khác nhau ở thí nghiệm 1.
10
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Rong biển
2.1.1 Đặc điểm chung
Rong biển là những loài thực vật sống trong môi trường nước lợ mặn. Rong
biển có thể sống cố định hoặc phù du và thường phân bố ở nhiều tầng nước
khác nhau. Nền đáy có thể cứng (như san hô, đá tảng, đá cuội…) hoặc đáy
mềm (như bùn, bùn cát, cát bùn, cơ thể thực vật khác…). Rong chỉ hấp thu
dinh dưỡng từ môi trường nước chứ không phải từ nền đáy bám. Tùy vào điều
kiện ở địa bàn bám mà rong có sự hình thành cơ quan bám khác nhau. Nhiệt
độ ảnh hưởng đến sinh trưởng, sinh lý và sinh sản của rong biển, nhiệt độ quá
thấp (<10oC) hoặc quá cao (>35oC) sẽ làm giảm quang hợp, nhiệt độ cao (2840oC) rong bị tàn lụi (Trần Ngọc Hải, 2000). Ánh sáng, độ mặn, muối dinh
dưỡng, khí hòa tan, pH, thủy triều, sóng gió đều ảnh hưởng đến sự phát triển
của rong.
Căn cứ vào hình dạng, cấu tạo, thành phần sắc tố và đặc điểm sinh sản của
rong biển mà người ta chia rong biển làm các ngành khác nhau. Có loại chưa
có hạch tế bào chính thức (tảo lam) đến các loại có nhiều hạch. Sự khác nhau
về thành phần và hàm lượng sắc tố đã ảnh hưởng đến màu sắc của rong, phần
lớn các ngành đều có sắc tố chính là Chlorophyl a (Trần Ngọc Hải, 2000). Sản
phẩm đồng hóa của các loài rong cũng khác nhau.
Rong biển có nhiều hình thức sinh sản như sinh sản vô tính, sinh sản hữu tính,
sinh sản dinh dưỡng. Chu kỳ sinh sản của những loài rong khác nhau thì cũng
khác nhau, dựa vào khoảng thời gian của một chu kỳ sinh sản người ta chia
chu kỳ sinh sản thành các loại: Loại chu kỳ sinh sản một năm, loại chu kỳ sinh
sản nhiều năm. Trong chu kỳ sinh sản của rong có thể xuất hiện cây bào tử
hoặc cây giao tử hoặc có cả hai. Ngoài ra còn có thể xuất hiện một loại cây
nữa là cây bào tử quả hay cây bào tử bốn. Tùy từng ngành tảo mà chúng có
các loại cây khác nhau trong chu kỳ sinh sản.
Thành phần sinh hoá của rong biển biến đổi theo điều kiện môi trường. Hàm
lượng protein và lipid biến động nhiều trong quá trình thí nghiệm ở các điều
kiện môi trường khác nhau và giữa trước và sau thí nghiệm. Hàm lượng
protein và lipid trong rong chỉ vàng biến động trong khoàng 15,6-17,2±0,25%
và 1,6-1,8±0,72 (Ngô Thị Thu Thảo, 2009), rong câu thắt khoảng 15% và
5,5%, rong xà lách khoảng 21% và 3,8%.
11
2.1.2 Đặc điểm của rong câu thắt Gracilaria blodgettii
2.1.2.1 Phân loại
Theo Trần Ngọc Hải (2000) rong câu thắt
Gracilaria blodgettii có hệ thống phân loại như sau:
Ngành: Rhodophyta
Lớp: Floridae
Bộ: Gigartinales
Họ: Gracilariaceae
Giống: Gracilaria
Hình 2.1. Rong câu thắt
2.2.2.2 Đặc điểm sinh học
Rong câu thắt (Gracilaria blodgettii) còn có tên là rong câu rễ khoai (Nguyễn
Khắc Hường, 2007) phân bố ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, tập trung ở các
vùng nước lợ mặn ven biển. Chúng có thân tương đối to, màu đỏ đậm, nhánh
mọc không đều, chúng thường sống bám vào các vật bám như đá, san hô…
Rong câu thắt có khả năng chịu đựng và thích nghi cao với môi trường. Độ
mặn thích hợp cho sự phát triển của rong là 4-35‰, độ sâu 20-60 cm.
