PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Trên tinh thần Nghị quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo trong đó tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp,
liên môn” là một trong những vấn đề cần ưu tiên. Qua quá trình dạy học, tôi
thấy rằng việc giáo viên soạn giảng các tiết có lồng ghép, kết hợp kiến thức các
môn học khác để giải quyết một vấn đề thực tiễn nào đó trong một môn học là
điều thực sự cần thiết với cả người dạy lẫn người học. Khi soạn giảng theo
hướng tích hợp, liên môn giáo viên sẽ tiếp cận tốt hơn, hiểu rõ hơn, sâu hơn
những vấn đề mà bài đặt ra, từ đó sẽ tổ chức tiết học linh hoạt hơn, sinh động
hơn và thực sự, với những tiết dạy như thế thì học sinh sẽ đóng vai trò trung tâm,
có hứng thú học tập, tìm tòi, khám phá nhiều kiến thức và được suy nghĩ, sáng
tạo nhiều hơn. Đặc biệt, các em có thể vận dụng kiến thức vào thực tế tốt hơn.
Trong chương trình Ngữ văn THCS, văn bản nhật dụng chiếm 10% số lượng.
Đây là những tác phẩm đề cập đến chức năng, đề tài và tính cập nhật, kịp thời
đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày, cuộc sống hiện đại. Những
vấn đề mà văn bản nhật dụng hướng tới đều rất gần gũi với đời sống của cả cộng
đồng. Sự hiện diện khoảng 10% của văn bản nhật dụng đã giúp cho chương trình
Ngữ văn phần nào giảm bớt tính hàn lâm, kinh viện, tạo cơ hội cho học sinh tăng
cường việc học lý thuyết gắn với đời sống.
Việc thử nghiệm, làm quen và biến một phương pháp nào đó trở nên phổ
biến và đại chúng luôn có những khó khăn nhất định, vượt lên trên những điều
này, chúng ta không thể phủ nhận vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa của việc dạy
học theo chủ đề tích hợp kiến thức liên môn – đặc biệt là trong bộ môn Ngữ văn
với các tiết văn bản nhật dụng. Xuất phát từ thực tiễn hơn 7 năm giảng dạy bộ
môn Ngữ văn, tôi nhận thấy, muốn học sinh hứng thú với môn học, muốn có
hiệu quả trong việc dạy – học thì không thể không đổi mới phương pháp. Và,
một trong các phương pháp tối ưu nhất chính là tích hợp, liên môn.
Với những ý nghĩa như trên, tôi xin mạnh dạn trình bày và thực hiện
thử nghiệm đề tài “Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các
văn bản nhật dụng ở THCS” .
Dự án nhỏ này, khi thực hiện hi vọng sẽ giúp các bạn đồng nghiệp có cái
nhìn toàn diện hơn với việc dạy học theo chủ đề tích hợp kiến thức liên môn
trong môn Ngữ văn nói riêng và trong việc dạy – học nói chung. Từ đó, cùng với
những tìm tòi, sáng tạo của bản thân, chúng ta sẽ có thêm những sáng kiến để
dạy tốt phần văn bản nhật dụng, góp phần tích cực vào việc thực hiện Nghị quyết
29 – NQ/TW. Ngoài ra, với tiết thực nghiệm này, các em học sinh có thể khắc
sâu những kiến thức ở các phân môn khác, áp dụng để giải quyết vấn đề thực
tiễn, cụ thể với đề tài này, các em sẽ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc bảo
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
1
vệ môi trường sống, thấy được tác hại, nguyên nhân, giải pháp và có hành động
thiết thực để làm cho môi trường xanh – sạch – đẹp hơn/.
I.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu:
I.2.1. Mục tiêu:
Dựa trên cơ sở nghiên cứu ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo
cách tiếp cận truyền thống hiện nay, xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học
phát triển năng lực học sinh, đề tài này sẽ đề ra những giải pháp thông qua những
ví dụ cụ thể nhằm áp dụng nhuần nhuyễn và có hiệu quả việc dạy học theo chủ
đề, tích hợp, giúp người học có thể tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp, ít
phải nhớ kiến thức một cách máy móc, rập khuôn. Quan trọng hơn, học sinh
không phải học lại nhiều lần một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau.
Đề tài này, bên cạnh mục tiêu đổi mới giáo dục nói chung, nâng cao chất lượng
bộ môn Ngữ văn nói riêng còn hướng tới mục tiêu chuyển dạy học lấy giáo viên
làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
I.2.2. Nhiệm vụ:
Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đưa ra một tiết soạn, giảng
cụ thể để trình bày rõ thế nào là dạy học "tích hợp, liên môn" và tích hợp liên
môn trong một văn bản nhật dụng ở bộ môn Ngữ văn. Sự khác nhau giữa dạy
học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay với việc dạy học theo chủ đề liên
môn. Ưu điểm với học sinh, ưu điểm với giáo viên và những khó khăn giáo viên
có thể gặp phải khi dạy học theo hướng tích hợp, liên môn. Cũng qua đề tài này,
tôi trình bày những điều kiện, cách thức và những kiến thức có thể tích hợp, liên
môn trong các văn bản nhật dụng ở các khối 6,7,8,9 trong chương trình THCS,
quy trình, thao tác và các bước cần thực hiện để soạn giảng một văn bản theo
hướng này để từ đó góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học
theo định hướng phát triển năng lực người học, lấy người học làm trung tâm,
giúp người học có thêm những kiến thức, kĩ năng, năng lực cần thiết để vận dụng
vào thực tế. Chỉ ra những lợi thế nhất định của mô hình tích hợp, liên môn khi
đưa vào giảng dạy phần văn bản nhật dụng trong bộ môn Ngữ văn ở THCS. Với
những nhiệm vụ như trên, tôi nghiên cứu đối tượng như sau:
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu các văn bản nhật dụng ở các khối lớp 6,7,8,9
- Nghiên cứu các đơn vị kiến thức ở các môn học có thể tích hợp vào một
tiết dạy cụ thể.
- Nghiên cứu các nội dung giáo dục cần thiết để tích hợp, lồng ghép vào
môn học ví dụ: Gáo dục môi trường, Giáo dục pháp luật, Giáo dục dân số, chủ đề
về Quyền trẻ em, Di tích lịch sử…
- Lớp nghiên cứu, thực nghiệm: Lớp 8D – năm học 2014 – 2015.
- Lớp đối chiếu: Lớp 8C – năm học 2014 – 2015.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tôi tập trung vào các vấn đề sau: (với cả Gv và Hs)
- Đối với học sinh: Nghiên cứu tính chủ động, sáng tạo, nhận biết vấn đề và
áp dụng kiến thức để giải quyết vấn đề của học sinh qua tiết học tích hợp, liên
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
2
môn so với tiết học truyền thống; Những khó khăn khi tích hợp kiến thức liên
môn trong các văn bản nhật dụng ở môn Ngữ văn.
- Đối với giáo viên:
➢ Những điều mà giáo viên cần trang bị để có thể làm tốt việc tích hợp, liên
môn.
➢ Ưu điểm của việc tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp,
liên môn” ở các văn bản nhật dụng THCS.
➢ Các kiến thức, phân môn có thể tích hợp trong các văn bản nhật dụng ở
khối 6,7,8,9
➢ Nghiên cứu và vận dụng thiết kế bài giảng theo hướng tích hợp, liên môn
ở văn bản nhật dụng: “Thông tin về ngày Trái đất năm 2000”.
Xuất phát từ đối tượng, phạm vi nghiên cứu, tôi xin được đề xuất những
phương pháp nghiên cứu như sau:
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận về
việc dạy học theo chủ đề tích hợp kiến thức liên môn nói chung và trong tích hợp
kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng trong môn Ngữ văn nói riêng.
