CHƯƠNG 1: NGUYÊN LÝ RADAR HÀNG HẢI
Mở đầu
Trường điện từvà sóng vô tuyến điện.
Giảsửcó dòng điện sinh ra khi cho dây dẫn chuyển động trong một từ
trường, thì trong dây dẫn sẽxuất hiện dòng điện, chiều dòng điện trong dây dẫn
sẽthay đổi khi từtrường đổi hướng.
Năng lượng của dòng điện sẽsinh ra dưới dạng nhiệt (năng lượng tiêu hao tỉ
lệvới cường độdòng điện chạy trong dây dẫn và điện trởcủa dây dẫn) và dưới
dạng trường điện từ đồng tâm với dây dẫn. Chiều của trường điện từnày phụ
thuộc chiều của nguồn điện. Nếu ngắt dòng trong dây dẫn thì trường điện từsẽ
giảm về0 sau một khoảng thờigian nhất định.
Nếu cực của nguồn điện được thay đổi luân phiên với tốc độ đủlớn, tương
ứng với khoảng thời gian cần thiết đểtrường điện từsuy giảm về0 như đã trình
bày ởtrên, trường hợp này dây dẫn sẽsinh ra tiếp một trường điện từkhác, có
cường độtỉlệnhưng ngược dấu với trường điện từban đầu.Nhưvậy trường
điện từban đầu được duy trì do xuất hiện trường điện từthứhai. Kết quảlà nó
sẽlan truyền ra ngoài không gian. Đây là nguyên lý cơbản của anten phát radio,
anten này sẽphát ra sóng radio có tần sốtỉlệvới tốc độthay đổi phân cực của
nguồn, tốc độlan truyền tương ứng với tốc độánh sáng.
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
BÀI GIẢNG CHI TIẾT
MÔN MÁY VÔ TUYẾN ĐIỆN HÀNG HẢI 1
PHẦN 4: RADAR HÀNG HẢI
CHƯƠNG 1: NGUYÊN LÝ RADAR HÀNG HẢI
Mở đầu
Trường điện từ và sóng vô tuyến điện.
Giả sử có dòng điện sinh ra khi cho dây dẫn chuyển động trong một từ
trường, thì trong dây dẫn sẽ xuất hiện dòng điện, chiều dòng điện trong dây dẫn
sẽ thay đổi khi từ trường đổi hướng.
Năng lượng của dòng điện sẽ sinh ra dưới dạng nhiệt (năng lượng tiêu hao tỉ
lệ với cường độ dòng điện chạy trong dây dẫn và điện trở của dây dẫn) và dưới
dạng trường điện từ đồng tâm với dây dẫn. Chiều của trường điện từ này phụ
thuộc chiều của nguồn điện. Nếu ngắt dòng trong dây dẫn thì trường điện từ sẽ
giảm về 0 sau một khoảng thời gian nhất định.
Nếu cực của nguồn điện được thay đổi luân phiên với tốc độ đủ lớn, tương
ứng với khoảng thời gian cần thiết để trường điện từ suy giảm về 0 như đã trình
bày ở trên, trường hợp này dây dẫn sẽ sinh ra tiếp một trường điện từ khác, có
cường độ tỉ lệ nhưng ngược dấu với trường điện từ ban đầu. Như vậy trường
điện từ ban đầu được duy trì do xuất hiện trường điện từ thứ hai. Kết quả là nó
sẽ lan truyền ra ngoài không gian. Đây là nguyên lý cơ bản của anten phát radio,
anten này sẽ phát ra sóng radio có tần số tỉ lệ với tốc độ thay đổi phân cực của
nguồn, tốc độ lan truyền tương ứng với tốc độ ánh sáng.
Các yêu tố đặc trưng của sóng
vô tuyến điện là chu kỳ hay bước
sóng, biên độ và pha.
Giá trị lớn nhất của trường
điện từ gọi là biên độ. Mặt trước
của sóng gọi là front. Với các an
ten vô hướng, sóng lan truyền ra
xung quanh theo các mặt cầu
(hoặc các bán cầu).
1 chu kỳ
+
U
bước sóng
cực đại
+
biên độ
t, D
0
cực đại
1
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
Một chu kỳ là khoảng thời gian hoàn thành một sự thay đổi giá trị của
trường, có thể tính từ cực đại này đến cực đại tiếp theo. Quãng đường năng
lượng lan truyền được trong một chu kỳ gọi là bước sóng, thường đo bằng đơn
vị hệ mét (m, cm…). Số lượng các chu kỳ được lặp lại trong một đơn vị thời
gian (thường là 1 giây-second) gọi là tần số, đơn vị tính bằng Hertz (Hz). Bước
sóng và tần số tỉ lệ nghịch với nhau.
Pha (phase) của sóng là đại lượng được tính từ khi dao động bắt đầu truyền
đi đến thời điểm hiện tại, đơn vị tính bằng góc pha. Một chu kỳ tính là 360o góc
pha. Nói chung thì thời điểm bắt đầu phát dao động cũng không quan trọng mà
quan trọng là góc pha tương đối giữa các sóng điện từ với nhau. Hai dao động có
cực đại lệch nhau ¼ chu kỳ gọi là lệch pha 90o. Nếu cực đại (đỉnh sóng) của dao
động này trùng với cực tiểu (hõm sóng) của dao động kia thì gọi là lệch pha
180o.
Sóng vô tuyến điện lan truyền trong không gian sẽ xảy ra các hiện tượng
phản xạ, khúc xạ, tán xạ. Tùy thuộc vào tần số, điều kiện môi trường mà các
hiện tượng trên có ảnh hưởng khác nhau tới sự lan truyền sóng.
Phát và thu tín hiệu vô tuyến điện.
Sơ đồ nguyên lý quá trình phát và thu tín hiệu sóng vô tuyến điện như sau:
tin tức
Mã hóa
Máy phát
Môi trường
truyền sóng
Máy phát
Máy thu
Giải mã
tin tức
Máy thu
1.1. Khái niệm chung về radar
Radar là viết tắt của cụm từ radio detection and ranging, là một thiết bị dùng
sóng vô tuyến để phát hiện và định vị mục tiêu. Radar có nhiều loại: loại dùng
cho hàng hải, hàng không, radar khí tượng… Ta chỉ xem xét nguyên lý cấu tạo
và hoạt động của loại radar hàng hải.
