Quốc gia nào áp dụng ?. Hệ thống bảo hiểm xã hội mà có chế độ tuổi già ở
hầu hết các nước (trong đó có Việt Nam) là hệ thống bảo hiểm chế độ trợ cấp
xác định. Trong khi đó hệ thống tiết kiệm hưu trí bắt buộc ở Chile và Quỹ dự
trữ quốc gia ở các nước Malayxia và Singapore lại là những ví dụ điển hình
về hệ thống bảo hiểm có mức đóng góp xác định.
Nhiệm vụ của những người chịu trách nhiệm thực hiện là phải xác định được
chính xác những khoản chi phí chính đáng trong tương lai sẽ chi ra từ quỹ nhưng
điều đó dường như không thể bởi những thay đổi không tiên đoán trước được sẽ
xảy ra. Do những ước tính là không thể thực hiện được nên khi xác định mức
đóng góp người ta phải xác định thêm một lượng đủ để dự trữ cho các sự cố phát
sinh làm tăng thêm các chi phí trong tương lai. Hơn nữa, việc xác định mức trợ
cấp lại không hoàn toàn mang tính kỹ thuật mà còn liên quan đến nhiều vấn đề
kinh tế xã hội ( nghĩa là việc xác định mối quan hệ giữa đóng và hưởng chỉ mang
tính chất tương đối ).
Khi xác định mức đóng góp BHXH phải đảm bảo nguyên tắc:
- Phải cân bằng Thu - Chi.
- Lấy số đông bù số ít.
- Có dự phòng.
Khoản tiền đóng góp của những người tham gia BHXH cho quỹ BHXH được
gọi là phí BHXH :
Ptp = Ptt + Phc + Pdp
Trong đó: Ptp: phí toàn phần.
Ptt: phí thuần tuý.
Phc: chi phí hành chính.
Pdp: phần an toàn.
Phí thuần tuý được dùng để chi trả trợ cấp các chế độ BHXH và đó là phần
mà những người lao động tham gia BHXH sẽ được nhận khi họ có đủ các điều
kiện hưởng trợ cấp. Đây là phần chiếm tỷ trọng lớn nhất trong quỹ BHXH việc
xác định phí thuần tuý liên quan trực tiếp đến mức trợ cấp BHXH. Thông thường,
mức trợ cấp càng cao thì phí thuần tuý cũng được tăng lên và ngược lại, tuy nhiên
điều này cũng không phải luôn đúng khi số lượng những đóng góp vào quỹ là lớn
và chỉ có số ít những người hưởng trợ cấp.
21
Chi phí hành chính được dùng để trang trải cho các hoạt động sự nghiệp.
Những người thực hiện BHXH suy cho cùng họ không thể uống nước lã mà sống (
thậm chí nước lã cũng mất tiền ) và thêm vào đó là các khoản chi phí để xây dựng
cơ sở vật chất, hạ tầng... Nguồn tài chính tài trợ cho các chi phí này là từ quỹ
BHXH. Chi phí hành chính bị ảnh hưởng bởi cả thời gian thành lập và độ lớn của
tổ chức BHXH. Các tổ chức BHXH mới thành lập thường có chi phí hành chính
cao hơn bởi những hệ thống này còn đang trong giai đoạn học hỏi để hoạt động có
hiệu quả. Những hệ thống BHXH nhỏ có chi phí hành chính cao hơn gắn với mức
đóng góp bởi vì những hệ thống này không thể thực hiện lợi thế của tiết kiệm do
mở rộng quy mô do những chức năng hành chính được chuyên môn hoá cao hơn
và khả năng dàn trải chi phí cố định đối với chi phí hành chính ra cho nhiều người
tham gia.
Phần an toàn được thiết lập để đối phó với những biến cố xảy ra trong tương
lai và được dùng tới khi mức trợ cấp vượt quá so với dự tính.
Bảng 01: Mức đóng góp BHXH của một số nước trên thế giới.