- Phương pháp vấn đáp: Giáo viên (Gv) đặt câu hỏi để học sinh (Hs) trả lời
hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau thậm chí tranh luận với Gv để chiếm
lĩnh nội dung bài học.
- Phương pháp hoạt động nhóm: Chia lớp học thành từng nhóm nhỏ từ 4-6 Hs,
nhờ thế mỗi thành viên đều phải tích cực, chủ động hơn.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo những đề tài, dự án về tích
hợp liên môn của các bạn đồng nghiệp trong và ngoài trường.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
II.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện Giáo dục và Đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện
tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số
29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy
học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng này.
Trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng
đổi mới phương pháp, cách tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính tích
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
3
cực của học sinh. Theo tôi, việc tích hợp kiến thức liên môn trong các giờ học
nói chung và trong các tiết văn bản nhật dụng của bộ môn Ngữ văn nói riêng là
một phương pháp tối ưu giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ
không thụ động tiếp nhận kiến thức, học sinh biết tự tìm tòi những kiến thức đã
có vận dụng để phát hiện kiến thức mới trong một phân môn khác.
Trước hết, phải hiểu DẠY TÍCH HỢP LIÊN MÔN LÀ GÌ ?
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động,
chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng.
Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”.
Ở trang 27 – bộ môn Ngữ Văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT cũng nói rõ về
khái niệm tích hợp “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với
nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau
nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc.”
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực
khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
Nói rõ hơn về điều này, PGS.TS Nguyễn Xuân Thành, Phó vụ trưởng Vụ
Giáo dục trung học, Bộ GD-ĐT cho rằng: “dạy học tích hợp có nghĩa là đưa
những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học.
Còn dạy học liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai
hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng
một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên
môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình
của môn đó và không dạy lại ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có
tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy
học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ
môn liên quan.”
Khi nghiên cứu việc dạy học theo hướng tích hợp, liên môn ở các văn bản
nhật dụng, chúng ta còn phải nhận diện được kiểu văn bản này. Chương trình
Ngữ văn THCS xác định rõ: “Văn bản nhật dụng không phải là khái niệm thể
loại văn học, cũng không chỉ kiểu văn bản. Nó chỉ đề cập tới chức năng, đề tài
và tính cập nhật của văn bản nhật dụng”. Đây có thể xem như là các tiêu chí
cơ bản để nhận diện văn bản nhật dụng. Nhờ vào khả năng kết hợp nhuần
nhuyễn các phương thức biểu đạt nên văn bản nhật dụng có thể tồn tại ở nhiều
hình thức khác nhau như: Thuyết minh, miêu tả, nghị luận… Trên cơ sở đó,
chúng ta có thể thấy khi dạy học tích hợp liên môn ở văn bản nhật dụng, người
dạy phải dự tính được những gì cần thiết với học sinh, học sinh phải hình thành
được những năng lực rõ ràng để từ đó hòa nhập vào thực tiễn cuộc sống.
II.2. THỰC TRẠNG:
II.2.1. Thuận lợi - Khó khăn:
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
4
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và dạy học thử nghiệm dạy học theo
chủ đề tích hợp, tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn nhất định:
Thuận lợi:
Ngữ văn là môn khoa học xã hội, trong dạy học môn Ngữ văn có thể tích
hợp nhiều chủ đề: Ô nhiễm môi trường, gia tăng dân số, Thuốc lá, Truyền thống
gia đình và xã hội, Sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên... Trong chương trình Ngữ
văn THCS có thể dễ dàng sử dụng kiến thức của nhiều môn học liên quan để giải
quyết một số vấn đề đã nêu ở trên như: Toán, Hóa, Sinh, Giáo dục công dân, Âm
nhạc, Mĩ Thuật... qua đó các em có thể hình thành các kỹ năng liên quan đến các
môn học khác ngay trong khi học Ngữ văn.
Bên cạnh đó, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn
thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì
vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó. (Trích nhận định của
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành, Phó vụ trưởng Vụ GD trung học, Bộ GD-ĐT)
Khó khăn:
* Về phía giáo viên:
Đội ngũ giáo viên hiện nay chủ yếu chưa được đào tạo sư phạm theo hướng
tích hợp, liên môn nên khi thực hiện dạy học tích hợp liên môn thì phần lớn là do
giáo viên tự tìm hiểu nên không tránh khỏi việc lúng túng trong cách thức tổ
chức dạy học tích hợp liên môn; hoặc hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ về mục đích,
ý nghĩa của dạy học tích hợp liên môn.
Văn bản nhật dụng có sự kết hợp nhiều phương thức biểu đạt nên đôi khi giáo
viên còn mơ hồ về hình thức kiểu loại văn bản, vì thế việc xây dựng hệ thống các
câu hỏi chưa thực sự tạo sự hứng thú cho học sinh.
* Về phía học sinh: Qua thực tế giảng dạy các em học sinh ở trường THCS Lê
Hồng Phong cũng như các trường bạn tại thị trấn, tôi nhận thấy có thể do nhiều lí
do khác nhau mà phần lớn các em học môn Ngữ văn vẫn theo xu hướng học thụ
động, ít tích cực, chủ động trong học tập và việc chuẩn bị giờ học tích hợp liên
môn hoặc không thể sử dụng kiến thức của các môn liên quan để khai thác kiến
thức mới ở môn Ngữ văn. Đối với học sinh THCS các em mới được làm quen
với văn bản nhật dụng nên cũng còn nhiều bỡ ngỡ.
* Ngoài ra, chương trình trong sách giáo khoa hiện tại cũng gây không ít
khó khăn cho việc dạy học theo chủ đề tích hợp. Phần lớn các phân môn trong
sách giáo khoa đều không được viết theo dạng tích hợp liên môn nên gây không
ít khó khăn cho giáo viên khi tìm hiểu kiến thức liên quan đến các môn học khác
để tích hợp./
II.2.2. Thành công – Hạn chế:
Thành công:
- Trong việc soạn bài:
Soạn bài dạy học theo hướng tích hợp đã giúp cho tôi tiếp cận tốt nhất
với chương trình. Tiếp cận và nắm thêm được nhiều kiến thức ngoài chuyên
môn, bài dạy linh hoạt, Hs học được nhiều, được chủ động tìm tòi, chiếm lĩnh
kiến thức và rèn luyện kĩ năng, các em cũng có cơ hội để vận dụng kiến thức
nhiều môn học trong một giờ học nhất định.
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
5
- Trong quá trình dạy – học:
Với mục đích giáo dục là lấy người học là trung tâm thì việc dạy học theo
chủ đề đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt động học, học sinh phải tự học, tự
nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, người học
không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của giáo viên
mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn rồi từ đó tự mình tìm
ra cái chưa biết, cái cần khám phá và tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân. Đối
với học sinh không học đều các môn thì các em sẽ có cơ hội được khẳng định ưu
thế của mình ở các môn học sở trường có liên quan đến bài "Thông tin về ngày
Trái đất 2000". Ví dụ: Học sinh không có ưu thế về môn Ngữ văn nhưng khi
tích hợp các môn thuộc sở trường của các em trong giờ Văn thì bản thân các em
cũng thấy hứng thú trong giờ học hơn khi trong một giờ Ngữ văn còn có màu sắc
của Mĩ Thuật, âm thanh của Âm nhạc, các vùng miền, phong tục trên thế giới
thông qua bộ môn Địa lý, các hiện tượng trong đời sống được lý giải qua bộ môn
Hóa học...