Radar phát hiện mục tiêu bằng cách phát đi các xung siêu cao tần cực ngắn
vào không gian, thu xung phản xạ trở về từ các mục tiêu và thể hiện các xung
phản xạ đó thành ảnh các mục tiêu trên màn ảnh. Radar hàng hải cho ta hai
thông số của mục tiêu, đó là góc mạn và khoảng cách từ mục tiêu tới tàu ta, kết
hợp với la bàn sẽ cho phương vị mục tiêu. Đối với hàng hải thì radar có vai trò
đặc biệt quan trọng. Nó có thể phát hiện mục tiêu ở khoảng cách lớn trong mọi
2
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
điều kiện tầm nhìn xa như mưa, sương mù, tuyết rơi… phục vụ cho thao tác
tránh va. Radar còn dùng để xác định vị trí tàu khi tàu hàng hải ven bờ. Một ưu
điểm nổi bật của radar so với các hệ thống vô tuyến dẫn đường là nó có thể hoạt
động độc lập mà không cần sự phối hợp giữa các trạm.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thiết bị radar trên tàu biển
ngày càng hiện đại, nhiều tính năng, có thể kết hợp với nhiều trang bị hàng hải
khác như la bàn, tốc độ kế, GPS, AIS, VDR…, hình thành các buồng lái tổ hợp
(Intergrated Bridge) có thể cung cấp nhiều thông tin cho người điều khiển tàu
một cách nhanh chóng, chính xác nhằm tiết kiệm thời gian cho việc định vị,
dành thời gian cho việc xử lý thông tin để nhà hàng hải đưa ra những quyết định
chính xác nhằm nâng cao an toàn cho con tàu.
Qui định về trang bị radar trên tàu.
Theo điều 19 chương 5 (chương AN TOÀN HÀNG HẢI- Safety of
navigation) của công ước SOLAS 1974 với các hiệu chỉnh bổ sung mới nhất có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2004, điều 19 chương 5 này qui định về việc
trang bị các thiết bị máy móc hàng hải trên tàu (Carriage requirements for
shipborne navigational systems and equipments), việc trang bị radar trên tàu
biển phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Các tàu đóng vào hoặc sau ngày 1 tháng 7 năm 2002 phải trang bị đầy đủ
các trang thiết bị qui định trong điều này.
- Các tàu có GT 300 trở lên và các tàu khách mọi cỡ phải trang bị 1 radar
9GHz, hoặc một thiết bị nào khác có thể thể hiện và xác định được khoảng cách
và phương vị tới một thiết bị phát đáp radar và các bè nổi, chướng ngại, phao
tiêu, đường bờ và các dấu hiệu hàng hải khác nhằm phục vụ cho việc hàng hải
và tránh va.
* Một thiết bị đồ giải điện tử, hoặc một trang bị khác, có thể đồ giải bằng
phương pháp điện tử khoảng cách và phương vị tới mục tiêu để xác định nguy
cơ va chạm.
** Thiết bị đo quãng đường và tốc độ tàu, hoặc một thiết bị khác, có thể
xác định tốc độ và quãng đường tàu chạy so với nước biển.
*** Thiết bị truyền chỉ số hướng mũi tàu, hoặc thiết bị khác để truyền chỉ
số hướng mũi tàu vào cho các thiết bị radar và AIS.
- Các tàu có GT 500 trở lên, ngoài việc trang bị như trên, nếu không trang bị
các thiết bị theo mục * và ***, nhưng vẫn phải trang bị thiết bị nêu trong mục
**, còn phải trang bị thêm một thiết bị tự động theo dõi vết của mục tiêu, hoặc
một thiết bị tương đương khác để đồ giải tự động khoảng cách và phương vị của
các mục tiêu nhằm xác định nguy cơ va chạm
3
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
- Các tàu có GT 3000 trở lên còn phải trang bị thêm 1 radar 3GHz, hoặc nếu
được chính quyền hành chính cho phép, thì thay bằng một radar 9 GHz thứ hai,
hoặc một thiết bị nào khác có thể thể hiện và xác định được khoảng cách và
phương vị tới một thiết bị phát đáp radar và các bè nổi, chướng ngại, phao tiêu,
đường bờ và các dấu hiệu hàng hải khác nhằm phục vụ cho việc hàng hải và
tránh va. Thiết bị này phải hoạt động độc lập với thiết bị thứ nhất ở trên. Và
Thiết bị tự động theo dõi vết của mục tiêu thứ hai, hoặc một thiết bị tương
đương khác để đồ giải tự động khoảng cách và phương vị của các mục tiêu
nhằm xác định nguy cơ va chạm hoạt động độc lập với thiết bị đồ giải ở trên.
- Tàu có GT 10000 trở lên, ngoài việc thỏa mãn các yêu cầu trên, nếu không
trang bị thiết bị đồ giải thứ hai thì phải trang bị:
Một thiết bị tự động đồ giải tránh va radar (ARPA), hoặc một thiết bị tương
đương khác để tự động xác định và đồ giải khoảng cách và phương vị tới ít nhất
20 mục tiêu, được nối với thiết bị chỉ thị khoảng cách và quãng đường so với
nước, nhằm xác định nguy cơ va chạm và thực hiện mô phỏng điều động tránh
va, và:
Một hệ thống điều khiển hướng mũi tàu hoặc vết đi của tàu, hoặc thiết bị
tương đương khác, có thể tự động điều khiển và duy trì cho tàu chuyển động
theo một hướng hoặc vết đi thẳng nhất định.
- Tàu nhỏ hơn 150 GT và nếu có thể được, phải trang bị một bộ phản xạ radar
(radar reflector), hoặc một thiết bị khác để các tàu khác đang hành trình có thể
phát hiện được bằng cả hai loại radar 3 GHz và 9 GHz.
Chú ý: các qui định trên của SOLAS trích từ bản mới nhất với các hiệu chỉnh
bổ sung có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2004. Các qui định về trang bị như
trên có thể sẽ thay đổi khi ra đời các hiệu chỉnh bổ sung tiếp theo.
1.2. Nguyên lý radar xung
1.2.1. Khái niệm xung điện từ
Xung điện từ là đại lượng điện biến
đổi rất nhanh và có thời gian tồn tại
xung cũng như chu kỳ lặp xung nhất
định. Hình vẽ bên biểu thị các dạng
xung được sử dụng trong thiết bị
radar.
U
t
Xung nhọn
Tx
Xung vuông
điều chế
Gọi τx là chiều dài xung hay thời
gian tồn tại của xung. Tx là chu kỳ lặp
xung
Xung siêu
cao tần
Xung răng
cưa
4
τx
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
Trong radar hàng hải thường sử dụng
τx = 0.1 ÷ 1 μ s;
Tần số lặp xung (PRF: Pulse Rate Frequency) Fx = 1/Tx = 400 ∼ 4000
xung/giây.