Chính phủ
Tên nước
Tỷ lệ đóng góp của
NLĐ so với tiền
lương (%)
Tỷ lệ đóng góp của
NSDLĐ so với quỹ
lương (%)
14,8 .. 18,8
16,3 ..22,6
CHLB Đức Bù thiếu
CH Pháp
Bù thiếu
11,82
19,68
Indonexia
Bù thiếu
3,0
6,5
Philippin
Bù thiếu
2,85 .. 9,25
6,85 .. 8,05
Malaixia
Chi toàn bộ
chế độ ốm
đau, thai sản
9,5
12,75
Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới.
4. Sử dụng nguồn
a, Điều kiện hưởng trợ cấp
Như đã nêu, không phải tất cả những người tham gia đều được nhận trợ cấp và
không phải ai cũng nhận được một khoản trợ cấp như nhau mà chỉ khi họ thực sự
bị mất hay giảm thu nhập. Nghĩa là họ gặp phải các rủi ro trong quá trình lao động
và trong cuộc sống. Các rủi ro này có thể là:
22
- Theo nguyên nhân:
+ Những rủi ro thể chất: Làm giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do
những nguyên nhân nghề ngiệp như bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc
không do nguyên nhân nghề nghiệp như ốm đau, sinh đẻ, tuổi già... làm cho sức
lao động của đối tượng bị giảm sút hoặc mất hẳn.
+ Rủi ro kinh tế: Loại rủi ro này cũng làm giảm hoặc mất thu nhập do sức lao
động không được sử dụng. Đó là trường hợp thất nghiệp.
+ Làm giảm mức sống vì những chi tiết bất thường: Đây là loại rủi ro liên
quan đến sử dụng thu nhập. Thu nhập của người lao động trong các trường hợp
này không phải do giảm hay mất đi mà do phải sử dụng thu nhập để chi cho các
khoản chi bất thường như chi phí thuốc men, chữa bệnh hoặc các đảm phụ gia
đình.
- Theo hậu quả:
Về biểu hiện, có nhiều loại rủi ro khác nhau nhưng đều có hậu quả là đe doạ
sự an toàn về kinh tế của người lao động cũng như gia đình họ. Những rủi ro này
cũng bao gồm cả rủi ro về thể chất và rủi ro về kinh tế.
Tuy nhiên, không phải tất cả những rủi ro nêu trên đều thuộc đối tượng của
BHXH (chẳng hạn như tai nạn chiến tranh,...). Ngay cả những rủi ro được gọi là
đối tượng của BHXH không phải lúc nào cũng được bảo hộ, được đền bù. Trong
lịch sử phát triển của mình, ban đầu các trường hợp được BHXH là những rủi ro
liên quan đến quá trình lao động của người làm công ăn lương như ốm đau, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Dần dần ý niệm về Bảo hiểm xã hội hiểm xã
hội được mở rộng nên các trường hợp được BHXH cũng được mở rộng dần cả
trong và ngoài quá trình lao động .
Ngoài những quy định về rủi ro, còn có các quy định về tuổi đời và thời gian
tham gia BHXH. Quy định về tuổi đời nhằm xác lập mức chi trả trợ cấp, quy định
về thời gian tham gia nhằm xác lập mức độ dóng góp. Hai điều kiện này là một
trong những biện pháp cân đối thu chi của BHXH và thực hiện nguyên tắc có
đóng có hưởng, đóng ít hưởng ít, đóng nhiều hưởng nhiều.
Một vài ví dụ :
Với chế độ ốm đau: Thời gian đóng BHXH trước khi được hưởng trợ cấp ốm
đau ở Mianma quy định là 6 tháng, Iran là 3 tháng...
23
Với chế độ thai sản: Thời gian đóng BHXH trước khi được hưởng trợ cấp
thai sản đối với Mianma là 26 tuần, Đài loan: 10 tháng, Ấn độ: 18 tuần...