Bên cạnh việc người học trở thành trung tâm thì dạy học theo hướng tích
hợp rất thành công trong việc định hướng, phân hóa năng lực người học, qua đó
giáo viên có thể đưa ra nhiều biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Hạn chế:
Việc tích hợp kiến thức liên môn đòi hỏi mỗi giáo viên phải có nhiều thời
gian nghiên cứu, tìm tòi những nội dung kiến thức liên quan nên phần lớn giáo
viên còn ngại liên kết, tích hợp. Hơn nữa, dạy học tích hợp là dạy theo kiểu tư
vấn, theo hướng cá thể hóa nên việc thành công sẽ dễ dàng hơn với lớp học có sĩ
số thấp, khoảng 20 HS/lớp mới đạt hiệu quả. Với trường THCS Lê Hồng Phong
thì số học sinh dao động là 35-40 học sinh/lớp. Chính vì điều này, giáo viên sẽ
khó có thể đạt được thành công một cách tối đa theo đúng ý nghĩa mà việc dạy
học theo chủ đề tích hợp mang lại./
II.2.3. Mặt mạnh – mặt yếu:
Mặt mạnh:
Nằm trong mục tiêu lâu dài của giáo dục, tích hợp kiến thức liên môn
luôn là mối quan tâm của các cán bộ, giáo viên. Nó là một trong các phương
pháp đổi mới cơ bản, quan trọng để người học xác định đúng mục tiêu của việc
học: HỌC ĐỂ BIẾT; HỌC ĐỂ LÀM; HỌC ĐỂ CHUNG SỐNG và HỌC
ĐỂ LÀM NGƯỜI.
Vì lẽ đó, khi nghiên cứu về đề tài này, tôi luôn nhận được sự hỗ trợ, đóng
góp ý kiến rất thiết thực và sâu sắc của chuyên môn, các bạn đồng nghiệp ở các
môn: Lịch sử, Âm nhạc, Mĩ thuật, Hóa học, Sinh học …
Có thể mỗi giáo viên ở các phân môn khác nhau đều có một cách làm khác
nhau nhưng kết quả đều hướng về một mục tiêu chung, đó là thực hiện theo nội
dung kế hoạch của nhà trường nhằm đạt được mục đích, kế hoạch mà nhà trường
đề ra, giúp Hs đạt được kết quả học tập tốt nhất và có thể áp dụng kiến thức mình
học được vào thực tiễn. Vì vậy đề tài này rất hi vọng có thể áp dụng rộng rãi
không chỉ ở riêng trường mà tôi đang công tác.
Mặt yếu:
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
6
Tích hợp kiến thức liên môn đòi hỏi phải có sự góp mặt, hợp tác của ít
nhất là một môn học khác, trong khi giáo viên ở một bộ môn chỉ nắm chắc kiến
thức môn học mình đảm nhiệm thế nên khi dạy học theo hướng này, giáo viên
phải tự tìm tòi, nghiên cứu kiến thức ngoài bộ môn của mình và nhờ sự góp ý về
kiến thức ở các môn khác nên đôi khi có sự bị động nhất định.
II.2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Hiện nay chúng ta đang dạy – học theo định hướng nội dung, phát triển
năng lực người học vì thế thực tiễn đặt ra là phải đổi mới để sau mỗi tiết học,
học sinh biết gì, hiểu thêm về điều gì và hình thành năng lực gì… Tuy nhiên,
việc đổi mới phương pháp dạy học không thể áp dụng dàn trải một sớm, một
chiều được, nó còn phụ thuộc nhiều yếu tố, chẳng hạn: Phương tiện dạy học, cơ
sở vật chất… Bên cạnh đó là tâm lý ngại thay đổi, khi dạy học theo hướng tích
hợp, giáo viên phải tìm tòi nhiều hơn những kiến thức ngoài chuyên môn của
mình, ngoài ra, còn phải lọc những nội dung tích hợp để không dạy ở phần sau.
Đến giữa năm 2016 Bộ sẽ thống nhất được chương trình trong việc đổi mới
sách giáo khoa, tuy nhiên “Giáo viên là điều cốt lõi nhất. Sách giáo khoa dù
hay đến đâu mà không có đội ngũ giáo viên giỏi thì cũng rất khó” – Tiến sĩ
Nguyễn Anh Dũng, nguyên Phó viện trưởng Viện Khoa học giáo dục VN
(thành viên Ban Chỉ đạo đổi mới chương trình sách giáo khoa của Bộ GD-ĐT)
nhấn mạnh.
Việc chuẩn bị trong việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó chú
trọng về dạy học tích hợp, liên môn trong các môn học nói chung và trong bộ
môn Ngữ văn nói riêng sẽ là một bước chuẩn bị quan trọng để hướng tới áp
dụng bộ khung sách giáo khoa mới trong năm 2016/.
II.2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng:
Ở phần này, tôi xin được đề cập đến 2 vấn đề:
Thứ nhất, những ưu điểm trong việc dạy học tích hợp liên môn và những khó khăn
có thể gặp phải:
Theo phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục (Bộ GD-ĐT) Nguyễn Xuân Thành khẳng
định: “Việc thực hiện tích hợp, liên môn có thể có chút khó khăn đối với giáo viên, do
việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác.”
Có thể minh họa cho thực trạng này theo hình ảnh như sau:
Các gam màu trong ½ bức tranh phía trên tương ứng cho những kiến thức
khác nhau ở các lĩnh vực, bộ môn khác nhau mà nhà trường trang bị cho học
sinh: có rất nhiều môn học: Văn học, Địa lý, Toán, Mỹ thuật, Lịch sử, Sinh học...
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
7
đầy đủ, toàn diện nhưng đó chỉ là một màu đơn, độc lập, trong khi thực tiễn cuộc
sống đòi hỏi phải có sự tích hợp, hòa trộn, trộn lẫn các mảng, màu kiến thức
riêng biệt thành phức hợp, đa màu như ½ bức tranh bên dưới. Để có thể giải
quyết vấn đề thực tiễn nào đó trong cuộc sống mà các em gặp phải thì cần có sự
vận dụng kiến thức liên môn từ nhiều môn học. Như thế, tích hợp, liên môn là
tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành một chủ đề, đưa kiến
thức từ đời sống đến bài dạy, đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết các
tình huống trong thực tiễn cuộc sống, phải xác định các nội dung kiến thức liên
quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học; nó là sự hợp nhất, hướng tới mục
tiêu đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn
học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ
quyền quốc gia về biên giới-biển-đảo; bảo vệ môi trường. Nhưng ưu điểm của
việc dạy – học theo hướng này rất rõ ràng, học sinh không chỉ học được những
kiến thức mới trên cơ sở vận dụng những kiến thức có được ở các môn khác mà
các em còn biết vận dụng nó vào thực tiễn thông qua việc học. Tuy nhiên cũng
không thể phủ nhận một thực trạng đó là giáo viên dạy theo hướng tích hợp liên
môn phải tìm tòi, vận dụng kiến thức ngoài chuyên môn của mình nên gặp không
ít trở ngại về thời gian và cách thức tìm tòi, dẫn đến nhiều giáo viên còn ngại áp
dụng dạy học theo hướng tích hợp, liên môn.
Thực tế cho thấy, việc dạy học không áp dụng phương pháp đổi mới hoặc
không tích hợp, liên môn thì học sinh còn khá thụ động và không tích cực chuẩn
bị, tìm tòi, nghiên cứu. Đặc biệt là trong giờ Ngữ văn, các em thường tiếp thu
kiến thức một chiều, giáo viên nói gì, giảng gì thì các em nghe như thế và ghi
theo như thế mà không tự đặt ra câu hỏi, không tự tìm ra kiến thức cho mình.