Trong radar, để điều hòa hoạt động của toàn trạm radar, người ta dùng bộ tạo
xung khởi động (Master Oscillator) để tạo ra các xung khởi động có chu kỳ lặp
xung Tx. Các xung này được đưa qua bộ điều chế để tạo ra các xung điện áp cao
đưa vào kích thích cho bộ tạo dao động siêu cao tần (Magnetron) hoạt động,
magnetron sinh ra các dao động điện từ siêu cao tần công suất lớn để bức xạ vào
không gian. Trong radar thường sử dụng các bước sóng sau:
λ=3.2 cm (f = 9,400 MHz): dải X-Band
λ=10 cm (f = 3,000 MHz): dải S-Band
λ=0.8 cm (f = 28,600 MHz): dải Q-Band
Hầu hết các radar hàng hải đều thường sử dụng hai dải X-band và S-band.
1.2.2. Nguyên lý phát xung của radar theo sơ đồ khối.
Radar phát xung theo sơ đồ khối sau:
Đồng bộ
Máy phát
Mục tiêu
An ten
Chuyển mạch
Máy chỉ báo
Máy thu
- Đồng bộ: sản xuất ra các xung nhọn khởi động với chu kỳ lặp xung thích
hợp để điều hòa hoạt động của toàn trạm radar.
- Máy phát có nhiệm vụ sinh ra các dao động siêu cao tần, có chiều dài xung
và chu kỳ lặp xung nhất định và đảm bảo công suất, đưa qua chuyển mạch, ra
anten phát vào không gian.
- Máy thu có nhiệm vụ thu nhận các xung phản xạ về từ mục tiêu, khuếch đại
và sửa đổi cho phù hợp rồi đưa sang máy chỉ báo.
5
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
- Máy chỉ báo có nhiệm vụ thể hiện xung phản xạ từ các mục tiêu thành ảnh
trên màn ảnh, thực hiện các phép đo cần thiết.
- Chuyển mạch an ten có nhiệm vụ ngắt máy thu khi phát xung để bảo vệ
máy thu và ngắt máy phát khi ngừng phát để thu xung phản xạ.
- An ten thường sử dụng loại an ten khe, làm 2 nhiệm vụ: bức xạ sóng radar
vào không gian theo một búp phát định hướng và thu sóng phản xạ về từ các
mục tiêu.
1.2.3. Nguyên lý đo khoảng cách.
SHM
mục tiêu 1
2
1
d1
mục tiêu 2
D1; t1
anten
d2
D2; t2
Theo nguyên lý của màn hình ống phóng tia
điện tử (CRT), khi chưa có tín hiệu đưa vào các
bản cực gây lệch (hoặc cuộn gây lệch) chùm tia âm
cực sẽ tập trung về tâm của màn ảnh, tác động vào
lớp huỳnh quang tạo thành một chấm sáng ở tâm
màn ảnh.
1 2
d1
d2
Để tạo ra tia quét trên màn ảnh, người ta đưa
vào bản cực gây lệch một xung răng cưa (sawtooth
pulse), xung răng cưa này phải có dạng tuyến tính,
dưới tác dụng của xung răng cưa này, chấm sáng
sẽ chuyển động từ tâm ra biên màn ảnh với tốc độ
không đổi, khi hết xung răng cưa thì lập tức trở về
tâm. Chấm sáng chuyển động sẽ lưu ảnh lại và cho
ta nhìn thấy một đường thẳng sáng liên tục kéo dài
từ tâm ra biên gọi là tia quét màn ảnh (sweep). Nếu
ta cho cặp bản cực gây lệch hoặc cuộn gây lệch
quay tròn quanh cổ ống phóng tia điện tử thì tia
quét cũng quay tròn với tốc độ quay tương ứng.
Khi radar bắt đầu phát xung vào không gian thì đồng thời xung răng cưa cũng
được đưa vào các bản cực gây lệch, chấm sáng trên màn ảnh bắt đầu chuyển
6
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
động từ tâm ra biên với tốc độ v1 nhất định. Xung siêu cao tần đập vào mục tiêu
1 cách an ten khoảng cách D1, cho xung phản xạ trở về tới an ten sau khoảng
thời gian t1 thì khi đó trên màn ảnh, chấm sáng cũng đã chuyển động được một
quãng đường d1 nào đó. Ta có thể dễ dàng tính được mối tương quan giữa các
yếu tố khoảng cách và thời gian đó như sau:
t1 =
d1 2.D1
=
v1
c
trong đó c là vận tốc truyền sóng điện từ trong không gian.
Từ đó tính được: D1 =
d1 .c
2.v1
Nếu có mục tiêu 2 ở khoảng cách D2 xa hơn thì khi sóng phản xạ từ mục tiêu
2 về tới an ten sẽ hết thời gian t2 lớn hơn so với t1 và khi đó trên màn ảnh, chấm
sáng đã chuyển động được quãng đường d2 lớn hơn. Tương tự ta cũng sẽ tính
được khoảng cách thực tế D2 theo phương pháp trên.
Như vậy theo nguyên lý trên, chỉ cần xác định được khảng cách d1 và d2 trên
màn ảnh thì sẽ suy ra các khoảng cách D1 và D2 ngoài thực địa.
1.2.4. Nguyên lý đo góc.
Radar phát xung định hướng
theo một búp phát hẹp. Búp phát
này có các thông số đặc trưng là
góc mở ngang và góc mở đứng.
3o
αđ
αng
Góc mở ngang: αng = 0.5o –
Góc mở đứng: αđ = 20o – 30o
Tùy thuộc từng loại radar và an ten cụ thể mà góc mở ngang và góc mở đứng
có các trị số khác nhau.
Để đảm bảo nguyên lý
0o SHM
đo góc của radar thì an ten
và tia quét cần phải quay
θ
θ
đồng bộ và đồng pha với
nhau, nghĩa là cùng vận
tốc góc và cùng góc pha
ban đầu. Khi an ten quay
về phía mũi tàu thì tia quét
cũng chỉ vào vạch 0o trên
vành chia độ cố định
quanh màn ảnh. Búp phát quay đi một góc θ chụp vào mục tiêu thì trên màn ảnh,
7
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
tia quét cũng quay được một góc θ tương ứng. Xung siêu cao tần phát đi với tốc
độ rất nhanh, đập vào mục tiêu, phản xạ về an ten lập tức được thể hiện thành
ảnh trên màn ảnh, trong thời gian đó búp phát quay được một góc rất nhỏ, hầu
như vẫn ở nguyên vị trí chụp vào mục tiêu nói trên (thiết kế sao cho trong quãng
thời gian búp phát quét qua mục tiêu thì sóng phát radar đã truyền tới mục tiêu,
trở về an ten, phát ra xung tiếp theo và lại trở về… cứ như vậy được 8-12 lần đối
với các mục tiêu xa nhất trong thang tầm xa hiện tại). Như vậy góc mạn của ảnh
mục tiêu trên màn ảnh và góc mạn thực tế sẽ bằng nhau và chỉ cần xác định góc
mạn trên màn ảnh là suy ra góc mạn ngoài thực địa của mục tiêu.
