LuËn v¨n tèt nghiÖp
kéo theo đó thì số nợ, trốn đóng BHXH của các doanh nghiệp kể cả trong và
ngoài quốc doanh luôn tăng lên. Tính đến cuối tháng 6 năm 2004, số tiền nợ
đọng mà BHXH phải thu là 562,723 tỷ đồng và đến hết năm 2004 số tiền nợ
đọng là 578,624 tỷ đồng. Dưới đây là bảng số liệu thống kê tình hình nợ đọng
BHXH qua các năm (2000- 2004)
Bảng6: Tình hình nợ đọng BHXH qua các năm.
Năm
2000
2001
2002
479,865
493,634
431,408
2003
2004
Số tiền nợ đọng
BHXH
556,919 578,624
(tỷ đồng)
(Nguồn:
Vụ
BHXH
Việt
nam)
Qua số liệu bảng 6 cho thấy, đến hết năm 2004 số tiền nợ đọng BHXH
là 578,624 tỷ đồng. Đây là số tiền rất lớn mà cơ quan BHXH cần phải có biện
pháp, kế hoạch thu nhằm đảm bảo cho nguồn quỹ BHXH có khả năng thực
hiện tốt hơn nữa các chế độ chi trả BHXH cho NLĐ.
Đặc biệt, có hai ngành nợ đọng BHXH với số tiền nhiều nhất là ngành
Giao thông vận tải và Tổng công ty Cà Phê Việt nam trong đó:
+ Ngành Giao thông vận tải tính đến hết năm 2004 số tiền nợ đọng lên
đến 41,72 tỷ đồng. Chính do các doanh nghiệp ngành Giao thông vận tải nợ
đọng BHXH nên đã xảy ta tình trạng nhiều công nhân đến tuổi nghỉ chế độ đã
không làm thủ tục được để về nghỉ chế độ…
LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Tổng công ty Cà Phê Việt nam thì tính đến hết năm 2004 các doanh
nghiệp thuộc Tổng công ty Cà Phê Việt nam nợ BHXH 38 tỷ đồng.
Qua báo cáo của BHXH về tình hình nợ BHXH ở một số địa phương
như: Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương
… thì tình hình thất thu BHXH là rất lớn, nợ đọng BHXH nhiều (nếu tính đến
hết năm 2004 thì một số tỉnh) như:
+ Hà Nội hiện còn nợ 53,689 tỷ đồng
+ Thành phố Hồ Chí Minh nợ 386,645 tỷ đồng
+ Tỉnh Bình Dương nợ 49,039 tỷ đồng.
Ở Hải phòng nếu tính hết Quý IV năm 2003 khối doanh nghiệp Nhà
nước phải đóng 63,6 tỷ đồng, còn nợ hơn 9 tỷ đồng; các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài phải đóng 14,4 tỷ đồng còn nợ 830 triệu đồng, khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh còn nợ 1,2 tỷ đồng, khối hành chính sự nghiệp,
Đảng đoàn thể còn nợ hơn 405 triệu đồng, hợp tác xã phải đóng 1,3 tỷ đồng
còn nợ 47 triệu đồng. Sang đến hết năm 2004 Hải phòng nợ đọng tiền đóng
BHXH là 26,8 tỷ đồng
Ninh Bình tính đến hết năm 2004 số thu chỉ đạt 65,17% kế hoạch tổng
số còn nợ đọng BHXH lên đến 19,87 tỷ đồng.
Có tình trạng nợ đọng trên là do một số nguyên nhân sau:
-
Một số doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh đã gặp phải
những khó khăn về vốn, thậm chí còn thua lỗ (như Tổng Công ty Cà Phê Việt
nam), vì thế không đủ điều kiện để đóng BHXH cho người lao động.
-
Một số các doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ đóng BHXH để
quay vòng làm ăn, mặc dù họ biết là phải chịu phạt nhưng những doanh
nghiệp này vẫn cố tình chiếm dụng và chấp nhận chịu phạt. Có nhiều doanh
nghiệp ban đầu chỉ là có ý định chiếm dụng quỹ BHXH trong thời gian ngắn
để khắc phục khó khăn hiện tại, nhưng rồi nợ vẫn tăng lên đến mức không có
khả năng thanh toán. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô sản
LuËn v¨n tèt nghiÖp
xuất nhỏ, không ổn định kinh doanh kém hiệu quả, giá thành sản phẩm cao,
thu nhập của NLĐ thấp nên không có khả năng đóng BHXH.
-
Nhận thức của NSDLĐ và người lao động về nghĩa vụ và quyền lợi
đối với việc tham gia BHXH cho người lao động còn hạn chế, chưa nghiêm
chỉnh chấp hành các quy định của Nhà nước về BHXH. Nhiều doanh nghệp
ngoài quốc doanh chưa có tổ chức công đoàn hoặc có nhưng hoạt động yếu
kém vì thế mà chưa bảo vệ được quyền lợi về BHXH cho người lao động.
Hơn nữa là NSDLĐ thường đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận nên hàng đầu nên
đã trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH theo đúng luật định, không quan tâm
đến quyền lợi của NLĐ.