Thứ hai, xuất phát từ thực trạng việc học văn bản nhật dụng của học
sinh. Đây là những văn bản không thuộc đặc trưng thể loại nhưng lại có thể vận
dụng các phương thức biểu đạt khác nhau của các thể loại văn học khác nên khi
viết một vấn đề có tính chất thời sự ở địa phương, cuộc sống xung quanh thì tôi
nhận thấy ở một số học sinh còn lúng túng hoặc thiếu tự tin. Ví dụ: Trong bài
Tập làm văn số 5 – chương trình Ngữ văn lớp 9, tôi tích hợp phân môn Tập làm
văn với văn bản nhật dụng để học sinh viết bài nghị luận về một sự việc, hiện
tượng trong đời sống ở địa phương các em đang sinh sống, mặc dù vấn đề nghị
luận là gần gũi và các em đã được tiếp cận với văn bản nhật dụng từ lớp 6 nhưng
các em còn lúng túng trong việc thể hiện cách nhìn nhận, việc đánh giá của học
sinh về thực trạng cũng có những hạn chế nhất định dù các em đã được học các
văn bản nhật dụng đề cập đến vấn đề này. Khoảng 10% kiến thức của bộ môn
Ngữ văn thuộc về văn bản nhật dụng, nếu khai thác tốt các nội dung, vấn đề mà
loại văn bản này đề cập thì việc giáo dục kiến thức thực tế cho học sinh sẽ rất
thiết thực, gần gũi đặc biệt và việc giáo dục này gắn liền với tích hợp, liên môn.
Với đề tài về môi trường, tại trường tôi đang công tác có số học sinh đông nhất,
nhì trong huyện thì việc giữ gìn, bảo vệ môi trường chung cũng là vấn đề khá nổi
cộm, ý thức bảo vệ môi trường chưa cao, các em còn xả rác bừa bãi, tùy tiện, thế
nên việc rèn luyện cho các em ý thức để rác đúng nơi quy đinh, hạn chế việc sử
dụng bao bì ni lông, bảo vệ môi trường thông qua giờ học tích hợp, liên môn sẽ
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
8
giúp các em có cái nhìn cụ thể hơn, thái độ thiết thực hơn, hành động tích cực
hơn trong việc tham gia bảo vệ môi trường chung. Các em sẽ áp dụng kiến thức
được học để giải quyết một vấn đề thực tiễn rất thực tế và thiết thực./
(Điều này, sẽ thể hiện ở phần cuối của đề tài với chính sản phẩm của
các em được hoàn thành sau khi học tiết thực nghiệm này.)
II.3. GIẢI PHÁP – BIỆN PHÁP:
II.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Tất cả các giải pháp, phương hướng, sự đổi mới… đều hướng tới một mục
tiêu chung đó là sẽ giúp người học hình thành những kiến thức, kỹ năng mới,
phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề
trong học tập và thực tiễn cuộc sống, nhằm đào tạo những con người có năng lực
phát triển và giải quyết các vấn đề đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế - xã hội thời
kỳ hội nhập, tích hợp kiến thực liên môn trong môn Ngữ văn nói riêng và các
phân môn khác nói chung cũng không nằm ngoài mục tiêu này.
Có thể minh họa cụ thể mục tiêu của giải pháp, biện pháp theo hình ảnh sau:
Dạy học theo cách truyền thống, mỗi giáo viên phải gánh một lượng kiến
thức lớn, nhưng khi dạy học theo hướng tích hợp, liên môn thì gánh nặng này đã
giảm được phân nửa trong khi hiệu quả lại rất cao. Đây cũng chính là mục tiêu
và ưu điểm của dạy học tích hợp, liên môn.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu đề tài này, tôi hướng tới mục tiêu là lấy
người học làm trung tâm, dưới sự định hướng của giáo viên học sinh tự chiếm
lĩnh tri thức, hình thành các năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề.
Ngoài ra, khi dạy học theo chủ đề tích hợp, liên môn các tác phẩm nhật
dụng mỗi học sinh sẽ cảm thấy hứng thú trong việc học, bởi vì những chủ đề tích
hợp thường gắn với thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn, thu hút đối với học sinh
hơn. Những hiểu biết có được sau tiết học của các em sẽ vượt những nội dung
cần học nhờ quá trình tìm kiếm, xử lý thông tin ngoài nguồn tài liệu chính thức
của học sinh. Các em hiểu đúng ý nghĩa thời sự được cập nhật trong văn bản nhật
dụng.
Một điều quan trọng, khi tiếp cận với bài học theo hướng tích hợp, liên
môn thì học sinh tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp mà mình chiếm lĩnh
được để giải quyết các vấn đề từ thực tiễn mà không phải ghi nhớ kiến thức một
cách thụ động, máy móc và rõ ràng, các em sẽ không gặp áp lực, tránh được việc
học quá tải, không còn cảm thấy nhàm chán trong giờ học. Đặc biệt, văn bản
nhật dụng hay viết về những vấn đề bức thiết, mang tính thời sự nên rất dễ để
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS
9
giúp các em học sinh hoà nhập với cuộc sống xã hội, rút ngắn khoảng cách giữa
nhà trường và xã hội tích hợp kiến thức liên môn, Đây là những mục tiêu mà
theo tôi, bất cứ phân môn nào cũng muốn hướng tới, đạt được. Ngoài ra, giáo
viên sẽ không phải gồng gánh những kiến thức nặng, công việc mà giáo viên
đảm nhiệm sẽ nhẹ nhàng và hiệu quả hơn nếu tích hợp, liên môn.
Thêm một mục tiêu nữa mà tôi hướng tới khi đề ra các giải pháp, biện
pháp đó là: các em sẽ biết tổng hợp những kiến thức và kĩ năng mà các em đã
được hình thành ở các môn học để giải quyết trước hết là nhiệm vụ học tập, sau
nữa là vận dụng, tích hợp những kiến thức đó để giải quyết vấn đề mang tính
thực tiễn, có nghĩa là các em không dừng lại ở lý thuyết suông mà biết cách thực
hành, vận hành nó. Tức là sẽ trang bị kiến thức và trau dồi tư tưởng, tình cảm,
thái độ – đúng với mục tiêu của việc dạy–học văn bản nhật dụng.
II.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Như đã nói, cách dạy truyền thống hay dạy theo chủ đề tích hợp, liên
môn thì nền tảng vẫn là coi trọng việc lĩnh hội nội dung kiến thức của học sinh.
Tuy nhiên cách thức để học sinh lĩnh hội kiến thức có khác nhau.
Xin viện dẫn một ví dụ:
Khi giải thích câu thành ngữ: "Nước chảy đá mòn", giáo viên có thể tích
hợp kiến thức liên môn với bộ môn Hóa học.
Giáo viên hỏi học sinh về thành phần của đá là gì? Các em hoàn toàn có thể trả
lời chính xác dựa trên kiến thức Hóa học đã được cung cấp, đó là: CaCO3 (Canxi
cacbonat). Tiếp theo, chúng ta đưa ra một giả thiết là: Khi đá gặp nước mưa và
CO2 (Cacbonic) trong không khí thì sẽ chuyển hóa như thế nào?
Bằng kiến thức đã học ở môn Hóa học, các em dễ dàng hình thành phương trình
hóa học:
CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2 – Sản phẩm tạo ra là muối Canxit
hidrocacbonat (muối tan)
Giáo viên có thể định hướng cho học sinh hiểu: Ban đầu là đá với thành
phần chính CaCO3, khi gặp nước mưa sẽ chuyển hóa thành muối tan Ca(HCO3)2
có thể bị hòa tan, bào mòn khi gặp nước. Như thế, theo thời gian nước mưa sẽ
làm cho đá bị bào mòn dần – Sau khi giải thích kiến thức theo cách thực tế, các
em sẽ hiểu về nghĩa đen của câu thành ngữ này. Từ đó, chúng ta định hướng,
giúp học sinh hiểu bài học (nghĩa chuyển) mà câu thành ngữ này gửi gắm: Có
kiên trì, cố gắng thì mọi công việc dù khó khăn cũng sẽ làm được.