Với chế độ hưu trí: Thời gian tham gia đóng BHXH trước khi nghỉ hưu ở các
nước thường là 60 cho nam và 55 cho nữ ( một số nước có quy định khác:
Ôxtrâylia: 65 cho nam, 60 cho nữ; Sri lanka: 55 cho nam và 50 cho nữ ). Thời
gian tham gia BHXH trước khi hưởng chế độ hưu trí thường là từ 20 đến 30 năm.
b, Xác định mức trợ cấp
Theo quan điểm của BHXH, mức trợ cấp phải thấp hơn mức tiền lương lúc
đang đi làm, nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu. Nhưng mức trợ cấp là bao
nhiêu ?. chúng ta biết rằng mục đích của BHXH là bù đắp lại một phần thu nhập
đã bị mất và góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động. Do đó, để xác định
mức trợ cấp người ta dựa vào:
Mức giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động. Khi
những rủi ro xảy ra, mức độ suy giảm khả năng lao động khác nhau dẫn tới việc
giảm thu nhập khác nhau. Do đó, mức trợ cấp BHXH phải căn cứ vào mức suy
giảm thu nhập để có thể bù đắp một cách hợp lý. Tuy nhiên đối với cả một tập hợp
người lao động với những mức độ suy giảm khả năng lao động khác nhau và do
đó mức suy giảm thu nhập khác nhau thì cần phải tính toán những “ thiếu hụt có
tính xã hội ” chung, có khả năng đại diện cho mọi người lao động trong các
trường hợp cụ thể.
Những chi phí cần thiết để đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người lao động:
Đó là các khoản chi phí để đáp ứng những nhu cầu tối thiểu như: nhu cầu ăn, ở,
mặc, đi lại, nhu cầu chữa bệnh, nhu cầu học tập... Đây là những khoản chi phí cần
thiết khách quan và phải tuỳ thuộc vào khả năng của nền kinh tế quốc dân cũng
như khả năng tài chính của cơ quan BHXH mà có thể xác định những chi phí cần
thiết đó, đáp ứng mức độ nhất định nhu cầu đòi hỏi.
Mức và thời gian đóng BHXH: Mối liên hệ giữa mức đóng và mức hưởng
liên quan chặt chẽ với nhau, và mặc dù những chi phí như đã nêu trên là khách
quan và chính đáng nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu đó lại phụ thuộc rất nhiều
vào lượng vất chất (tiền) của quỹ BHXH. Quỹ này lại được tạo ra từ sự đóng góp
của các đối tượng tham gia. Để thực hiện sự tương đương giữa đóng và hưởng
BHXH, các mức trợ cấp và thời hạn hưởng trợ cấp phải căn cứ vào mức và thời
gian đóng phí BHXH của người lao động và, về nguyên tắc, ai đóng cao hơn và
lâu hơn sẽ được hưởng mức trợ cấp cao hơn và dài hơn.
24
Theo công ước 102 của ILO: khoản trợ cấp BHXH cho thai sản không thể
thấp hơn 2/3 thu nhập trước khi sinh và khuyến cáo các nước nên tăng mức trợ
cấp thai sản bằng 100% mức thu nhập trước khi sinh; Mức hưởng trợ cấp ốm đau
bằng 45% mức lương (tuy nhiên đa số các nước quy định trợ cấp ốm đau bằng 5070% mức lương ) ; Và với chế độ hưu trí, mức hưởng trợ cấp thường là 70-80%
mức tiền lương bình quân của một số năm trước khi nghỉ hưu.
c, Phương thức chi trả trợ cấp BHXH
Nói chung các tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện chi trả trợ cấp thông qua
một mạng lưới chi trả do mình thành lập ra hoặc là ký kết hợp đồng với các cơ sở
làm đại lý chi trả, việc thực hiện chi trả thường được tiến hành theo tháng, tuần...
một cách định kỳ.