2.2.3 Đặc điểm của rong chỉ vàng Gracilaria tenuistipitata
2.2.3.1 Phân loại
Theo Trần Ngọc Hải (2000) rong chỉ vàng Gracilaria tenuistipitata có hệ
thống phân loại như sau:
Ngành: Rhodophyta
Lớp: Floridae
Bộ: Gigartinales
Họ: Gracilariaceae
Giống Gracilaria
Hình 2.2. Rong chỉ
vàng
Rong chỉ vàng phân bố rộng, nhưng tập trung ở vùng nước lợ mặn ven biển,
độ mặn 4-35‰, độ sâu 20-60 cm. Mùa vụ sinh trưởng của rong phụ thuộc rất
lớn vào điều kiện khí hậu của từng vùng, đặc biệt là nhiệt độ và độ muối.
Rong chỉ vàng có dạng sợi, nhánh mọc không đều, có màu từ vàng nhạt đến
nâu sẫm.
2.2.3.2 Đặc điểm sinh học
12
Theo Trần Ngọc Hải (2000) thì tháng 11-4, nhiệt độ 16-26 oC rong sinh trưởng
nhanh và sẽ tàn lụi vào mùa hè (tháng 5-9 ở miền Bắc, tháng 4-8 ở miền Nam)
khi nhiệt độ trung bình là 25-30oC hay cao hơn. Cường độ quang hợp mạnh
nhất là 20-25oC. Nhưng theo Nguyễn Khắc Hường (2007) thì rong thích nghi
ở 10-20oC. Khi nhiệt độ nước trên 16-20 oC thì rong lớn chậm, màu sắc biến
vàng. Nhiệt độ xuống đến 14oC thì sinh trưởng của rong sẽ nhanh, màu sắc
rong biến thành đậm, tỉ lệ tăng trưởng trung bình là trên 1cm/ngày. Rong chỉ
vàng ở Việt Nam chết không phải vì nhiệt độ thấp (<6 oC) mà chết vì do nhiệt
độ cao (Trần Ngọc Hải, 2000).
Rong chỉ vàng phân bố ở độ sâu 20-60cm, cường độ ánh sáng 1000-10000 lux.
Trong điều kiện thiếu ánh sáng (<200 lux) rong sẽ không nảy mầm. Ở vùng có
độ mặn 0-25‰ (các đầm ven sông) rong có dạng sống bám tự do, cài quấn lẫn
nhau. Ở vùng có độ mặn cao 10-32‰ (vùng triều ven biển) rong sống bám. Ở
Việt Nam rong không chết do độ mặn cao (>35-37‰) mà chết do độ mặn thấp
dưới 4‰ (Trần Ngọc Hải, 2000).
Rong chỉ vàng sống bám sau 4 tháng kể từ khi cây nảy mầm chúng đạt thành
thục (30-50 cm, 2-5 g). Rong sinh trưởng mạnh nhất vào tháng thứ nhất và hai,
giảm mạnh ở 3-4 tháng tuổi. Tốc độ sinh trưởng theo trọng lượng 2-6%/ngày,
theo chiều dài 0,6-3%/ngày. Rong sống tự do thì sinh trưởng chậm hơn (Trần
Ngọc Hải, 2000).
2.2.4 Đặc điểm của rong xà lách Ulva sp.