Về tổ chức thực hiện: chưa có giải pháp tích cực để tăng nguồn thu
và chống thất thu quỹ. Cho đến năm 2000 thất thu do chưa đóng tiền BHXH
từ các đơn vị tham gia lao động là khoảng 300 tỷ đồng chiếm 5,88% tổng thu
năm 2000, năm 2001 thất thu là 325 tỷ đồng chiếm 5,13% tổng thu năm 2001,
tình trạng trốn đóng gian lận chiếm dụng tiền của người lao động còn xảy ra ở
nhiều loại hình doanh nghiệp…
Cán bộ chuyên trách thu: cán bộ chuyên thu, đốc thu khi thực hiện
nhiệm vụ của mình đi kiểm tra đôn đốc việc thu nộp vẫn chưa được kiên
quyết trong các trường hợp người sử dụng khất nộp, chậm nộp. Nhiều cán bộ
còn e dè, nể nang do quen biết từ trước hoặc do NSDLĐ là chỗ thân quen của
mình nên thường né tránh sự va chạm, đốc thúc thu nộp BHXH, …
Một số lĩnh vực về thông tin: Thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp
luật BHXH cho NLĐ và NSDLĐ chưa rộng rãi, chưa thường xuyên. Cơ quan
BHXH chưa xây dựng được mạng lưới tuyên truyền viên để tuyên truyền sâu
rộng đến từng cơ sở, đến từng cơ quan, đơn vị về BHXH. Hơn nữa độ chính
xác của thông tin tuyên truyền về BHXH phải chính xác, dễ hiểu đối với
NSDLĐ và NLĐ để khi nắm bắt được thông tin đó NSDLĐ không hiểu sai về
quy tắc làm việc hay các quy định liên quan đến BHXH.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động và chính sách
BHXH chưa thật sâu rộng, người lao động chưa nhận thức đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH nên gây ra nhiều trở ngại cho cán bộ
thu BHXH. Có một số các đơn vị doanh nghiệp còn lấy lý do nọ, kia để kéo
dài thời gian thậm chí lãnh đạo cơ quan còn cố tình không tiếp cán bộ thu
BHXH nên cũng đã gây ức chế cho cán bộ thu BHXH mà hiện tại vẫn chưa
tìm được biện pháp khắc phục tồn tại trên.
Công tác quản lý thu và đốc thu: còn nhiều hạn chế, chưa sâu sát
tới từng cơ sở, chưa thường xuyên đối chiếu số liệu với các đơn vị sử dụng
lao động. Hơn nữa trình độ năng lực cán bộ làm công tác thu BHXH không
đồng đều, còn nhiều cán bộ chưa được đào tạo chuyên môn sâu về nghiệp vụ
thu BHXH…
Chế tài xử lý các vi phạm chính sách BHXH: chưa đủ mạnh, đồng
thời các cơ quan chức năng như Thanh tra Nhà nước, Thanh tra lao động chưa
thường xuyên thực hiện chức năng thanh tra và xử lý các vi phạm trong việc
thực hiện chính sách BHXH của các đơn vị.
Hệ thống BHXH từ Trung ương đến địa phương: chưa hình thành
chiến lược thu có hiệu quả đáp ứng các yêu cầu mới của sự phát triển, khi mở
rộng đối tượng tham gia BHXH. Không ít địa phương còn thụ động trong
hoạt động đốc thu, thiếu các giải pháp trong việc kết hợp các đơn vị liên quan
trong địa phương trong việc hoạt động này.
Cơ chế quản lý phối hợp giữa các ngành hữu quan để thực thi điều lệ
BHXH chưa thật chặt chẽ trong quá trình đăng kí sử dụng lao động chưa có
quy định phải đăng kí tham gia BHXH kèm theo.
Các văn bản pháp lệnh: hệ thống chính sách BHXH thường xuyên
được bổ sung sửa đổi, điều chỉnh theo quá trình thực tế phát sinh của tình
hình kinh tế xã hội và theo điều chỉnh của chính sách tiền lương nên khối
lượng văn bản pháp quy quá nhiều, nhiều văn bản sửa đổi bổ sung… dẫn đến
LuËn v¨n tèt nghiÖp
rất khó cho các cơ quan quản lý, người sử dụng lao động và NLĐ hiểu và lắm
vững chế độ, cập nhật thông tin chính sách BHXH để triển khai thực hiện
đúng quy định, cũng như gây khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát theo dõi
đánh giá về tình hình và kế hoạch triển khai của các đơn vị thu BHXH. Hơn
nữa còn có nhiều văn bản còn chậm so với thời gian quy định thực hiện đến
các cơ quan, đơn vị và NSDLĐ.
Một số quy định về chế độ thu BHXH trong các văn bản quy định
của BHXH: còn bất cập, chưa nhất quán, chưa phù hợp với yêu cầu thực tế…
LuËn v¨n tèt nghiÖp
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THU BHXH Ở VIỆT NAM
I. MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH BHXH
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Mục tiêu của ngành BHXH Việt nam nói chung.
Thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng năm 1986, đất nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước các đơn vị sản xuất kinh doanh phải tự
hạch toán độc lập, phấn đấu đưa đất nước ta đến năm 2020 trở thành nước
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa… Đồng thời chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta mở rộng BHXH đến mọi người lao động làm công ăn lương để góp
phần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Trước yêu cầu đó, hoạt động
BHXH (bao gồm cả BHYT) ở Việt nam đang trong giai đoạn hoàn thiện và
phát triển. Sự phát triển này một mặt phải phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế xã hội của Việt nam, mặt khác phải tuân thủ thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc và đảm bảo đúng bản chất của BHXH nhằm từng bước hòa nhập
với sự phát triển trong lĩnh vực BHXH với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Do vậy những định hướng chính cho chiến lược phát triển BHXH ở Việt
nam phải nhằm vào những mục tiêu sau:
Thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH theo quy định của Tổ chức lao
động Quốc tế ILO về các tiêu chuẩn tối thiểu cho các loại trợ cấp BHXH, cụ
thể là bổ sung chế độ BHXH thất nghiệp, sau đó phát triển thêm các chế độ
chăm sóc sức khỏe cho người già.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Mở rộng mạng lưới BHXH trong phạm vi toàn xã hội theo hướng: mở
rộng đối tượng tham gia BHXH nhằm tiến tới BHXH cho mọi người lao
động, có việc làm và có thu nhập từ lao động: mở rộng BHYT đến toàn dân.
Trước mắt, phấn đầu đến năm 2010 có khoảng 12 triệu người tham gia
BHXH, chiếm 22% lực lượng lao động xã hội; khoảng 60 triệu người tham
gia BHYT chiếm 70% dân số.
Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia BHXH.
Tăng nhanh nguồn thu quỹ từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Thực
hiện chi đúng, thu đủ và kịp thời các chế độ BHXH hiện hành. Đặc biệt chú ý
đến mức sống của người về hưu gắn liền với khả năng phát triển kinh tế
chung của đất nước.
Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất và được hạch toán độc
lập theo từng quỹ thành phần. Giảm dần nguồn chi từ ngân sách Nhà nước
cho các đối tượng hưởng từ trước năm 1995, từng bước điều chỉnh mối quan
hệ thích hợp giữa mức đóng và quyền lợi được hưởng của từng chế độ BHXH
nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH lâu dài.
Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ ngành BHXH Việt nam theo
hướng hiệu quả và hiện đại nhằm đáp ứng sự phát triển của ngành và phục vụ
tốt cho mọi người tham gia BHXH đồng thời góp phần nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ BHXH nói chung và cán bộ BHXH làm công
tác thu đóng BHXH nói riêng.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về các chính sách, chế dộ BHXH và
đảm bảo đầy đủ các điều kiện thực hiện hệ thống pháp luật này. Tuyên truyền
sâu rộng và triển khai đưa pháp luật BHXH vào đời sống xã hội để thực sự trở
thành quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân Việt nam và tạo lập lên tiêu
chuẩn mức sống của xã hội Việt nam.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
2. Mục tiêu của ban thu ngành BHXH nói riêng.
BHXH việt nam là đơn vị hành chính sự nghiệp đặc thù, thực hiện
nhiệm vụ quỹ BHXH để chi trả cho người lao động, giảm gánh nặng chi
BHXH cho ngân sách. Quỹ BHXH thu vào hàng năm được quản lý tập trung
tại cơ quan BHXH việt nam đã đóng góp tích cực, tác động tốt đến người lao
động và nền kinh tế đất nước trong thời gian qua. Bước sang giai đoạn Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa của đất nước, BHXH việt nam cùng với Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội quyết tâm đưa ngành BHXH đi lên đáp ứng
nhu cầu đúng đắn của người lao động, đưa chính sách BHXH ở Việt nam trở
thành một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Góp phần
vào mục tiêu xây dựng kinh tế - xã hội chung của đất nước, ban thu BHXH
Việt nam cũng đặt ra những mục tiêu và phương hướng cho riêng mình trong
thời gian tới.
Bảng7: Tình hình thực hiện và dự báo số người tham gia và số thu
của ngành BHXH Việt nam từ năm 2001 đến năm 2010.
Chỉ tiêu
Thực hiện Thực hiện Thực hiện Thực hiện
2001
2002
2003
2004
Dự báo
2005
Dự báo
2010
Số lao động
tham gia
BHXH
4.476
4.845
5.387
5.820
7.000
12.000
bắt buộc
(nghìn
người)
Số thu BHXH
bắt buộc 6.348,185 6.963,023 11488,350 12929,000 15.000,000 32.500,000
(tỷ đồng)
(Nguồn BHXH Việt nam)
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Như vậy từ số liệu bảng 7 cho thấy, mục tiêu của ban thu của ngành
BHXH Việt nam là phấn đấu đến hết năm 2005 số thu BHXH bắt buộc đạt
được là 15.000 tỷ đồng với số lượng người tham gia BHXH là 7000 nghìn
người và đến năm 2010 số thu BHXH Việt nam là 32.500 tỷ đồng với số
lượng người tham gia BHXH là 12000 nghìn người.