Kết hợp với hướng mũi tàu từ la bàn sẽ cho ta phương vị thật của mục tiêu.
1.3. Các thông số khai thác của radar.
Gồm các thông số sau:
- Tầm xa cực đại.
- Tầm cực tiểu.
- Khả năng phân biệt theo khoảng cách.
- Khả năng phân biệt theo góc.
1.3.1. Tầm cực đại của radar (Dmax)
Tầm xa cực đại là khoảng cách lớn nhất mà trong vòng bán kính đó radar có
khả năng phát hiện mục tiêu. Có thể xác định tương đối chính xác tầm xa cực
đại theo công thức sau:
Px .G A .S O .4π .(h1h2 )
Pthu min .λ2
2
Dmax = 8
4
Trong đó:
+) Px: công suất phát xung
+) GA: hệ số định hướng của an ten. G A =
4π
.
α ng .α đ
αng và αđ là các giá trị góc mở ngang và góc mở đứng của búp phát an ten.
+) SO: bề mặt hiệu dụng của mục tiêu, nói lên khả năng phản xạ của mục
tiêu tốt hay kém.
+) h1, h2: chiều cao của an ten và của mục tiêu
8
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
+) λ: bước sóng phát
+) Pthumin: độ nhạy máy thu, Pthumin = N.k.q.T.Δf
Pthumin càng nhỏ thì độ nhạy càng cao.
Ngoài ra tầm cực đại cũng
còn phụ thuộc chân trời radar.
Theo hình vẽ bên, có thể xác
định:
4,06
H1
4,06
H1
H2
H2
D = 4.06( H 1 + H 2 )
D là khoảng cách tính bằng
km, (với radar bước sóng 3.2
cm)
H là độ cao tính bằng m.
Nếu thay độ cao tính bằng
ft thì công thức là: D = 2.23( H 1 + H 2 )
1.3.2. Tầm cực tiểu của radar (Dmin)
Tầm cực tiểu (Dmin) là khoảng cách nhỏ nhất mà trong vòng bán kính đó
radar không có khả năng phát hiện mục tiêu.
Dmin phụ thuộc chiều dài xung phát τx, độ ỳ của thiết bị qui ra thời gian trễ τy
(thời gian trễ của các bộ chuyển mạch, máy thu), chiều cao của an ten radar h1,
góc mở đứng của búp phát αđ. Ngoài ra nó còn phụ thuộc chất lượng điều chỉnh
màn ảnh, trạng thái mặt biển…
Búp phát radar có góc mở ngang αng =0.5o – 3o và góc mở đứng: αđ =20o –
30o .Năng lượng phát từ an ten tập trung trong giới hạn trên. Nếu mục tiêu quá
gần tàu, ngoài phạm vi của góc mở
đứng nghĩa là nó đi vào vùng chết
của radar, búp phát không chụp
được và mục tiêu nên radar không
αđ
bắt được các mục tiêu này. Khi đó
ta xác định Dmin như sau:
Dmin = h1 . cot g
h1
αđ
αđ/2
2
h1 là chiều cao của anten radar
so với mặt biển.
Dmin
9
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
Khi mục tiêu quá gần tàu, xung thứ nhất phát chưa hết, chưa hoàn toàn ra
khỏi anten mà xung phản xạ đã quay về tới anten, khi đó các mục tiêu quá gần
tàu như vậy cũng không được thể hiện trên màn ảnh. Như vậy, Dmin còn phụ
thuộc chiều dài xung τx và thời gian trễ của bộ chuyển mạch và máy thu τy. Khi
đó có thể xác định Dmin như sau:
Dmin =
c.τ x c.τ y
+
2
2
Ví dụ: nếu τx = 0.5μs; c = 3.108 m/s = 300m/μs
Nếu không tính tới độ trễ thì Dmin = 300 : 4 = 75 (m)
Thực tế để xác định Dmin đối với radar lắp ráp trên tàu thường dùng xuồng và
thước dây, tiến hành như sau: mở radar thang tầm gần nhất, thả xuồng rồi dùng
dây kéo xuồng vào gần tàu, khi ảnh xuồng trên màn ảnh mất đi thì khoảng cách
còn lại chính là bán kính vùng chết.
Lưu ý Dmin đối với một thiết bị radar cụ thể trên tàu có thể khác nhau tùy theo
từng góc mạn cụ thể do ảnh hưởng của các kết cấu hoặc chướng ngại trên tàu,
ảnh hưởng của nghiêng chúi, anten radar lắp lệch về một bên mạn tàu chứ không
trùng với mặt phẳng trục dọc tàu… Các nhà sản xuất cũng thường đưa ra con số
Dmin cho radar mới xuất xưởng nhưng thông số này chưa bao hàm ảnh hưởng
của điều kiện thực tế sau khi lắp ráp radar trên một con tàu cụ thể, ví dụ như độ
cao an ten, vị trí lắp đặt anten, các chướng ngại khác trên tàu…
1.3.3. Khả năng phân biệt theo khoảng cách
Là khoảng cách nhỏ nhất giữa hai mục tiêu có cùng phương vị tới radar mà ở
khoảng cách đó ảnh của chúng còn tách rời nhau trên màn ảnh.
Giả sử có các mục tiêu
1, 2 và 3 có cùng phương
vị đến radar như hình vẽ.
Mục tiêu 1 và 2 quá gần
nhau và trên màn ảnh, ảnh
của 1 và 2 sẽ chập với nhau
thành 1 ảnh lớn hơn, trong
khi mục tiêu 3 vẫn cho ảnh
độc lập.
0o
3
3
1+2
2
1
Xét chi tiết hơn ở hình
vẽ dưới:
Khả năng phân biệt theo khoảng cách phụ thuộc trực tiếp vào chiều dài của
xung phát radar (τx). Do xung phát radar chiếm một khoảng không nhất định nên
10
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
nếu hai mục tiêu cách nhau một khoảng cách đủ lớn thì các xung phản xạ từ hai
mục tiêu đó sẽ tách rời nhau (hình A, B) và trên màn ảnh, ảnh của chúng sẽ tách
Mục tiêu
A
Mục tiêu
Xung phản xạ
Xung phản xạ
C
Xung phát
Xung phát
Mục tiêu
Xung phản xạ
Xung phản xạ
B
Mục tiêu
D
Xung phát
Xung phát
Hình 4. Độ phân giải theo khoảng cách
rời nhau.