2.2.4.1 Phân loại
Theo Trần Ngọc Hải (2000) thì rong xà lách Ulva sp. có hệ thống phân loại
như sau:
Ngành: Chlorophyta
Lớp: Chlorophyceae
Bộ: Ulvales
Họ: Ulvaceae
Giống: Ulva
Hình 2.3. Rong xà lách
2.2.4.2 Đặc điểm sinh học
Giống Ulva có phiến dày, hai lớp tế bào. Tản thường có màu lục tươi, dạng
phiến, dợn sóng, bìa có thùy (Trần Ngọc Hải, 2000). Rong xà lách Ulva sp.
dạng phiến rộng, mềm mại, mọc xòe, xé thùy, mép nhăn gấp, màu lục thẫm
hoặc lục nhạt, cao 10-25cm, rộng 4-10cm, trông giống như cây Rau diếp hay
13
xà lách. Tế bào có dạng góc tròn, mặt cắt ngang hình chữ nhật ngang, trong
thể sắc tố có 2 hạt tạo bột. Phân bố ở nhiều biển vùng nhiệt đới và Trung
Quốc. Ở nước ta, rong bám trên đá, vỏ động vật thân mềm, gỗ mục, trong các
ruộng muối vào mùa xuân và đầu mùa hè, tìm thấy ở một số nơi ven bờ biển
như Quảng Nam, Hà Tĩnh, Bình Ðịnh (Theo http://www.vho.vn. Truy cập
ngày 16/12/2009)
2.2.5. Một số nghiên cứu về rong biển
Trước đây có một số nghiên cứu về rong biển tại Khoa Thủy sản – Trường đại
học Cần Thơ như:
Nghiên cứu “Ảnh hưởng của việc giảm độ mặn đến sinh trưởng và thành phần
sinh hóa của rong câu (Gracillaria tenuistipitata) và rong sụn (Kapaphycus
alvarezii)” năm 2008 của Ngô Thị Thu Thảo và Huỳnh Hàn Châu. Kết quả
cho thấy khối lượng của rong giảm dần theo thời gian (Trọng lượng ban đầu là
200g). Sau 60 ngày nuôi, khối lượng rong câu ở 30‰ tuy giảm (65,6g) nhưng
vẫn duy trì cao hơn so với 20‰ (41,6g) và 10‰ (39,6g). Nhưng tỷ lệ hao hụt
của rong câu theo thời gian không có khác biệt (p>0,05). Đến 90 ngày thì độ
mặn 30‰ có tỷ lệ giảm hao hụt ít nhất, kế đến là 20% và ở 10‰ rong hao hụt
nhiều nhất nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Ngược lại thì
rong sụn có khối lượng tăng trong tháng thứ nhất ở cả 3 độ mặn. Tháng thứ 2
và 3 thì rong sụn ở nghiệm thức 20‰ có biểu hiện giảm sinh trưởng, trong khi
đó 2 nghiệm thức còn lại khối lượng vẫn duy trì. So sánh trong cùng thí
nghiệm cho thấy rong sụn tỏ ra có sức chịu đựng tốt hơn rong câu. Về thành
phần sinh hóa thì hàm lượng đạm của rong câu (Gracilaria tenuistipitata) cao
gấp 2 lần hàm lượng đạm của rong sụn (Kapaphycus alvarezii). Các tác giả có
nhận định rằng thành phần sinh hóa của rong biển biến đổi theo điều kiện môi
trường.
Nghiên cứu “Ảnh hưởng của rong sụn (Kapaphycus alvarezii) trong hệ thống
nuôi kết hợp tôm sú – cá rô phi” của Trần Hữu Hiếu năm 2008. Kết quả cho
thấy, tôm sú ở nghiệm thức nuôi ghép nhiều rong lớn nhanh hơn các nghiệm
thức khác mặc dù tỷ lệ sống thấp hơn. Việc nuôi ghép rong sụn đã làm giảm
bớt hàm lượng PO43- và tổng đạm qua đó hạn chế sự phát triển của phiêu sinh
thực vật trong bể nuôi. Việc nuôi ghép rong sụn đã góp phần nâng cao năng
suất và chất lượng tôm nuôi.