Cố gắng nỗ lực, đoàn kết hơn nữa trong công việc để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Đồng thời không ngừng học hỏi, tìm hiểu các văn bản
quy phạm pháp luật về luật BHXH nói chung và thực hiện tốt các chỉ thị
thông tư hướng dẫn của ban thu BHXH Việt nam nói riêng để có phương án
kế hoạch thu đạt hiệu qủa cao trong công tác thu và đốc thu đóng góp BHXH.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG
TÁC THU QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM.
Qua thời gian nghiên cứu học tập tại trường cùng với thời gian thực tập
thực tế tại Vụ BHXH thuộc Bộ lao động - Thương binh và Xã hội, được sự
hướng dẫn tận tình của toàn thể cán bộ công chức trong cơ quan về phương
pháp, tình hình thực hiện nghiệp vụ về công tác thu BHXH. Kết quả phân tích
trong thời gian qua về công tác thu BHXH và vấn đề nợ đọng BHXH cho thấy
còn tồn tại rất nhiều những khó khăn. Chính những khó khăn, tồn tại này gây
ra nhiều cản trở, ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện triển, khai chính sách
BHXH ở Việt nam nói chung và cho ban thu BHXH nói riêng về vấn đề thu
nộp và giải quyết nợ đọng từ người tham gia BHXH. Để chính sách BHXH
nói chung và công tác thu BHXH nói riêng đạt được kết quả hơn nữa thì cá
nhân em có đưa ra một số ý kiến của bản thân:
1. Một số kiến nghị đối với chính sách Nhà nước về BHXH.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.1 Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đến sự nghiệp
BHXH
Mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế xã hội đều cần đến sự chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước. Vì thế, để chính sách BHXH ở Việt nam được hoàn
thiện hơn đáp ứng được yêu cầu của người tham gia BHXH thì cũng không
thể nằm ngoài phương hướng hoạt động của Nhà nước và sự chỉ đạo của
Đảng. Tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta đến sự
nghiệp BHXH ở Việt nam là một trong những nhân tố đáp ứng được mục tiêu
của ngành BHXH.
Mục tiêu của BHXH là phục vụ con người, vì lợi ích của số đông
người lao động, từ đó góp phần tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội giữa
vững thể chế chính trị của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt BHXH ở Việt nam
còn là một ngành mới còn non trẻ, các chế độ chính sách về BHXH chưa
được hoàn chỉnh vẫn đang trong quá trình hoàn thiện từng bước, cơ chế quản
lý tài chính BHXH cũng còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, chế tài xử phạt còn
lỏng lẻo và nhẹ. Theo Nhị định số 38/CP về xử phạt hành chính đố với lĩnh
vực BHXH, mức phạt 2 triệu đồng cho tất cả các hành vi vi phạm pháp luật,
đội ngũ cán bộ còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản quy phạm
pháp luật và Luật BHXH còn rườm rà chưa sâu sát cao, chưa đưa ra một số
hành vi vi phạm cụ thể… chính vì lý do đó mà BHXH Việt nam rất cần có sự
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước để ngành BHXH phát triển đúng hướng, thực
hiện được mục tiêu lâu dài của toàn ngành.
Để công tác thu BHXH có thể thực hiện được tốt hơn nữa: không có
tình trạng thất thu, không có tình trạng chiếm dụng quỹ hoặc sử dụng sai mục
đích hoặc giảm tỷ lệ nợ đọng trốn đóng nộp tiền BHXH… thì cần được các
cấp uỷ Đảng chính quyền đưa vào nghị quyết, được cụ thể hoá vào nội dung
nhiệm vụ cùng với phương hướng sản xuất kinh doanh tại đơn vị, đồng thời
LuËn v¨n tèt nghiÖp
tạo mọi điều kiện để công tác thu BHXH được tiến hành một cách thuận tiện,
trước hết mỗi cán bộ Đảng viên phải gương mẫu thực hiện chính sách, chế độ
BHXH. Bởi chính sách BHXH khó có thể thực hiện tốt nếu chỉ có sự nỗ lực
từ phía cơ quan BHXH mà cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ
đảng chính quyền, cơ quan quản lý Nhà nước.
1.2 Bổ sung, ban hành và hoàn thiện Luật BHXH nhằm tạo sự
thông thoáng trong việc triển khai BHXH.
Một đất nước không thể tồn tại nếu không có Luật pháp, một chính
sách không thể thực thi được khi mà không có các văn bản, thông tư các quy
định đặc biệt là các Luật để mọi người tuân theo đồng thời là để cưỡng chế
những hành vi vi phạm nằm ngoài. BHXH ở nước ta do ra đời muộn lại hoạt
động trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua hai cuộc kháng chiến và đang
trong quá trình xây dựng đất nước tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Do vậy
mà BHXH ở Việt nam còn nhiều tồn tại đã gây không ít khó khăn cho việc
thực hiện chính sách BHXH nói chung và khó khăn cho công tác thu BHXH
nói riêng. Mặc dù Pháp luật hiện hành của luật BHXH căn cứ vào Nghị định
số 38/CP để xử lý hành vi vi phạm của NSDLĐ nhưng vẫn còn thiếu nhiều
hành vi của các đối tượng khác có liên qua đến như: cơ quan BHXH Việt nam
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ cho người tham gia
BHXH chưa bị xử lý.