Tất nhiên những vấn đề ngoài chuyên môn của chúng ta thì sẽ có cái khó
nhất định để có thể truyền giảng cho học sinh, điều này đòi hỏi mỗi giáo viên cần
đầu tư, tìm tòi. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ về việc tích hợp kiến thức bộ môn Hóa
học trong tiết Ngữ văn, theo tôi trước khi thực hiện một tiết dạy theo hướng tích
hợp kiến thức liên môn cần thực hiện các bước cụ thể như sau:
II.3.2. 1. Xác đinh rõ các nguyên tắc của việc dạy – học theo hướng
tích hợp, liên môn:
Để tránh nhầm lẫn giữa tích hợp liên môn và tích hợp đa môn thì người
dạy phải xác định rõ: Tích hợp liên môn tức là các dạng hợp tác giữa các môn
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 10
học, là sự tương tác quan trọng giữa các môn học để chuyển tải đến học sinh
những chủ đề giáo dục lồng ghép;
Tích hợp đa môn có thể hiểu là các môn học được đặt cạnh nhau một cách
đơn giản, chỉ là đề cập, nhắc tới và không tập trung vào việc tích hợp chúng để
chuyển tải một chủ đề nào khác. Ví dụ : Khi đưa ra số liệu là tích hợp được môn
toán, trình chiếu bài giảng trên máy tính là tích hợp tin học, dùng các từ khóa
tiếng Anh là tích hợp ngoại ngữ, thông tin cảnh báo là tích hợp giáo dục công
dân… (Ví dụ lấy từ Internet)
Tất cả các chủ đề liên môn đều phải có mặt ít nhất là hai môn học trở lên
để bổ sung, để giải quyết một vấn đề phức hợp mà một môn không thể giải quyết
được. Riêng bộ môn Ngữ văn, vẫn có sự tích hợp trong nội bộ phân môn đó là
Văn bản, tiếng Việt và Tập làm văn, các phân môn này luôn có sự bổ sung không
tách rời các kiến thức nhằm giải quyết những tình huống tích hợp hoặc những
vấn đề thuộc từng phân môn.
Phải có sự hợp tác của đại diện các môn học – điều này là quan trọng và
cần thiết vì mỗi giáo viên chỉ đảm nhiệm một phân môn và gần như chỉ nắm rõ,
nắm sâu kiến thức của bộ môn mình phụ trách, trong khi tích hợp liên môn là đòi
hỏi phải có kiến thức của ít nhất một phân môn khác, thế nên cần thiết phải có sự
hợp tác của đại diện các môn học mà mình sẽ tích hợp. Kết quả đạt được của tích
hợp và hợp tác phải được thể hiện dưới dạng tổng hợp. Như vậy, từ khái niệm
liên môn, có thể khái quát thành 3 nguyên tắc cơ bản của việc dạy, học theo
hướng tích hợp – liên môn đó là: Tích hợp, hợp tác và tổng hợp.
II.3.2. 2. Sau khi xác đinh rõ các nguyên tắc tích hợp, liên môn, chúng
ta cần xây dựng mục tiêu thích hợp:
Dạy học tích hợp, liên môn là để phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo,
bồi dưỡng và phát triển các năng lực cần thiết cho học sinh: năng lực hành động,
năng lực cộng tác làm việc của người học… Thúc đẩy khả năng nhận thức, phân
tích, tổng hợp, đánh giá của người học ở mức độ cao hơn. Từ mục tiêu này người
dạy sẽ xác định kiến thức của các môn học khác có thể tích hợp và tính tới khả
năng đóng góp của các môn này, từ đó hướng tới việc lựa chọn chủ đề.
II.3.2. 3. Xây dựng và lựa chọn chủ đề:
Trước khi tiến hành dạy học tích hợp liên môn, cần xây dựng chủ đề để
huy động kiến thức cần thiết ở các môn khác để xử lí, giải quyết vấn đề không
chỉ của một môn học. Trong rất nhiều các chủ đề, nội dung giáo dục cần thiết,
chúng ta lựa chọn một chủ đề hoặc gần gũi, hoặc mang tính thách thức, kích
thích người học dấn thân vào quá trình suy nghĩ và làm việc là điều cần thiết
trong dạy học theo hướng tích hợp, liên môn. Bộ môn Ngữ văn nói chung thuộc
vào nhóm khoa học – xã hội, trong đó các văn bản nhật dụng có tầm quan trọng
trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh. Có rất
nhiều chủ đề có thể tích hợp giữa môn Ngữ văn với các môn khác ở tất cả các
khối, lớp. Tôi xin trình bày cụ thể từng văn bản nhật dụng trong chương trình
Ngữ văn THCS.
Hệ thống văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS:
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 11
Khối 6: Có các văn bản nhật dụng: Cầu Long Biên – chứng nhân lịch
sử; Động Phong Nha; Bức thư của thủ lĩnh da đỏ.
Khi dạy bài “Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử” giáo viên khai thác
chủ đề di tích lịch sử - Giáo dục sự tự hào và ý thức bảo tồn những di tích
lịch sử. Ở bài này, có thể tích hợp kiến thức môn Lịch sử bài “Miền Bắc chống
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mĩ – 1965 – 1968”. Giáo viên có
thể hỏi học sinh về những cuộc chiến tranh đã đi qua trên cây cầu này để học
sinh thấy được sự kiên cường, vững vàng trong những năm tháng kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ của cầu Long Biên – cây cầu có chiều dài lớn thứ hai
thế giới và nổi bật nhất Viễn Đông lúc bấy giờ, cầu Long Biên đã bị ném bom 14
lần, đã có 9 nhịp cầu bị đánh gục và 4 trụ bị hư hỏng nặng nhưng cầu Long Biên
vẫn nằm đó, Hơn một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến biết bao sự kiện
lịch sử hào hùng bi tráng của Hà Nội. Tuy đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng
cầu Long Biên vẫn mãi trở thành một chứng nhân lịch sử không chỉ riêng Hà
Nội mà của cả nước.
Đối với bài “Động Phong Nha”, giáo viên tích hợp kiến thức môn Địa Lý về
vị trí địa lý của động Phong Nha, tỉnh Quảng Bình để học sinh thấy rõ vấn đề
bảo vệ môi trường, danh lam thắng cảnh.
Ngoài ra, khi hỏi học sinh về vẻ đẹp của động Phong Nha, giáo viên gợi ý để
học sinh thấy được vẻ đẹp “lộng lẫy và kỳ ảo” của Động khô và Động nước ở
đây bằng câu hỏi tích hợp môn Hóa học: Thạch nhũ là gì? (Thạch nhũ là sản
phẩm hình thành trong các hang động do sự nhỏ giọt của dung dịch đá vôi hòa
tan trong nước có chứa a-xít các-bô-níc.)
Cũng câu hỏi Thạch nhũ là gì? Giáo viên tích hợp với kiến thức bộ môn Địa
lý để học sinh thấy được rõ hơn vẻ đẹp của động Phong Nha: Nhũ đá hay thạch
nhũ được hình thành do cặn của nước nhỏ giọt đọng lại trải qua hàng trăm,
nghìn năm. Nó là khoáng vật hang động thứ sinh treo trên trần hay tường của
các hang động.