Nghiên cứu “Ảnh hưởng của rong sụn (Kapaphycus alvarezii) trong hệ thống
nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng (Penaeus vanamei)” của Lê Văn Bình
năm 2009. Kết quả cho thấy hàm lượng tổng đạm và PO43- ở 2 nghiệm thức
nuôi ghép rong đều thấp hơn nghiệm thức không nuôi rong. Phiêu sinh thực
14
vật và vi sinh ở nghiệm thức nuôi ghép rong cũng thấp hơn nghiệm thức
không nuôi rong. Tôm chân trắng ở cả 3 nghiệm thức đều có tốc độ tăng
trưởng và tỷ lệ sống tương đương nhau. Nuôi ghép rong sụn góp phần nâng
cao chất lượng tôm.
Nghiên cứu “nghiên cứu sử dụng rong biển nhằm cải thiện chất lượng nước
trong hệ thống nuôi thủy sản thâm canh” của Ngô Thị Thu Thảo năm 2009.
Kết quả cho thấy, rong sụn sinh trưởng tốt hơn và thành phần sinh hóa ít bị tác
động của điều kiện độ mặn giảm theo thời gian. Rong sụn (Kapaphycus
alvarezii) tỏ ra thích ứng hơn rong câu (Gracilaria tenuistipitata). Ảnh hưởng
của rong sụn với mật độ tôm sú thả nuôi thấp và lượng rong sụn nuôi kết hợp
ít hơn dường như không ảnh hưởng rõ ràng đến hàm lượng dinh dưỡng như
NH4+, NO2-, NO3-, PO43-… nhưng ảnh hưởng rõ hơn đến mật độ tảo và sự phát
triển của vi khuẩn, đặc biệt là nhóm Vibrio. Khi tăng mật độ tôm thả nuôi và
lượng rong thả đã cho ra kết quả rõ ràng về khả năng cải thiện chất lượng nước
trong bể nuôi tôm. Thí nghiệm cũng cho thấy nuôi kết hợp rong sụn không ảnh
hưởng rõ ràng đến tăng trưởng, tỷ lệ sống và năng suất nuôi tôm, tuy nhiên
chất lượng tôm sau thu hoạch ở nghiệm thức nuôi ghép rong sụn với tôm chân
trắng có tỷ lệ sống và khả năng chịu đựng NH4Cl liều cao hơn hẳn so với tôm
từ nghiệm thức nuôi đơn. Kết quả đề tài cho thấy rằng, nuôi kết hợp tôm –
rong sụn không những làm cho chất lượng nước tốt hơn, không tốn nhiều chi
phí thuốc và hóa chất, không gây ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi mà còn
góp phần làm cho sản phẩm tôm thương phẩm sạch hơn và chất lượng hơn.
2.2 Bào ngư vành tai (Haliotis asinina)
2.2.1 Đặc điểm phân loại bào ngư vành tai (Haliotis asinina)
Bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758), thuộc:
Ngành: Mollusca (Động vật thân mềm)
Lớp: Gastropoda (Chân bụng)
Bộ: Archaeogastropoda (Chân bụng nguyên thủy)
Họ: Haliotidae (Bào ngư)
Giống: Haliotis (Bào ngư)
Bào ngư vành tai có vỏ dạng vành tai, mặt ngoài
láng nhẵn và thường có 3 tầng xoắn ốc. Vị trí
đỉnh vỏ nằm sát mép ngoài vỏ. Mặt ngoài vỏ có
6-7 lỗ mở hô hấp. Vòng sinh trưởng rõ nét ở mặt
15
Hình 2.4. Bào ngư vành tai
ngoài và mặt trong vỏ. Lớp xà cừ mặt trong vỏ óng ánh. Cá thể lớn nhất có
chiều dài vỏ 112 mm (Lê Đức Minh, 1998).
2.2.2 Đặc điểm sinh học của bào ngư vành tai (Haliotis asinina)
2.2.2.1 Phân bố
Bào ngư vành tai (H. asinina) phân bố rộng khắp thế giới nhưng chúng phát
triển phong phú về số lượng ở vùng ôn đới, nơi vùng biển sạch, có độ trong
cao và môi trường nước xáo động mạnh. Chúng sống ở nơi có nền đáy cứng,
hàm lượng muối từ 25-35‰ (Ngô Thị Thu Thảo và Trương Quốc Phú, 2009).