Nếu hai mục tiêu quá gần nhau thì các xung phản xạ từ hai mục tiêu sẽ có
phần trùng lên nhau (hình C). Ảnh hai mục tiêu này trên màn ảnh sẽ chập vào
nhau thành một ảnh lớn hơn.
Như vậy để có thể tách bạch ảnh của hai mục tiêu trên màn ảnh thì khoảng
cách giữa chúng phải đảm bảo : ΔD ≥ c.τx/2.
Ngoài ra khả năng phân biệt theo khoảng cách còn phụ thuộc vào khả năng
đều chỉnh ảnh trên màn ảnh radar. Nếu điều chỉnh để cho ảnh mục tiêu lớn quá
(tăng độ sáng màn ảnh hoặc tăng khuếch đại máy thu quá mức) sẽ làm ảnh các
mục tiêu gần nhau có thể trùng lên nhau. Tổng hợp các yếu tố trên ta có:
ΔD ≥
c.τ x d .DO
+ ,
2
D 0.5
Trong đó
d là dường kính chấm sáng trên màn ảnh
D’: đường kính ống phóng tia điện tử (màn ảnh)
DO: thang tầm xa dang sử dụng.
Để tăng khả năng phân biệt theo khoảng cách, có thể giảm chiều dài xung
phát τx (hình D). Khi đó hai xung phản xạ từ hai mục tiêu cũng sẽ ngắn lại và
tách rời nhau. Nhưng giảm chiều dài xung thì năng lượng đập vào mục tiêu cũng
giảm làm giảm Dmax. Các radar thường có chế độ chọn chiều dài xung cho từng
thang tầm xa. Khi đó ta chọn chiều dài xung ngắn hơn để tăng khả năng phân
11
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
biệt theo khoảng cách. Giảm thang tầm xa cũng là một biện pháp có thể giảm
bớt chiều dài xung.
Ngoài ra cần điều chỉnh tốt màn chỉ báo radar, nếu cần có thể giảm bớt GAIN
để tạm thời thu nhỏ đường kính chấm sáng biểu thị mục tiêu, hoặc có thể sử
dụng các núm khử nhiễu thích hợp.
1.3.4. Khả năng phân biệt theo góc
Là góc kẹp ngang nhỏ nhất giữa hai mục tiêu có cùng khoảng cách tới an ten
mà ảnh của hai mục tiêu đó vẫn còn tách rời nhau trên màn ảnh radar.
Khả năng phân biệt theo góc về định lượng chính là giá trị góc mở ngang của
búp phát radar. Nếu hai mục tiêu cùng khoảng cách nếu quá gần nhau thì chúng
sẽ nằm trong cùng 1 búp phát radar và xung phản xạ từ hai mục tiêu này sẽ có
phần trùng nhau nên ảnh của chúng sẽ chập với nhau trên màn ảnh. Ngoài ra
việc điều chỉnh màn chỉ báo radar tốt hay không có thể làm tăng kích thước của
chấm sáng mục tiêu, ảnh hưởng đến khả năng phân biệt theo góc của radar.
Giả sử có 3 mục tiêu 1, 2 và
3 có cùng khoảng cách đến
radar. Mục tiêu 1 và 2 rất gần
nhau có góc kẹp ngang nhỏ hơn
góc mở ngang của búp phát
radar, mục tiêu 3 tách ra xa
hơn. Trên màn ảnh ta sẽ nhìn
thấy ảnh của 1 và 2 chập lại với
nhau thành 1 ảnh lớn, còn ảnh
của mục tiêu 3 tách riêng ra
không bị lẫn vào ảnh của mục
tiêu 1 và 2.
1 2
3
0o
1+2
αng
3
Để tăng khả năng phân biệt theo góc, cần giảm nhỏ góc mở ngang của búp
phát αng.
Có α ng = 70.
λ
l
Trong đó λ là bước sóng phát; l là chiều dài của anten.
Muốn giảm αng, có thể giảm bước sóng phát λ hoặc tăng chiều dài anten l,
hoặc kết hợp cả hai phương pháp. Radar trên tàu thường sử dụng hai loại bước
sóng 3.2 cm và 10 cm. Mỗi loại có ưu điểm và nhược điểm riêng. Trong đó
radar 3.2 cm sẽ có khả năng phân biệt theo góc tốt hơn so với radar 10 cm.
Khi thiết kế radar, các nhà sản xuất thường cho một số lựa chọn về kích
thước anten đối với từng loại radar. Ví dụ một số chiều dài thông dụng của anten
là 4ft, 6 ft, 7ft, 9ft.
12
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
Xét về ảnh hưởng của màn chỉ báo radar đối với khả năng phân biệt theo góc,
ta có thể tính khả năng phân biệt theo góc như sau:
α O = α ng + 57.3
d
D
Trong đó: d là đường kính chấm sáng thể hiện mục tiêu trên màn hình. D là
khoảng cách tính từ tâm màn ảnh đến mục tiêu.
Loại trừ các yếu tố về thiết kế radar thì người sử dụng trên tàu cần phải điều
chỉnh tốt màn chỉ báo radar, giảm bớt GAIN hoặc điều chỉnh các núm khử nhiễu
cho thích hợp.
1.4. Các thông số kỹ thuật của radar.
Gồm các thông số sau:
- Bước sóng phát λ
- Chiều dài xung τx
- Hệ số định hướng của anten GA.
- Tốc độ quay của anten.
- Công suất phát xung Px
- Tần số lặp xung và chu kỳ lặp xung Fx, Tx
- Độ nhạy máy thu Pthumin
1.4.1. Bước sóng phát (λ)
- Việc lựa chọn bước sóng phát λ trên cơ sở đảm bảo tốt khả năng phân biệt
theo khoảng cách và theo góc, búp phát radar hẹp tuy an ten có kích thước nhỏ,
đảm bảo tầm hoạt động lớn, phát hiện được cả các mục tiêu lớn và nhỏ, giảm bớt
ảnh hưởng của điều kiện khí tượng thủy văn…
- Radar hàng hải thưởng sử dụng 3 loại bước sóng phát: 0.8 cm, 3. cm, 10 cm
λ=3.2 cm (f=9,400 MHz): dải X-Band
λ=10 cm (f=3,000 MHz): dải S-Band
λ=0.8 cm (f=28,600 MHz): dải Q-Band
Hầu hết các radar hàng hải đều thường sử dụng hai dải X-band và S-band.