Vì vậy mà cần phải sớm ban hành và hoàn thiện hệ thống Luật BHXH
để chính sách BHXH được thực hiện đến mọi người dân. Hơn nữa khi Luật
BHXH ra đời được hoàn thiện theo một hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý và là căn
cứ cơ bản đầu tiên để điều chỉnh các quan hệ về lao động, đồng thời thực hiện
chính sách BHXH nói chung và nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu
BHXH cho toàn ngành chuyên thu nói riêng.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Nhìn chung, hệ thống văn bản pháp lý về BHXH từ khi có Bộ Luật lao
động năm 1994 đã tạo nên hành lang pháp lý trong việc thực hiện chính sách
BHXH. Các văn bản này đã đảm bảo tính kế thừa những nội dung hợp lý
chính sách trong các chính sách đã ban hành và tính phát triển nhằm đáp ứng
yêu cầu thực tiễn giải quyết kịp thời các vấn đề tồn tại, bức xúc trong việc
thực hiện chính sách BHXH, góp phần nâng cao tính pháp chế Xã hội chủ
nghĩa và tạo cơ sở để phát triển luật BHXH trong thời gian tới. Từ đó nhằm
hình thành lên một chính sách BHXH đi vào cuộc sống của mỗi người dân
Việt nam góp phần ổn định đới sống cho người tham gia BHXH. Do vậy, vấn
đề: Phải nhanh chóng khắc phục, giải quyết tình thế nhất thời trước mắt mang
tính đối phó vì luật BHXH ban hành hôm nay không chỉ áp dụng giải quyết
chế độ cho người lao động trước đây đã công tác nghỉ hưu mà còn áp dụng
cho cả hiện tại và tương lai. Việc ban hành Luật BHXH sẽ làm tăng cường
tính pháp lý của các quy phạm pháp luật điều chỉnh công tác thu BHXH của
các doanh nghiệp. Đặc biệt là trong luật phải có điều khoản quy định về nghĩa
vụ thu BHXH của NSDLĐ và cơ quan BHXH trong việc thu nộp của người
lao động, đồng thời chú trọng đến các hình thức sử phạt nghiêm minh hơn đối
với các doanh nghiệp vi phạm Luật BHXH.
Việc ban hành Luật BHXH sao cho tạo được sự bình đẳng giữa những
người tham gia BHXH và công bằng trong việc sử phạt những vi phạm. Sau
khi ban hành Luật BHXH cần phải thông báo thông tin cho các cơ quan doanh
nghiệp và người tham gia BHXH được biết để tránh tình trạng khi hỏi đến thì
mới có Luật. Đồng thời phải được thực hiện thống nhất và đồng bộ trong cả
nước do vậy Luật BHXH phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với sự phát
triển chung của xã hội để đảm bảo cho mọi người lao động ở bất cứ thành
phần kinh tế nào cũng được tham gia và thụ hưởng những quyền lợi về
BHXH.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.3 Nhà nước nên áp dụng việc thu nộp BHXH thông qua thu nộp
thuế từ các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động.
Nhà nước nên áp dụng và cho phép Cơ quan BHXH Việt nam phối hợp
với ban thu thuế Nhà nước yêu cầu đối với các doanh nghiệp kinh doanh
trong và ngoài quốc doanh ngoài việc đăng kí kinh doanh phải đăng kí mã số
thuế, đăng kí số người lao động và số người lao động thay đổi thì phải thông
báo cho cơ quan BHXH biết, cơ qua BHXH sẽ lập danh sách và số thu chi tiết
gửi ban thu thuế nhà nước có trách nhiệm thu nộp. Hàng tháng, quý và cuối
năm các doanh nghiệp này phải nộp thuế cho cơ quan thuế Nhà nước bao gồm
phải nộp cả số tiền đóng quỹ BHXH cho NSDLĐ và NLĐ thì cơ quan thuế
mới chấp nhận việc thu nộp này. Bởi nếu trong trường hợp các cơ quan này
không nộp thuế cho Nhà nước thì sẽ bị coi là vi phạm Pháp luật của nhà nước
và luật kinh doanh.
1.4 Nhà nước tạo mọi điều kiện để cho các thành phần kinh tế
phát triển.