Ở văn bản “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ”, đề cập đến trách nhiệm của con
người với thiên nhiên và môi trường sống. Với chủ đề này, người dạy có thể
tích hợp kiến thức ở các môn:
Giáo dục công dân 6: Bài 7: Yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên
nhiên; Giáo dục công dân 7: Bài 14: Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên.
Địa lý 7: Khái quát Châu Mĩ
Địa lý 7: Sự phân bố dân cư và các chủng tộc trên thế giới
Mĩ Thuật: Hs vẽ tranh về bảo vệ môi trường
Lịch sử 7: Những cuộc phát kiến địa lý
Lịch sử 8: Chủ nghĩa Tư bản được xác lập trên phạm vi toàn thế giới.
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 12
Ví dụ: Em hãy nêu hiểu biết của mình về vai trò của không khí và động vật
đối với cuộc sống con người? Với câu hỏi này, học sinh có thể vận dụng kiến
thức Giáo dục công dân 6: Bài 7: Yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên
nhiên để trả lời, từ đó các em biết hành động cho đúng để bảo vệ môi trường
sống.
Khối 7: Có các văn bản nhật dụng:
Văn bản “Cổng trường mở ra”: Với chủ đề: Tấm lòng yêu thương và tình
cảm sâu nặng của người mẹ đối với con cái; vai trò to lớn của nhà trường
đối với cuộc sống của mỗi con người. Theo tôi, có thể tích hợp môn Giáo dục
công dân 6 – Quyền và nghĩa vụ học tập.
Văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê” nói về chủ đề Quyền trẻ
em, giáo dục mọi người hãy cố gắng bảo vệ và giữ gìn tổ ấm gia đình.
Tích hợp môn Giáo dục công dân 6 bài: Công ước Liên hợp quốc về quyền
trẻ em.
Văn bản “Mẹ tôi”: Để học sinh thấy được tình thương yêu của cha mẹ với
con cái, từ đó có những thái độ, hành động đúng mực để đáp lại tình cảm
đó, khi dạy văn bản này, giáo viên có thể khởi động bằng việc tích hợp môn Âm
nhạc, cho học sinh nghe các ca khúc về mẹ “Mẹ tôi”, “Lời ru cho con”
Văn bản “Ca Huế trên sông Hương” nói về chủ Văn hóa, sẽ tích hợp môn
Giáo dục công dân 7 – Bảo vệ di sản văn hóa; Tích hợp môn Giáo dục công
dân 9 – Kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tích hợp môn Âm nhạc: Cho học sinh nghe một làn điệu dân ca Huế quen
thuộc diễn tả lòng khát khao, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế.
Để học sinh có cái nhìn ban đầu về ca Huế trên sông Hương.
Khối 8: Có các văn bản nhật dụng:
Văn bản “Thông tin về ngày trái đất năm 2000”: Làm sáng tỏ nội dung: tác
hại của việc dùng bao ni lông, về lợi ích của việc giảm bớt chất thải ni lông
đã gợi cho chúng ta những việc có thể làm ngay để cải thiện môi trường
sống, để bảo vệ trái đất - ngôi nhà chung của chúng ta. Có thể tích hợp kiến
thức về Toán 6: Bài 5 chương III: Tìm một số biết giá trị phân số khi Tính số
liệu bao bì ni lông thải ra hằng ngày vào môi trường;
Kiến thức Sinh học 6: Bài 11. Sự hút nước và muối khoáng của rễ sẽ cho học
sinh hiểu hơn tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông khi lẫn vào đất, vứt xuống
cống rãnh sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của sinh vật;
Môn Hóa học 9 bài 34: Hợp chất hữu cơ, hóa học hữu cơ: Học sinh sẽ nắm rõ
hơn nguyên nhân gây ra những tác hại từ bao bì ni lông do đặc tính không phân
hủy của Plastic.
Môn Sinh học 9 Bài 53: Tác động của con người đối với môi trường (phần
III); Môn Giáo dục công dân 7: Bài 17 Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên - học sinh sẽ có ý thức và trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường;
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 13
Giúp học sinh hiểu rõ về các biện pháp hạn chế sử dụng bao bì ni lông: Kiến
thức Môn Sinh học 9 Bài: Tác động của con người đối với môi trường (Phần
III).
Qua các môn Âm nhạc, Mĩ thuật học sinh cũng sẽ thấy rõ hơn về ý nghĩa của
việc bảo vệ môi trường (Kiến thức Âm nhạc 8 Bài 7 Ngôi nhà chung của chúng
ta); Ngoài ra, học sinh cũng có thể rèn luyện và thực hành môn Mĩ thuật khi vẽ
tranh bảo vệ môi trường (Kiến thức bài 20 Mĩ thuật 7).
Văn bản “Ôn dịch, thuốc lá”: Nói đến nạn nghiện thuốc lá rất dễ lây
lan và gây những tổn thất to lớn cho sức khỏe và tính mạng con người, tích
hợp kiến thức các môn:
Toán 6: Bài 15 chương III: Tìm một số biết giá trị phân số.
Sinh học 8: Đại dịch AIDS – Thảm họa của loài người
Mĩ Thuật 8: Vẽ tranh đề tài
Văn bản “ Bài toán dân số”: Với chủ đề dân số, khi nói đến nội dung nếu
không hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình, theo tôi
nên tích hợp:
Tích hợp kiến thức Địa lý lớp 7: Bài 1: Dân số; Bài 2: Sự phân bố dân cư
Tích hợp kiến thức Địa lý lớp 9: Bài 2: Dân số và sự gia tăng dân số
Bài 4: Lao động và việc làm
Tích hợp kiến thức Giáo dục công dân lớp 9 - Bài 12: Quyền và nghĩa
vụ của công dân.
Tích hợp kiến thức Toán 6: Bài 15: Tìm một số biết giá trị phân số.
Khối 9: Có các văn bản nhật dụng:
Văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”: Để học sinh thấy được vẻ đẹp
trong phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa vĩ đại và giản dị. Có thể tích hợp:
Tích hợp kiến thức Giáo dục công dân lớp 7: Sống giản dị
Tích hợp kiến thức Âm nhạc: Cho học sinh nghe các bài hát về tính giản
dị của Bác: Đôi dép Bác Hồ; Âm nhạc 6: Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu
niên nhi đồng.
Tích hợp kiến thức Lịch sử 9 – bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở
nước ngoài; Bài 18: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”:
Tích hợp kiến thức Âm nhạc 7: “Chúng em cần thế giới hòa bình” thể
hiện khát vọng hòa bình.
Mĩ Thuật 6,7,8: Hs vẽ tranh theo đề tài, tuyên truyền bảo vệ hòa bình
Tích hợp kiến thức Lịch sử lớp 8: Hs nhớ lại cuộc chiến tranh thế giới thứ
II khi Mĩ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirosima và Nagasak của
Nhật Bản, từ đó các em sẽ thấy việc đấu tranh cho hòa bình, ngăn chặn và xóa
nguy cơ chiến tranh hạt nhân là nhiệm vụ thiết thân và cấp bách của mỗi người,
của toàn thể loài người.
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 14
Văn bản “Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ, phát
triển của trẻ em.” – giúp các em thấy rõ về quyền trẻ em, có thể Tích hợp
môn Giáo dục công dân 6: Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Tích hợp môn Giáo dục công dân 7 – bài 13: Quyền được bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục của trẻ em Việt Nam.
Tích hợp môn Âm nhạc: Bài Thiếu nhi thế giới liên hoan - lớp 4 chương
trình Tiểu học.
Tích hợp môn Âm nhạc 7: Bài 3: Chúng em cần hòa bình.