Ở Việt Nam bào ngư vành tai phân bố ở vùng biển miền Trung, kéo dài đến
Côn Đảo, Phú Quốc và quần đảo Trường Sa (Lê Đức Minh, 2000).
2.2.2.2 Phương thức sống
Bào ngư dùng chân bò từ nơi này đến nơi khác. Chân bào ngư không thích hợp
để bò hoặc bám trên cát mà chỉ thích hợp trên nền đáy cứng như đá, san hô
chết,… Bào ngư sợ ánh sáng nên ban ngày thường ẩn nấp trong các hốc đá,
ban đêm mới bò ra ngoài để tìm mồi (Ngô Thị Thu Thảo và Trương Quốc Phú,
2009). Bào ngư vận động chậm chạp, phạm vi hoạt động hẹp và ít di chuyển ra
khỏi nơi cư trú.
2.2.2.3 Thức ăn
Bào ngư là loài ăn thực vật. Lúc mới ăn ngoài bào ngư ăn các loài khuê tảo
đơn bào sống đáy như Navicula spp., Nitzschia spp…. có kích thước nhỏ
thường bám trên bề mặt san hô, đá cục, đá tảng hoặc các giá bám khác. Khi
chiều dài của vỏ đạt khoảng 5mm, bào ngư bắt đầu ăn các loại rong biển như
rong câu (Gracilaria), rong nâu (Laminaria), rong lục (Ulva), rong mơ
(Sargassum) (Lê Đức Minh, 2000). Đặc biệt bào ngư ăn nhiều rong bẹ
(Laminaria) (53%) (Ngô Thị Thu Thảo và Trương Quốc Phú, 2009). Bào ngư
thường bám vào giá thể (đá hoặc thành bể) dùng xúc tu ở đầu để đón bắt các
mảnh vụn rong trôi lơ lửng.
Theo Lê Đức Minh (2000) thì nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến lượng thức ăn
bào ngư ăn: “Ở nhiệt độ nước biển 8oC, bào ngư ít ăn. Khi nhiệt độ nước biển
tăng lên 12oC bào ngư ăn lượng thức ăn bằng 6% trọng lượng cơ thể và khi
nhiệt độ 20oC, ăn bằng 15% trọng lượng cơ thể. Bào ngư duy trì hoạt động
sống khi ăn lượng thức ăn bằng 0,61% trọng lượng cơ thể”. Bào ngư ăn tích
cực về đêm, đặc biệt là lúc mặt trời sắp lặn và sắp mọc (Ngô Thị Thu Thảo và
Trương Quốc Phú, 2009).
16
2.2.2.4 Sinh trưởng
Bào ngư vành tai là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong số khoảng 100
loài bào ngư. Tốc độ sinh trưởng của bào ngư phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
di truyền, điều kiện môi trường, nhiệt độ nước, thức ăn và hoạt động sinh sản.
Kết quả nghiên cứu ở Thái Lan về bào ngư vành tai cho thấy, nếu bào ngư chỉ
ăn một loại rong câu (Gracilaria salicornia) thì tốc độ sinh trưởng sẽ chậm lại
sau 5 tháng nuôi (Lê Đức Minh, 2000).
Nhiệt độ nước, một mặt làm tăng khả năng sinh trưởng, một mặt làm giảm
sinh trưởng của bào ngư. “Một nghiên cứu của Sakai về bào ngư Nhật Bản
(Haliotis discus hannai) cho thấy tốc sinh trưởng giảm hẳn khi bào ngư sinh
sản vào các tháng mùa hè. Trong khi đó, nghiên cứu của Mc Namara về bào
ngư vành tai ở Australia chỉ ra tốc độ sinh trưởng của chúng tăng cao về mùa
đông – là mùa không sinh sản” (Lê Đức Minh, 2000).