Nhà nước có tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển thì hiệu
quả của công tác thu BHXH mới đạt được kết quả tốt. Bởi lẽ, hiện nay BHXH
đang được triển khai rộng trên phạm vi là các thành phần kinh tế trong và
ngoài quốc doanh và xu hướng hiện nay là NLĐ làm việc trong khu vự ngoài
quốc doanh đang gia tăng cho nên để có thể thu được tiền đóng BHXH từ các
đối tượng này thì chỉ khi các doanh nghiệp mà họ đang làm, làm ăn phát triển
và có lợi nhuận. Chính vì thế khi Nhà nước tạo sự thông thoáng trong kinh
doanh, có sự định hướng kinh tế lớn và có chiến lược phát triển cho các thành
phần kinh tế này như: sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn để đầu tư phát triển
hay giảm thuế… thì khi đó các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mục tiêu lợi
ích kinh tế của họ đáp ứng thì lục này họ sẽ không ngần ngại đóng BHXH cho
LuËn v¨n tèt nghiÖp
người lao động. Đây một trong những biện pháp kích cầu để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp sản xuật kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời là một trong
những biện pháp quan trọng để nâng cao số thu cho nguồn quỹ BHXH góp
phần giảm chi cho Ngân sách Nhà nước.
1.5 Tăng cường các biện pháp chế tài xử phạt đối với các trường
hợp vi phạm nghĩa vụ thu nộp BHXH cho người lao động.
Chế tài xử phạt vi phạm BHXH theo Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996
của Chính phủ chưa đủ mạnh để tác động hữu hiệu đến các doanh nghiệp vi
phạm (hành vi trốn đóng, gian lận, không trích nộp BHXH kịp thời…) các
trường hợp vi phạm như vậy mức phạt chung là 2 triệu đồng. Nếu cứ giữ mức
phạt như hiện nay thì quá thấp cho các doanh nghiệp có số nợ đọng lên tới
hàng trăm, hàng triệu đồng. Do vậy, Nhà nước cần tăng cường các biện pháp
chế tài đủ mạnh để có thể răn đe, cảnh cáo và phạt mạnh đối với các hành vi
trốn đóng, chậm nộp và cố tình trốn đóng BHXH.
Đây là một trong những biện pháp nhằm tăng cường công tác pháp chế
trong BHXH. Hiện nay, trong các văn bản hiện hành Nhà nước mới chỉ giao
cho BHXH Việt Nam quyền kiểm tra, quyền truy thu chứ chưa giao quyền xử
lý các trường hợp vi phạm chính sách BHXH như nộp chậm hoặc không nộp,
trốn nợ hoặc không đóng BHXH. Vì vậy để nâng cao chế tài xử phạt và đảm
bảo công bằng cho người tham gia BHXH và mức chịu trách nhiệm cao nhất
của các đơn vị nợ đọng thì lại quá thấp, ngày 16/4/2004 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 113/2004/NĐ - CP trong đó quy định xử phạt hành chính
đối với hành vi vi phạm pháp luật BHXH nhưng mức phạt cao nhất mới chỉ
có 20 triệu đồng bởi có những doanh nghiệp nợ tiền đóng BHXH lên tới hàng
tỷ đồng như Tổng công ty Cà phê Việt nam hoặc ngành Giao thông vận tải họ
sẵn sàng chịu phạt để chiếm dụng số quỹ đóng đó để quay vòng. Do vậy, nên
chăng cần có các chế tài xử phạt nghiêm minh và nặng hơn cho các mức nợ
LuËn v¨n tèt nghiÖp
đọng và số tiền phạt hành chính có thể là cao hơn 20 triệu… Mức cao nhất có
thể là phạt hình sự đối với đối tượng trốn đóng tiền BHXH
Hơn nữa đó là chưa kể đến tình trạng của các chế tài xử phạt các đối
tượng vi phạm quỹ đóng BHXH từ người tham gia BHXH. Bởi khi phát hiện
ra cơ quan BHXH lại không được quyền xử phạt mà chỉ là lập biên bản và gửi
các cơ quan có thẩm quyền xử lý do vậy mà tình trạng thất thu của quỹ
BHXH ngày một tăng lên. Chính vì vậy nên chăng Nhà nước cần giao cho cơ
quan BHXH Việt nam những biện pháp với tính cưỡng chế mạnh… Để nhằm
thực hiện tốt vai trò của cơ quan BHXH Việt nam đó là đảm bảo quyền lợi
cho người lao động.
2. Một số kiến nghị đối với BHXH Việt nam.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống BHXH làm cho nó không những chỉ
trở thành một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trình độ văn
minh tiềm lực và sức mạnh kinh tế mà còn trở thành trụ cột của mạng lưới an
sinh xã hội. Là chỗ dựa vững chắc cả về vật chất lẫn tinh thần cho NLĐ khi
họ tham gia đóng góp vào BHXH Việt nam.
Mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới mọi NLĐ thuộc các
thành phần kinh tế: BHXH Việt nam cần mở rộng đối tượng tham gia
BHXH tới mọi người lao động trong bất cứ ngành nghế nào thuộc thành phần
kinh tế nào miễn là họ tham gia đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH như luật
định. Từ đó mở rộng quỹ thu đóng BHXH để có thể thực hiện chính sách
BHXH ngày một tốt hơn. Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH,
Nhà nước ta cần ban hành các chính sách BHXH tự nguyện bởi cho đến nay
thành phần lao động ở nước ta còn chiếm 80% là lao động làm nông nghiệp.