Qua thực tế giảng dạy tích hợp, tôi nhận thấy việc lựa chọn những chủ đề gắn
liền với thực tiễn, với nhu cầu của người học sẽ có nhiều cơ hội để dạy tích hợp
liên môn và tích hợp liên môn có hiệu quả.
Một điều cũng cần lưu ý là không phải chủ đề nào cũng có thể dạy học theo
hướng tích hợp, liên môn.
II.3.2. 4. Sau khi lựa chọn chủ đề tích hợp, giáo viên sẽ nghiên cứu bài
dạy liên quan đến chủ đề đó, dự kiến các môn học, các nội dung sẽ tích hợp
trong bài để làm rõ chủ đề đã chọn. Đây còn gọi là tiến trình sư phạm trong
dạy tích hợp liên môn.
Nội dung này, SKKN của tôi sẽ tập trung vào việc dẫn dắt, mô tả từng
khía cạnh của vấn đề qua các bước cụ thể của quy trình thiết kế một bài học, tính
mới và giải pháp thực hiện sẽ được chứng minh qua một tiết dạy theo chủ đề tích
hợp kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn.
(Phần này kèm bài giảng Powerpoint)
MÔ TẢ QUA CẤU TRÚC MỘT BÀI HỌC CỤ THỂ:
Văn bản: THÔNG
TIN VỀ NGÀY TRÁI ĐẤT
NĂM 2000 (Văn bản nhật dụng)
(Theo tài liệu của Sở KH-CN Hà Nội)
A- Mục tiêu cần đạt:
1. Kiến thức: Giúp học sinh thấy được:
- Thói quen dùng túi ni lông và mối nguy hại đến môi trường sống và sức khỏe
con người.
- Ý nghĩa to lớn của việc bảo vệ môi trường. Từ đó có những suy nghĩ và hành
đông tích cực về vấn đề xử lí rác thải sinh hoạt.
- Tính thuyết phục trong cách thuyết minh và những kiến nghị mà tác giả đề xuất
trong văn bản.
2. Kĩ năng:
- Tích hợp phần tập làm văn để viết bài văn thuyết minh.
- Đọc – hiểu một văn bản nhật dụng đề cập đến một vấn đề xã hội bức thiết
- Rèn kỹ năng vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề về môi
trường. Đặc biệt là rác thải bao bì ni lông.
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 15
- Kỹ năng liên kết các kiến thức giữa các phân môn.
- Kỹ năng khái quát nội dung bài học bằng sơ đồ tư duy.
- Kỹ năng ra quyết định khi vận dụng kiến thức vào thực tế.
- Kỹ năng lắng nghe và hoạt động nhóm.
- Rèn kỹ năng khai thác tranh, khai thác thông tin.
3 .Thái độ:
- Giáo dục học sinh bảo vệ môi trường.
- Giúp học sinh thêm yêu thiên nhiên và có ý thức bảo vệ thiên nhiên.
- Rèn ý thức, tinh thần tham gia môn học.
- Yêu thích môn Ngữ văn cũng như các môn khoa học khác như: Giáo dục công
dân, Toán học, Hóa học, Sinh học, Âm nhạc, Mỹ thuật.
- Có suy nghĩ tích cực về những việc tương tự khác trong vấn đề xử lý rác thải
sinh hoạt và vận động mọi người cùng thực hiện khi có điều kiện.
- Có ý thức, thói quen hạn chế sử dụng bao bì ni lông và dùng chất liệu khác
thay thế bao bì ni lông.
B- Chuẩn bị:
1. Giáo viên:
- Đoạn clip về việc sử dụng bao bì ni lông hiện nay của người dân Việt Nam.
- Các kiến thức có thể tích hợp liên môn trong bài học: Có thể tích hợp kiến thức
về Toán 6: Bài 5 chương III: Tìm một số biết giá trị phân số khi Tính số liệu
bao bì ni lông thải ra hằng ngày vào môi trường;
Kiến thức Sinh học 6: Bài 11. Sự hút nước và muối khoáng của rễ sẽ cho học
sinh hiểu hơn tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông khi lẫn vào đất, vứt xuống
cống rãnh sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của sinh vật;
Môn Hóa học 9 bài 34: Hợp chất hữu cơ, hóa học hữu cơ: Học sinh sẽ nắm rõ
hơn nguyên nhân gây ra những tác hại từ bao bì ni lông do đặc tính không phân
hủy của Plastic.
Môn Sinh học 9 Bài 53: Tác động của con người đối với môi trường (phần
III); Môn Giáo dục công dân 7: Bài 17 Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên - học sinh sẽ có ý thức và trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường;
Giúp học sinh hiểu rõ về các biện pháp hạn chế sử dụng bao bì ni lông: Kiến
thức Môn Sinh học 9 Bài: Tác động của con người đối với môi trường (Phần
III).
Qua các môn Âm nhạc, Mĩ thuật học sinh cũng sẽ thấy rõ hơn về ý nghĩa của
việc bảo vệ môi trường (Kiến thức Âm nhạc 8 Bài 7 Ngôi nhà chung của chúng
ta); Ngoài ra, học sinh cũng có thể rèn luyện và thực hành môn Mĩ thuật khi vẽ
tranh bảo vệ môi trường (Kiến thức bài 20 Mĩ thuật 7).
2. Học sinh:
- Soạn bài, tìm hiểu tình hình dùng bao bì nilông ở địa phương mình.
- Tranh, ảnh về môi trường; Bảng nhóm.
C .Hoạt động dạy học:
1. Ổn định lớp:
2. Giới thiệu bài mới: (1’)
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 16
Giới thiệu bài mới và ghi tiêu đề lên bảng:
Cho HS xem đoạn clip về việc sử dụng bao bì ni lông hiện nay của người
dân Việt Nam. (có Clip đính kèm)
Bài mới:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
I. Đọc – tìm hiểu chung: (7’)
1. Đọc:
Yêu cầu: Đọc: rõ ràng, rành mạch, phát âm
đúng các thuật ngữ chuyên môn.
Gọi học sinh đọc văn bản
- Đọc chú thích: 1, 4, 5, 6, 7 ?
- GV nói thêm về hai chú thích:
1/ Ô nhiễm: gây bẩn, làm bẩn, gây hại.
2/ Plastic (chất dẻo, nhựa): Vật liệu tổng hợp gồm
các phân tử pôlime.
Túi ni lông được sản xuất từ hạt pôliêtilen và
nhựa tái chế. Các loại ni lông, nhựa có một đặc
tính chung là không thể tự phân huỷ, không thể tự
biến hoá do thời gian, do côn trùng và do các nấm
sống phân huỷ như các chất hữu cơ hoặc vô cơ
khác. Nếu không bị đốt (thiêu huỷ) túi ni lông và
nhựa có thể tồn tại từ 20 năm - 5000 năm.
2. Bố cục:
? Hs trung bình, khá: Yêu cầu hs xác định bố cục
Gv trình chiếu bố cục của văn bản
-> 3 phần:
3. Kiểu loại văn bản:
HS nghe
HS đọc theo hướng dẫn
Đọc phần chú thích 1, 4, 5, 6, 7
Nghe và ghi
Nêu bố cục
+ P1: Từ đầu...-> “1 ngày không
sử dụng bao bì ni lông.”
-> Thông báo về ngày trái đất
2000”
+ P2: Như chúng ta đã biết...->
“Đối với môi trường.”
-> Tác hại của việc sử dụng bao
bì ni lông và 1 số giải pháp nhằm
ngăn chặn nó.
+ P3: Còn lại
-> Lời kêu gọi mọi người bảo vệ
môi trường.
?Câu hỏi tái hiện dành cho Hs trung bình-yếu:
Văn bản được sáng tác theo thể loại nào?