2.2.3 Một số nghiên cứu về bào ngư
Trước đây cũng đã có nhiều nghiên cứu về bào ngư nói chung và bào ngư
vành tai nói riêng:
Các nghiên cứu về đặc điểm sinh học, kỹ thuật sinh sản của Lê Đức Minh ở
Viện nuôi trồng Thủy sản III (Nha Trang) từ những năm 90 của thế kỷ trước
tới những năm gần đây. Kết quả cho thấy có thể cho sinh sản nhân tạo bào ngư
vành tai bằng nhiều phương pháp khác nhau như: Sốc nhiệt lạnh, sốc nhiệt
khô, dùng tia hồng ngoại kết hợp với làm giàu oxy và xáo nước mạnh.
Nghiên cứu về sinh học và kỹ thuật nuôi của Nguyễn Văn Chung & ctv năm
1996. Kết quả cho thấy bào ngư phát triển tốt trong môi trường nước sạch và
giàu oxy. Bào ngư có thể nuôi trên bể, trong lồng bè hoặc trên các nền đáy
cứng ven biển.
Nghiên cứu “thử nghiệm nuôi bào ngư vành tai Haliotis asinina bằng các loại
thức ăn khác nhau và nuôi ghép bào ngư với hải sâm Holothuria scabra” của
Mai Duy Minh và Hoàng Thị Ngọc năm 2007. Kết quả cho thấy, sau 70 ngày
được nuôi bằng 3 loại thức ăn, bào ngư ăn thức ăn công nghiệp F1 lớn nhanh
nhất và cho tổng khối lượng cao nhất. Tăng trưởng của bào ngư ăn rong câu
chỉ vàng Gracilaria asiatica và thức ăn công nghiệp F2 tương tự nhau nhưng
bào ngư ăn mẫu F2 cho tỉ lệ sống và tổng khối lượng thấp hơn. Khi nuôi ghép
bào ngư với hải sâm, tăng trưởng của bào ngư trong bể nuôi ghép không sai
khác nhiều so với trong nuôi đơn nhưng tỉ lệ sống của bào ngư ở bể nuôi ghép
cao hơn so với bể nuôi đơn. Kết quả thí nghiệm cũng khẳng định khả năng
17
nuôi ghép hải sâm với bào ngư sẽ tận dụng chất thải của bào ngư làm cơ sở
thức ăn cho hải sâm.
Nghiên cứu “thử nghiệm nuôi kết hợp tôm hùm (Panulirus ornatus) với bào
ngư (Haliotis asinina), rong sụn (Kapaphycus alvarezii) và vẹm xanh (Perna
viridis)” của Nguyễn Hữu Khánh và Thái Ngọc Chiến năm 2005. Thí nghiệm
được tiến hành ở hai lồng nuôi tôm hùm 25 m2/lồng, mật độ thả 100 con/lồng,
kích thước tôm ban đầu >100 g/con. Một lồng nuôi đơn, một lồng nuôi ghép
thêm các đối tượng bào ngư, vẹm xanh, rong sụn. Tỷ lệ ghép giữa tôm hùm:
vẹm xanh: rong sụn là 2:25:30 theo khối lượng. Kết quả cho thấy các yếu tố
môi trường ở hai lồng nuôi có sự sai khác nhưng không có ý nghĩa về mặt
thống kê (p>0,05). Tốc độ tăng trưởng trung bình về khối lượng của tôm hùm
ở lồng nuôi đơn là 0,48%/ngày và 0,57%/ngày ở lồng nuôi ghép, sinh trưởng
của bào ngư là 1,47%/ngày, vẹm xanh là 0,57%/ngày và của rong sụn là
3,91%/ngày. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ghép cao hơn nuôi đơn, lợi
nhuận thu được tăng 42,44% trong khi chi phí đầu tư chỉ tăng thêm 16,42%.
18
Phần 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm
Thời gian: Đề tài được thực hiện trong 5 tháng, từ tháng 03/2009 đến tháng
08/2009.