Ngoài ra còn có thợ thủ công, người buôn bán nhỏ… các đối tượng này chiếm
đa số trong tổng số lao động nước ta mà vẫn chưa được tham gia BHXH. Có
mở rộng đối tượng tham gia BHXH thì mới đáp ứng được yêu cầu quỹ BHXH
LuËn v¨n tèt nghiÖp
dùng chi trả cho các chế độ BHXH nằm ngoài sự hỗ trợ của ngân sách Nhà
nước vì lúc đó BHXH đã được thực hiện với một số lượng đông người tham
gia đảm bảo được quy luật số đông bù số ít trong bảo hiểm.
Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ trong ngành BHXH
Việt nam từ Trung ương đến địa phương: Cơ quan BHXH cần chú
trọng đến việc đào tạo nâng cao năng lực quản lý của cán bộ trong ngành
BHXH Việt nam về các nghiệp vụ thu chi, quản lí quỹ thực hiện các chế độ
chính sách BHXH đối với người lao động nhằm mục đích phục vụ tốt nhất
cho đối tượng tham gia BHXH. Để đẩy mạnh công tác thu BHXH cần phải
ban hành ngay các văn bản pháp Luật các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
phải tham gia BHXH phải quy định rõ ràng các doanh nghiệp khi đăng kí
kinh doanh phải tham gia BHXH cho NLĐ thì mới cấp giấy phép đăng kí
kinh doanh. Đồng thời phải chấp hành nghiêm chỉnh việc đóng BHXH cho cơ
quan BHXH có chức năng thẩm quyền nhằm tránh tình trạng chậm nộp rồi
dẫn đến nợ đọng quá nhiều và cuối cùng là không trả được làm cho quỹ
BHXH bị thất thu. Thường xuyên tổ chức các lớp học và kiểm tra năng lực
của cán bộ nhằm nâng cao năng lực của cán bộ đồng thời không ngừng học
hỏi kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới về triển khai thực hiện
nghiệp vụ BHXH và thực hiện chính sách đó, đặc biệt là phương thức thu
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thu nộp.
Phải có chính sách nhằm thu hút các đối tượng tham gia
BHXH giai đoạn từ nay đến năm 2010. Trước hết phải tổ chức thực hiện
BHXH cho các đối tượng bắt buộc quy định tại nghị định số 01/2003/NĐ CP ngày 09/01/2003 và mở rộng phạm vi tham gia cho một số đối tượng là
lao động tự do… có nhu cầu và khả năng tham gia BHXH. Còn đối với
BHYT từ nay đến giai đoạn 2010 ngoài các đối tượng thuộc diện bắt buộc
theo quy định hiện hành, cần phải từng bước mở rộng đối tượng tham gia
BHYT bắt buộc cho một số đối tượng như học sinh, sinh viên, trẻ em dưới 6
LuËn v¨n tèt nghiÖp
tuổi và những người tham gia BHYT bắt buộc đồng thời thực hiện rộng rãi
loại hình BHYT tự nguyện trong toàn xã hội. Mục đích là nhằm tăng nguồn
quỹ thu đóng BHXH để có thể trang trải cho các chế độ BHXH cần thiết.
BHXH Việt nam cần có kế hoạch đưa công nghệ thông tin
vào việc quản lý quỹ và quản lý thu BHXH. Bởi với số lượng đối tượng
tham gia BHXH ngày một được mở rộng, số tiền thu đóng góp ngày một lớn
mặt khác đội ngũ cán bộ công chức của cơ quan chuyên thu BHXH thì lại có
hạn, chính vì thế mà cần có kế hoạch ứng dụng tin học vào nhằm quản lý quỹ
thu BHXH từ đối tượng tham gia BHXH được tốt hơn.
Hơn nữa, hiện nay vấn đề công nghệ thông tin đang được áp dụng mạnh
mẽ vào công tác quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực
kinh tế xã hội trong đời sống kinh tế thị trường. Mặc dù hiện nay cơ quan
BHXH Việt nam đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động nhưng trình độ về tin
học của đội ngũ cán bộ thì lại còn hạn chế chưa khai thác hết khả năng để áp
dụng vào quản lý thu quỹ BHXH từ người tham gia BHXH. Chính vì vậy mà
ngành BHXH Việt nam cần có những chủ trương kế hoạch để mở lớp đào tạo
về tin học cho các cán bộ chuyên trách nhằm nâng cao kĩ năng sử dụng tin
học…
Cần hoàn thiện hệ thống công tác thu BHXH thống nhất từ
Trung ương đến địa phương. Do quỹ BHXH được thu từ người tham gia
BHXH (NLĐ, NSDLĐ và sự bù thiếu của Nhà nước) ngoài ra còn có từ
nguồn đầu tư quỹ nhằm sinh lời hoặc tiền thu phạt các doanh nghiệp nợ
đọng… Chính vì lẽ đó cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống công tác thu
BHXH nhằm được thống nhất từ cơ sở đến cấp tỉnh và Trung ương với
nguyên tắc hoạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, cân đối thu chi.