13
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
Với radar bước sóng 3.2 cm thông thường cho phép chiều dài xung giảm nhỏ
hơn so với radar bước sóng 10 cm, do đó tăng được khả năng phân giải theo
khoảng cách. Ngoài ra về chế tạo cũng cho phép góc mở ngang của búp phát
anten hẹp hơn nên khả năng phân giải theo góc cũng tốt hơn. Kích thước an ten
gọn nhẹ hơn.
Ngược lại, radar bước sóng 10 cm có tầm xa tác dụng lớn hơn do năng lượng
ít bị tổn hao hơn trong quá trình lan truyền qua môi trường. Ngoài ra khả năng
chống nhiễu, đặc biệt là nhiễu mưa tuyết của radar bước sóng 10 cm cũng tốt
hơn so với radar 3.2 cm.
1.4.2. Chiều dài xung phát (τx)
Xung phát radar có chiều dài từ 0.1-1 μs. Chiều dài xung τx thay đổi theo
từng loại radar và từng thang tầm xa cụ thể. Chiều dài xung phải đủ lớn để chứa
một số lượng dao động siêu cao tần nhất định, đảm bảo công suất xung phát.
Mỗi loại radar thường sử dụng xung với các chiều dài xung khác nhau. Sau đây
là một ví dụ về các chiều dài xung sử dụng trong radar JMA-627.
τx/Tx:
0.08 µs/3000 Hz (ở các thang 0.25, 0.5, 0.75, 1.5 NM)
0.2 µs/2000 Hz (ở thang 3 NM)
0.7 µs/1000 Hz (ở các thang 6, 12 NM)
1 µs/750 Hz (ở các thang 24, 48 NM)
1 µs/500 Hz (ở thang 120 NM)
Ngay trong một thang tầm xa, nhiều radar thiết kế có thể thay đổi được chiều
dài xung ở hai mức độ xung ngắn và xung dài. Sử dụng xung ngắn để tăng khả
năng phân giải theo khoảng cách, sử dụng xung dài để tăng công suất phát, tăng
khả năng phát hiện mục tiêu.
1.4.3. Tần số lặp xung và chu kỳ lặp xung (Fx và Tx)
Lựa chọn chu kỳ lặp xung phụ thuộc vào: tầm hoạt động, số lượng xung cần
thiết đập vào mục tiêu sau mỗi vòng quay của anten, tốc độ quay của anten,
chiều rộng búp phát αng…
Chu kỳ lặp xung Tx phải đảm bảo sao cho tín hiệu từ mục tiêu xa nhất trong
tầm hoạt động phản xạ về tới anten rồi mới phát đi xung tiếp theo, nghĩa là:
TX ≥
2.Dmax
c
hay Fx ≤
c
2.Dmax
Để mục tiêu hiện rõ ràng trên màn ảnh và lưu lại cho ta quan sát trên màn ảnh
thì sau mỗi vòng quay của anten, mỗi mục tiêu cần nhận được 8-12 xung. Gọi n
là tốc độ quay của anten (vòng/phút), Nmin là số xung cần thiết đập vào mục tiêu
sau mỗi vòng quay của anten, ta có:
14
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Fx ≥ N min .
Môn học: Radar Hàng hải
6n
α ng
Tổng hợp lại, có: N min .
6.n
α ng
≤ Fx ≤
c
2.Dmax
Trong thực tế, Fx khoảng từ 400-3200 xung/s
1.4.4. Công suất phát xung (Px)
Là công suất trong thời gian tác động của xung τx. Px phụ thuộc điện áp a nốt,
Magnetron, chiều dài xung. Px càng lớn thì tầm xa tác dụng của radar càng lớn.
Các radar hiện nay công suất phát xung khoảng 10-100 KW.
Công suất trung bình Ptb là công suất máy
phát trong cả chu kỳ Tx.
Với các xung có dạng vuông, có Tx =
U
τx
τx
Ptb .Tx
τx
Với các xung không phải là dạng xung
Tx
Px
Ptb
t
Tx
∫ P .dt
tb
vuông, có Px =
0
τx
Ta thấy, công suất trung bình của radar là tương đối thấp, khoảng 100W, tuy
nhiên công suất phát xung lại rất lớn, tới vài chục KW. Để có được như vậy là
do bộ tích năng trong máy phát, tích lũy năng lượng trong một khoảng thời gian
dài Tx , sau đó phóng năng lượng ra trong một thời gian rất ngắn τx.
1.4.5. Độ nhạy máy thu (Pthumin)
Máy thu có độ nhạy càng cao thì khả năng phát hiện mục tiêu càng tốt, tầm
xa tác dụng tăng. Nó được xác định bằng công suất tín hiệu phản xạ nhỏ nhất ở
lối vào máy thu, sau khi khuếch đại lên vẫn đủ để tạo nên điểm sáng có thể quan
sát được trên màn ảnh trong trường hợp ở lối ra máy thu công suất tín hiệu phản
xạ từ mục tiêu lớn hơn công suất ồn.
Pthu min = N .q.k .T .Δf
Trong đó:
N: hệ số ồn của máy thu. N nói lên mức tín hiệu ở lối vào
máy thu thực tại lớn hơn bao nhiêu lần so với máy thu lý
tưởng. Hệ số N khoảng vài chục
15
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
q: hệ số phân biệt, được tính bằng tỉ số giữa công suất tín
hiệu và công suất ồn ở lối ra máy thu
k=1,38.10-23 jun/grad
k: hằng số Bôzman
T: nhiệt độ tuyệt đối của thiết bị thu (oK)
Δf: dải thông của máy thu
Các nhà sản xuất radar đều tìm cách nâng cao độ nhạy máy thu bằng cách chế
tạo các linh kiện có độ ồn nhỏ, hệ số phân biệt nhỏ và thu hẹp dải thông Δf. Tuy
nhiên không được giảm Δf quá sẽ làm giảm biên độ tín hiệu, méo hình dạng
xung phản xạ. Δf thường chỉ phụ thuộc chiều dài xung τx. Với máy thu radar
thường có Δf =
1.2 ÷ 1.37
τx
. Trong tính toán chọn Δf =
1
τx
1.4.6. Hệ số định hướng của an ten (GA)
Thông số này biểu thị khả năng bức xạ có hướng của anten tốt hay xấu. Hệ
số định hướng càng lớn nói lên khả năng của radar tập trung năng lượng vào
hướng phát chính, độ chính xác định hướng cao, tăng tầm xa tác dụng, giảm
nhiễu xạ từ các phía lọt vào anten.
GA được tính là tỉ lệ giữa cường độ bức xạ cực đại Amax và cường độ bức xạ
trung bình Atb.
GA =
Amax
GA =
Amax
Atb
P
P
; Atb =
=
α ng .α đ
4π
4.π
α ng .α đ
trong đó α đ =
70.λ
70.λ
; α ng =
d
l
P: công suất phát của búp chính; l và d là chiều dài và chiều rộng của anten.