Địa điểm: Trại thực nghiệm Động vật thâm mềm – Bộ môn kỹ thuật nuôi Hải
sản – Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
3.2.1 Vật liệu nuôi rong (Thí nghiệm 1)
Nguồn gốc rong biển:
Rong xà lách từ Ninh Thuận
Rong chỉ vàng từ Thừa Thiên – Huế
Rong câu thắt từ Hà Tiên – Kiên Giang
Trang thiết bị nuôi rong: Bể composite hình chữ nhật (240x80x50 cm), rổ
nhựa loại 25x18x10 cm và loại 34x25x13 cm, nước mặn 25‰, sục khí, túi lọc
nước.
Hóa chất sử dụng: Chlorine, thuốc tím, EDTA.
Phân bón dinh dưỡng: DAP, Na2HPO4, silicat.
3.2.2 Vật liệu nuôi bào ngư (Thí nghiệm 2)
Nguồn gốc bào ngư: Nha Trang – Khánh Hòa.
Trang thiết bị nuôi bào ngư: Bể composite tròn 1 m3, rổ nhựa có nắp đậy loại
34x25x13 cm, nước mặn 32‰, sục khí, bạt che tối, túi lọc nước, đá lớn.
Hóa chất sử dụng: Chlorine, thuốc tím, EDTA, formol 10%.
Hệ thống lọc tuần hoàn: thùng 20L, cát, đá, than, bông gòn, ống PVC, sục khí,
máy bơm chìm.
Thức ăn: 3 loại rong của thí nghiệm 1: Rong xà lách, rong chỉ vàng và rong
câu thắt.
3.2.3 Vật liệu theo dõi môi trường
Khúc xạ kế
Nhiệt kế thủy ngân
Máy đo pH hiệu HANNA
19
Các bộ test: NH4+/NH3, NO3-, NO2-, kiềm KH của Germany
3.2.4 Vật liệu khác
Cân điện tử 2 số lẻ Satorius, máy bơm chìm loại lớn, máy sục khí và một số
dụng cụ hỗ trợ khác.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Thí nghiệm 1: Tìm hiểu sinh trưởng và giá trị dinh dưỡng của 3 loài
rong: rong câu thắt Gracilaria blodgettii, rong chỉ vàng Gracilaria
tenuistipitata và rong xà lách Ulva sp.
3.3.1.1 Phương pháp chuẩn bị dụng cụ
Bể: Rửa sạch bằng xà phòng, sau đó phơi dưới ánh nắng mặt trời cho khô
Chuẩn bị nước 25‰: Nước ót sau khi đem về thì xử lý bằng Chhlorine 30
ppm, sau đó sục khí đến khi hết Chlorine, nếu nước chưa trong thì tiếp tục xử
lý bằng thuốc tím 2 ppm sau đó sục khí đến khi hết thuốc tím rồi dùng EDTA
trung hòa kim loại nặng (khoảng 10g/m3). Pha nước 25‰ theo công thức
C1V1=C2V2, nguồn nước ngọt từ nước máy. Sau khi pha xong thì tiếp tục sục
khí cho đến khi hết chlorine rồi mới xử dụng.
Rong: Sau khi đem về thì được trữ trong bể 1m 3 1-3 ngày trong nước 25‰ sau
đó tiến hành bố trí thí nghiệm.
3.3.1.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm có 3 nghiệm thức với 3
loài rong: Nghiệm thức I (NTI)
rong xà lách Ulva sp., nghiệm thức
II (NTII) rong chỉ vàng Gracilaria
tenuistipitata và nghiệm thức III
(NTIII) rong câu thắt Gracilaria
blodgettii, mỗi nghiệm thức có 15
lần lặp lại. Thí nghiệm được tiến
hành trong 90 ngày, độ mặn 25‰.
Hình 3.1. Bể thí nghiệm nuôi rong
Bể hình chữ nhật (240x80x50 cm)
nuôi rong được đặt trong nhà có tôn
sáng (cường độ ánh sáng 1000-10000 lux). Mỗi nghiệm thức được bố trí riêng
từng bể, mỗi bể 15 rổ (25x18x10cm) rong tương ứng với 15 lần lặp lại và
được đánh ký hiệu từ số 1 đến số 15.
Lượng rong bố trí: 100 g/rổ
20
- Xem thêm -