Cơ quan BHXH nên thiết lập đường dây nóng: để có thể nắm
bắt được thông tin, nguyên vọng và nhu cầu từ người tham gia BHXH thì cơ
quan BHXH nên thiết lập đường dây nóng (dường dây liên lạc đến cơ quan
LuËn v¨n tèt nghiÖp
BHXH) cho cơ quan BHXH Việt nam nói chung và cho mỗi ban ngành trong
cơ quan BHXH nói riêng như ban thu BHXH, ban chi BHXH, ban giải quyết
các chế độ… để từ đó người lao động, người sử dụng lao động có thể chủ
động thông báo những thông tin cần thiết cho cơ quan BHXH góp phần làm
cho cơ quan BHXH lắm bắt kịp thời về đối tượng tham gia và tình hình hoạt
động của các cơ sở tham gia BHXH. Và ngược lại có cơ quan BHXH cũng có
thể giải giải đáp được những yêu cầu thắc mắc từ phía người tham gia BHXH
làm cho họ hiểu rõ hơn về bản chất của BHXH và chính sách BHXH mà
Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành triển khai thực hiện đến mọi người
lao động.
Hàng năm cơ quan BHXH có kế hoạch đi thanh tra, kiểm
tra các cơ sở xản xuất kinh doanh, các đơn vị có sử dụng lao động:
cơ quan BHXH hàng năm cũng cần phải có kế hoạch thanh tra, kiểm tra xem
quá trình đăng kí kinh doanh có hợp lệ, xem xét đối chiếu danh sách lao động
thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc có được người dụng lao động đăng kí để
đóng góp BHXH hay không và sự thay đổi số lượng người lao động tham gia
BHXH ở các cơ quan đơn vị có sử dụng lao động. Và qua khảo sát thực tế cơ
quan BHXH Việt nam sẽ có thêm được thông tin cũng như nhu cầu của người
tham gia BHXH. Từ đó tạo lên sự gần gũi và làm cho người lao động hiểu
thêm về chính sách BHXH mà họ đang xây dựng cho tương lai.
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến
chính sách BHXH: Công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách
BHXH đến với từng người lao động và người sử dụng lao động, đến các
doanh nghiệp cũng là một điều rất cần thiết đối với ngành BHXH Việt nam
bởi một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng số người tham gia
BHXH còn ít, số tiền nợ đọng đóng BHXH nhiều… là do sự nhận thức, sự
hiểu biết của người lao động và chủ sử dụng lao động còn hạn chế. Đối với
người lao động thì chưa thấy được quyền lợi tham gia BHXH sẽ mang lại cho
LuËn v¨n tèt nghiÖp
họ sự yên tâm trong cuộc sống khi không may có xảy ra rủi ro đối với họ hoặc
khi về già họ sẽ được hưởng quyền lợi về một số chế độ phần nào bù đắp
được nhu cầu cuộc sống của họ, còn đối với NSDLĐ thì tham gia BHXH cho
cả NLĐ và chính họ thì họ sẽ yên tâm trong sản xuất kinh doanh khi không
may NLĐ của họ gặp rủi ro… từ đó làm cho năng xuất lao động tăng lên.
Chính vì thế BHXH Việt nam cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên
truyền rộng rãi về BHXH đến với từng đơn vị sử dụng lao động, đến từng
doanh nghiệp và tới từng người trong toàn xã hội nhằm góp phần hiểu biết
của người dân về BHXH.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA CÔNG TÁC THU BHXH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI.
1. Về cán bộ chuyên quản, chuyên thu của ngành BHXH Việt
nam.
Đối với cán bộ chuyên thu ở địa phương, các cấp cơ sở :
+ Chủ động mở rộng đối tượng tham gia BHXH, trọng tâm là khu vực
kinh tế ngoài Nhà nước, tổ chức tốt mạng lưới thu BHXH ở các cấp cơ sở.
+ Xây dựng cơ chế phối hợp với các ban ngành, đoàn thể ở địa phương
để thực hiện tốt chính sách BHXH đối với NLĐ. Chủ động đôn đốc, kiểm tra,
giám sát việc thu nộp BHXH nhất là những đơn vị cố tình vi phạm xử lý kịp
thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu BHXH.
+ Đào tạo nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo điều hành của cán bộ
chuyên quản nhất là cán bộ cấp huyện, thị, xã. Tăng cường công tác kiểm tra
hướng dẫn nghiệp vụ thu nộp BHXH từ người tham gia tại BHXH tỉnh, thành
phố và các đơn vị sử dụng lao động. Nhằm thống nhất trong tổ chức thực hiện
những quy định của BHXH Việt nam về lĩnh vực thu cấp sổ BHXH, phiếu
khám chữa bệnh, thẻ BHYT.
+ Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về lĩnh vực thu BHXH
với nhiều hình thức phong phú, tăng tần suất thông tin đại chúng trên các
phương tiện có thể như quảng cáo thương mại nhằm nâng cao nhận thức về
chế độ chính sách BHXH đối với người lao động.
Đối với cán bộ chuyên thu ở Trung ương:
+ Chủ động, tăng cường quan hệ phối hợp công tác với BHXH các tỉnh
thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý công tác thu nộp tiền
BHXH.
- Xem thêm -