Hs trung bình-yếu: Văn bản nhật
? Câu hỏi dành cho Hs Trung bình – khá: Y/c hs dụng thuyết minh vấn đề khoa học
tự nhiên.
nhắc lại văn bản nhật dụng là gì?
Kết luận:
HS suy nghĩ, trả lời: Văn bản nhật
Gv trình chiếu khái niệm và ví dụ về văn dụng: Nêu những vấn đề thời sự
diễn ra trong cuộc sống hàng ngày,
bản nhật dụng. (Slide 4)
mang ý nghĩa thiết thực đối với
nhân loại.
II. Phân tích:
Quan sát và ghi bài
1. Thông báo về ngày trái đất: (7’)
? Ngay phần đầu, văn bản đã giới thiệu những
nội dung gì? (Câu hỏi tái hiện dành cho Hs trung Hs trung bình – yếu trình bày
bình – yếu)
Ngày 22/4 hàng năm là “ngày trái
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 17
GV trình chiếu về Gaylor Nelson (người sáng
lập ra ngày Trái đất), hình ảnh mittinh, diễu hành
ngày 22/4/1970 và các thông tin về ngày Trái đất
2000: (Slide 7)
- Ngày 22/4 hàng năm là “ngày trái đất” -> nhằm
bảo vệ môi trường.
- Có 141 nước tham dự.
- Năm 2000: VN tham gia với chủ đề “Một ngày
không sử dụng bao bì ni lông”
? Tại sao ngày 22/4 hàng năm được gọi là ngày
trái đất? ? (Câu hỏi dành cho Hs trung bình – khá)
Ngày trái đất được tổ chức hàng năm để bàn về
vấn đề gì?
GV nhận xét.
? Vậy tại sao VN ta lại đưa ra bản thông điệp
này? Ta căn cứ vào đâu? (Câu hỏi dành cho Hs
khá – giỏi)
Gv bổ sung thêm:
Ni lông là một rác thải sinh hoạt gắn với đời
sống, tiện dụng nhưng lại gây ra tác hại với môi
trường sống nên tất cả mọi người trước khi dùng
bao bì ni lông cũng cần có những hiểu biết tối
thiểu về nó để có hướng xử lý, bảo vệ môi trường
sống. Vì vậy đây là vấn đề gần gũi, thiết thực, có
ý nghĩa to lớn đối với mỗi người.
GV trình chiếu các hình ảnh bao bì ni lông sử
dụng tràn lan, phổ biến và nêu câu hỏi: (Slide
8)
? Khi chưa đọc văn bản này, em thấy việc sử
dụng bao bì nilông có lợi và có hại gì? (Câu hỏi
mở dành cho tất cả các đối tượng học sinh)
Gv chuyển ý:
Bao bì nilông gắn liền với đời sống mỗi người
nên không ít người phớt lờ tác hại của chất liệu
này, vì thế bản thông điệp đã trình bày rất rõ
những nguy hại khi dùng bao bì ni lông. Vậy bao
bì nilông có những tác hại gì? Chúng ta làm gì để
xử lí nó? Chúng ta chuyển sang phần 2
2. Tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông và
biện pháp hạn chế sử dụng nó: (15’)
* Y/c HS đọc thầm P2 và thảo luận nhóm 3’
GDKNS: Kỹ năng lắng nghe và hoạt động
nhóm:
GV trình chiếu câu hỏi thảo luận cho 3 nhóm:
đất” -> nhằm bảo vệ môi trường.
Quan sát và ghi bài
Bàn về vấn đề môi trường sống
Căn cứ vào tác hại của việc sử
dụng bao bì nilông.
Nghe và ghi
Quan sát trên máy chiếu
Có lợi: Tiện dụng; màu sắc bắt
mắt; đựng được nhiều đồ...
Hại: ô nhiễm môi trường
Đọc phần 2
- Hs thảo luận nhóm và đại diện
trả lời (3’)
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 18
(Slide 9)
Nhóm 1: Tác hại của việc dùng bao bì ni lông đối
với môi trường thiên nhiên?
Nhóm 2: Tác hại của việc dùng bao bì ni lông đối
với con người?
Nhóm 3: Có những giải pháp nào hạn chế tác hại
của việc sử dụng bao bì ni lông?
Gv nhận xét, bổ sung từng nhóm.
GV trình chiếu nguyên nhân gây ra tác hại của
bao bì ni lông (Slide 10)
Tích hợp: Kỹ năng liên kết các kiến thức giữa
các phân môn; Môn Hóa học 9: Hợp chất hữu
cơ, hóa học hữu cơ: Các hợp chất hữu cơ trong
đó có chất dẻo (plastic)
Gv đặt câu hỏi:
? Plastic là gì? Đặc tính cơ bản của plastic?
(Câu hỏi dành cho Hs yếu)
Gv cho học sinh thấy được nguyên nhân gây hại
của bao bì ni lông: Do tính không phân hủy của
Plastic.
Túi ni lông được sản xuất từ hạt pôliêtilen và
nhựa tái chế. Các loại ni lông, nhựa có một đặc
tính chung là không thể tự phân huỷ. Nếu không
bị đốt (thiêu huỷ) túi ni lông và nhựa có thể tồn
tại từ 20 năm - 5000 năm.
GV trình chiếu hình ảnh về các tác hại của bao
bì ni lông với môi trường thiên nhiên và con
người.
(Slide 11 - Slide 16)
Tích hợp kiến thức môn Sinh học 6: Sự hút
nước và muối khoáng của rễ.
GV đưa ra câu hỏi: (dành cho Hs Tr.bình, yếu)
? Nước có vai trò như thế nào đối với thực vật?
Rút ra kết luận: Bao bì ni lông Lẫn vào đất, rễ
cây sẽ khó hút nước -> cản trở quá trình sinh
trưởng của thực vật -> xói mòn đất
Hs nhận xét chéo phần trình bày
của từng nhóm.
Hs đối chiếu với câu trả lời trên
máy chiếu với kết quả của nhóm
mình.
Dựa vào chú thích để trả lời
Plastic (chất dẻo, nhựa): Vật liệu
tổng hợp gồm các phân tử pôlime.
Nghe & ghi bài
Quan sát trên máy chiếu
Tích hợp kiến thức Sinh học 6 để
trả lời: Tất cả các cây đều cần
nước, nếu không có nước cây sẽ
chết.
Quan sát trên máy chiếu
Kiến thức môn Sinh học lớp 7:
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 19
Thực hành quan sát cấu tạo ngoài và hoạt động
sống của cá:
GV đưa ra câu hỏi:
? Trình bày các hoạt động sống của cá về: Nơi
sống, thức ăn, di chuyển, hô hấp ? (Câu hỏi dành
cho Hs Khá, giỏi)
Gv rút ra kết luận:
Bao bì ni lông làm chết sinh vật khi chúng nuốt
phải
GV trình chiếu hình ảnh về tác hại của bao bì ni
lông:
Tích hợp kiến thức Sinh học 7 để
trả lời
Cá hô hấp bằng mang, các phiến
mang xếp song song và ngược
chiều dòng nước giúp cá hô hấp
tốt, hiệu quả cao. Nếu nuốt phải
bao bì ni lông, khiến cá không thể
hô hấp.
Quan sát trên máy chiếu
Quan sát trên máy chiếu
Làm tắc đường nước thải, gây ngập lụt
-> muỗi phát sinh lây truyền dịch bệnh.
Quan sát trên máy chiếu
-> muỗi phát sinh lây truyền dịch bệnh.
Quan sát trên máy chiếu
SKKN: Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn các văn bản nhật dụng ở THCS 20
- Xem thêm -