An ten càng dài và rộng thì GA càng lớn.
Xung phát radar phải được tập trung thành dạng một búp phát để phát vào
không gian. Hình vẽ (1) dưới biểu thị búp phát radar, bao gồm cả một số búp
phát phụ nhỏ luôn tồn
tại trong thực tế chế tạo
an ten.
Tuy anten đã tập
trung năng lượng trong
một búp phát khá hẹp,
hầu hết năng lượng phát
tập trung theo chiều trục
dọc của búp phát đó,
Hình 1. Búp phát radar trong không gian tự do
nhưng không có ranh
giới rõ ràng của vùng
16
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
biên búp phát. Năng lượng phát suy giảm đột ngột khi cách xa trục búp phát, nên
áp dụng một mức năng lượng giới hạn nhất định để xác định kích thước của búp
phát.
Chiều mở đứng và mở ngang của búp phát có liên hệ với giới hạn công suất
lựa chọn. Thông thường nhất là chọn búp phát tương ứng với góc mở mà công
suất giảm xuống còn một nửa. Một nửa công suất tương ứng với việc công suất
cực đại suy giảm 3 decibels.
Từ định nghĩa decibel cho thấy một nửa công suất tương ứng với mức suy
giảm 3 db so với công suất cực đại. Một decibel là logarit của tỉ lệ công suất
cuối cùng trên một mức công suất nào đó
⎡P ⎤
dB = 10 log ⎢ 1 ⎥
⎣ P0 ⎦
Trong đó P1 là công suất cuối cùng, P0 là mức công suất so sánh. Khi tính
giá tri dB cho mức công suất suy giảm 50% thì công thức sẽ tính như sau:
dB= 10.log(.5)
dB= -3dB
Biểu đồ bức xạ (2) ở
Vị trí giới hạn 50% công suất(-3 dB)
dưới miêu tả giá trị công
suất tương đối trên cùng 1
Góc mở búp phát
mặt phẳng và cùng khoảng
Trục búp phát
cách tới an ten. Công suất
cực đại xuất hiện trên
hướng trục của búp phát.
Vị trí giới hạn 50% công suất(-3 dB)
Xa dần trục thì công suất
giảm rất nhanh. Chiều rộng
Hình 2. Sơ đồ búp phát
búp phát được tính là góc
giữa các vị trí khi công
suất còn lại 50%.
Chiều rộng búp phát phụ thuộc tần số, thiết kế của an ten và kích thước của
an ten. Với mỗi cỡ nhất định của an ten (an ten khe), nếu sử dụng bước sóng
ngắn hơn thì búp phát sẽ hẹp hơn. Với một bước sóng nhất định thì an ten có
chiều rộng lớn hơn sẽ cho búp phát hẹp hơn.
1.4.7. Tốc độ quay của an ten (n)
Theo yêu cầu của IMO, tốc độ quay của anten không được nhỏ hơn 12
vòng/phút (rpm), tia quét trên màn ảnh và an ten phải quay cùng chiều kim đồng
hồ. Tuy nhiên không có hạn chế về tốc độ tối đa của anten. Tốc độ quay của
anten radar tàu biển ngày nay nằm trong khoảng 20-33 vòng/phút. Tốc độ này,
kết hợp với chu kỳ lặp xung và thang tầm xa cụ thể, như ở trên đã trình bày, cần
đảm bảo cho các mục tiêu trong tầm hoạt động của radar cần phải nhận được 812 xung phát radar sau mỗi vòng quay của anten. Việc chọn vòng quay của
anten không thấp quá cũng giúp cho việc ảnh của mục tiêu trên màn ảnh được
cập nhật và duy trì cường độ sau mỗi khoảng thời gian không quá lâu (ví dụ: nếu
tốc độ anten là 24 rpm thì cứ sau mỗi 2.5 giây ảnh trên màn ảnh lại được cập
17
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
nhật và hồi phục trở lại sau khi đã bị suy giảm đi do mờ dần). Việc tăng rpm sẽ
giúp cho giảm bớt được độ lưu ảnh của màn ảnh.
Ví dụ: radar có tần số lặp xung PRF=1000; góc mở ngang búp phát 2o. Yêu
cầu sau mỗi vòng quay của anten phải có 10 xung đập vào mục tiêu. Tính tốc độ
quay cần thiết của anten.
Có: số xung 10 = PRF .
α ng
6.n
; Từ đó tính được n = PRF .
2
2
= 1000. = 33.3rpm
60
6.10
Như vậy vòng quay của anten tối đa là 33.3 vòng/phút.
1.5. Mục tiêu radar
1.5.1. Khái niệm mục tiêu radar và phân loại mục tiêu
Mục tiêu radar là tất cả các vật thể có tính chất truyền sóng khác với môi
trường. Bất kỳ vật thể nào có độ từ thNm μ và hằng số điện môi ε khác với môi
trường truyền sóng sẽ phản xạ sóng radar ở các mức độ khác nhau và cho ảnh
trên màn ảnh nếu cường độ sóng dội từ các mục tiêu đó đủ lớn. Trong hàng hải
thì mục tiêu radar có thể là tàu thuyền, phao tiêu và các vật thể nổi khác, bờ
biển, đảo, cây cối, mặt biển, mây mưa, tuyết rơi…
Có thể phân loại mục tiêu theo nhiều cách, thường gặp nhất là cách phân loại
theo kích thước (hoặc theo khả năng phân giải).
- Phân loại theo khả năng phân giải:
+) Mục tiêu đơn độc: là các mục tiêu nhỏ đứng riêng biệt, các mục tiêu
này có kích thước nhỏ hơn kích thước của góc mở ngang búp phát radar. Ứng
với mỗi chấm sáng trên màn ảnh là một mục tiêu ngoài thực địa. Các mục tiêu
này cách nhau một khoảng cách lớn hơn khả năng phân giải theo khoảng cách
và góc kẹp giữa chúng cũng lớn hơn khả năng phân giải theo góc của radar.
Ảnh của loại mục tiêu này trên màn ảnh phụ thuộc khả năng phản xạ của mục
tiêu đó. N ếu mục tiêu có khả năng phản xạ kém, ví dụ các tàu cá, phao tiêu,
thuyền nhỏ… thì ảnh của nó trên màn ảnh là một chấm sáng nhỏ. N ếu là các tàu
lớn có khả năng phản xạ rất tốt thì ảnh trên màn ảnh thường bị kéo giãn ra đến
khi chúng có góc mở bằng với góc mở ngang của búp phát và chiều dày tính từ
tâm quét radar tương ứng với chiều dài xung phát.
+) Mục tiêu nhóm: là một nhóm các mục tiêu đơn độc, nhưng do trong
thực tế chúng quá gần nhau nên ảnh của chúng trên màn ảnh radar không tách
rời với nhau mà bị gộp với nhau thành một đám sáng lớn.
18
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
+) Mục tiêu khối (hay mục tiêu phân giải) là các mục tiêu có kích thước
về góc lớn hơn góc mở ngang búp sóng radar. Chúng là tập hợp của rất nhiều
phNn tử có khả năng phản xạ sóng radar và ảnh của chúng lẫn với nhau trên màn
ảnh thành một đám sáng lớn.
Loại mục tiêu này chia thành hai loại: mục tiêu phân giải theo bề mặt và mục
tiêu phân giải theo thể tích.
Ví dụ điển hình về mục tiêu phân giải theo bề mặt là mặt biển. Mặt biển nổi
sóng ở khoảng cách gần sẽ phản xạ một phần sóng radar và tạo thành ảnh trên
màn ảnh, còn gọi là nhiễu biển. Càng xa anten thì sóng phản xạ từ mặt biển càng
yếu.
Các mục tiêu phân giải theo thể tích là các đám mây, mưa, tuyết rơi, các khối
sương mù dày, các đám bão cát… Ảnh của chúng trên màn ảnh là một đám sáng
lớn, cường độ có thể yếu hoặc rất mạnh tùy theo mức độ dày đặc của mây mưa.
Các ảnh này có tốc độ chuyển động không cố định, tuy nhiên việc nhận biết
được chuyển động của các ảnh này trên màn ảnh trong nhiều trường hợp là
tương đối khó khăn do ảnh hưởng của chuyển động bản thân tàu ta, nhất là nếu
chỉ theo dõi ảnh trong một thời gian ngắn và với thang tầm xa nhỏ, không bao
quát hết khối mây hoặc đám mưa này. Tuy nhiên có thể dễ dàng nhận biết loại
ảnh này do vùng biên của ảnh trên màn ảnh thường không được sắc nét và liên
tục như ảnh của các dải bờ biển, các đảo lớn, ảnh đất liền…
1.5.2. Sự phản xạ sóng radar từ mục tiêu
Một số hình thức phản xạ sóng radar thường gặp trong thực tế, gồm:
- Phản xạ gương: sự phản xạ này xảy ra trên các
bề mặt phẳng và nhẵn. Việc phản xạ tuân theo
nguyên lý góc phản xạ bằng góc tới trong quang
học. Sóng phản xạ rất mạnh nhưng chưa chắc đã
quay về an ten radar, do đó việc phát hiện các mục
tiêu này nói chung không tốt.
Trong thực tế hàng hải, sự phản xạ này có thể xảy ra đối với các kết cấu
phẳng như đập chắn sóng, bức tường dài chạy ven bờ sông, mạn khô của một
con tàu rất lớn chạy gần tàu ta…
Các đập chắn sóng như trên nếu không có hướng tương đối vuông góc với
hướng sóng tới của radar thì thường rất khó phát hiện ngay cả khi khoảng cách
đã khá gần. N ếu phát hiện được thì thông thường là do sóng radar phản xạ từ các
kết cấu hạ tầng của đập như lớp kè đá giảm sóng đổ dưới chân đập hoặc các kết
cấu khác phía trên đập như cột đèn đầu đập, các công trình khác như nhà, thiết
bị trên đập…
19
Tổ môn Máy điện – VTĐ Hàng hải
Môn học: Radar Hàng hải
Mạn khô các tàu lớn chạy gần tàu ta cũng tạo ra phản xạ gương. Tuy nhiên
trên radar vẫn có thể bắt ảnh tàu kia rất rõ do phản xạ từ các cơ cấu khác trên tàu
mục tiêu như thượng tầng, các kết cấu hầm hàng...
- Phản xạ phân kỳ: loại phản xạ này xảy ra trên
các bề mặt gồ ghề có kích thước lớn hơn nhiều so
với bước sóng radar. Sóng radar phản xạ từ mục
tiêu bị phân kỳ ra nhiều hướng khác nhau, trong đó
sẽ có một hướng trở về an ten và tạo ra ảnh trên
màn ảnh. Tuy loại phản xạ này cho sóng phản xạ
cường độ yếu hơn so với phản xạ gương nhưng do luôn có sóng trở về an ten
nên ảnh các mục tiêu sẽ ổn định và lâu bền hơn so với phản xạ gương.
Đây cũng là loại phản xạ xảy ra chủ yếu trong thực tế. Các mục tiêu cho phản
xạ phân kỳ gồm các mục tiêu tự nhiên (đảo, rừng cây, đồi núi…) và hầu hết các
mục tiêu nhân tạo. Các mục tiêu này tương đối dễ phát hiện bằng radar.
- Phản xạ cộng hưởng: loại phản xạ này xảy ra trên các bề mặt gồ ghề có kích
thước gần bằng hoặc bằng bước sóng radar. Loại phản xạ này cho sóng phản xạ
rất mạnh nhưng trong thực tế ít gặp và không bền, dễ mất đi khi hướng sóng tới
thay đổi.
Một ứng dụng thường gặp nhất của loại
phản xạ này là để chế tạo các cơ cấu kiểm
tra chức năng của radar (Performance
Monitor). Trên khối quét an ten sẽ bố trí
một cơ cấu thu một phần năng lượng sóng
phát của radar, căn cứ vào cường độ của
sóng phát này và chuyển hóa thành các chỉ
báo trên màn ảnh (xem ví dụ ảnh bên) để
xác định xem thiết bị radar có đảm bảo các
thông số cần thiết hay không.
Các loại radar cũ có bố trí thiết bị hộp phản xạ sóng radar trên khối quét
anten, cho sóng phản xạ về máy thu cùng với mục đích kiểm tra công suất phát
của radar. Hộp phản xạ sóng có dạng hộp rỗng, kích thước tỉ lệ chính xác với
chiều dài bước sóng và cho sóng phản xạ cộng hưởng có cường độ rất mạnh.
Tuy hộp phản xạ này đặt trong tầm cực tiểu radar, nhưng các dao động cộng
hưởng do nó sinh ra khi radar phát xung, ban đầu có công suất quá lớn so với
mức tín hiệu vào của máy thu, nhưng sau khi xung phát kết thúc, các dao động
này sẽ suy giảm dần và vẫn còn tồn tại trong một thời gian dài, đủ để quay trở
lại máy thu và thể hiện thành ảnh như một mục tiêu bình thường. Thông qua chỉ
báo này có thể biết được tình trạng của máy phát radar.
20
- Xem thêm -