Cơ quan quản lý BHXH và Vụ Phúc lợi xã hội New Zrealand đã xắp xếp
việc thanh toán chi trả trợ cấp theo từng giai đoạn ( tháng, tuần ) để giảm
bớt khối lượng công việc phát sinh trong quá trình tiến hành thanh toán theo
đòi hỏi của khách hàng. Ở Nam phi, hơn 400.000 người về hưu nhận trợ cấp
chế độ thông qua máy rút tiền tự động của ngân hàng hay ở Ireland, Cục
Các Vấn đề Xã Hội, Cộng đồng và gia đình ( DSCFA ) đã hợp đồng chi trả
trợ cấp ngắn hạn với ngành Bưu điện (với mạng lưới 2000 trạm bưu điện địa
phương).
5. Cơ quan tổ chức thực hiện.
Việc tiến hành tổ chức thực hiện có thể do nhà nước đảm nhận và cũng có
thể do tư nhân tiến hành và đôi khi cùng tồn tại một lúc hai hệ thống thành phần.
Nhà nước được lợi từ BHXH nhưng như thế không có nghĩa là nhà nước phải trực
tiếp đứng ra thực hiện mà chỉ cần đóng vai trò của một bên tham gia và thực hiện
chức năng quản lý. Với hệ thống bảo hiểm xã hội do nhà nước lập ra, quỹ BHXH
có sự bù đắp thêm của Ngân sách nhà nước và nó không hoạt động theo phương
thức kinh doanh đối với người lao động. Còn hệ thống bảo hiểm xã hội do tư nhân
và các tổ chức xã hội thực hiện theo quy định của pháp luật và có sự bảo trợ của
nhà nước thì hoạt động theo phương thức kinh doanh và trong phí bảo hiểm được
thêm một phần gọi là lãi định mức cho tổ chức bảo hiểm xã hội ( Plđm, khi đó
Ptp=Ptt+Phc+Pdp+Plđm ).
Liệu rằng, quản lý Nhà nước hay quản lý tư nhân các hệ thống bảo hiểm xã
hội có hiệu quả hơn ? Chúng ta thử so sánh hai hình thức này thông qua việc lập
quỹ hưu trí:
25
Bảng 02: Quản lý Nhà nước và tư nhân các hình thức quỹ BHXH.
Quản lý nhà nước
Quản lý tư nhân
- Các quỹ có thể liên quan tới việc - Các tài sản được đa dạng hoá về đầu
tái phân phối.
tư và phân bổ hiệu quả.
An toàn
thu nhập
khi nghỉ
hưu
- Các quỹ thường được đầu tư vào
trái phiếu chính phủ mà ở nhiều
nước đang phát triển cho lợi
nhuận thấp hoặc âm, ngay cả các
nước đã phát triển trái phiếu cũng
sụt giá do lạm phát
- Ngay cả khi đầu tư vào tài sản
thì cũng chỉ trong nền kinh tế nội
địa, do đó thu nhập phụ thuộc vào
hoạt động của nền kinh tế nội địa.
- Bao gồm cả đầu tư ra nước ngoài do
đó đa dạng hoá rủi ro từ thị trường nội
địa và các thị trường tài chính.
- Sự thành công của quản lý tư nhân phụ
thuộc vào hoạt động của khu vực quản lý
tài sản, điều mà bị ảnh hưởng bởi khả
năngcạnh tranh, đại diện các công ty
nước ngoài... Tính không hiệu quả của
khu vực quản lý tài sản có thể do độ rủi
ro cao do mạo hiểm đầ tư với số tiền
hưu.
- Do tính động lực thấp, hay yếu
tố chính trị nên các khoản mục - Quản lý tư nhân các quỹ có thể đễ bị
đầu tư không hiệu quả. Ngay cả tổn hại bởi tình trạng lừa đảo của người
khi đầu tư hiệu quả thì cũng bị lấy quản lý.
đi phần lớn thông qua thuế.
- chi phí quản lý có thể thấp mặc
dù do thiếu động lực lợi ích cho
cán bộ, và cũng ít bị thúc ép để
giảm thiểu chi phí.
- Đầu tư có hiệu quả sẽ giảm chi phí do
tăng lãi ở mức rủi ro nhất định.
- Lượng quỹ có thể phi kinh tế do nhỏ,
chi phí quản lý có thể cao.
Các vấn - Tuy nhiên tổng chi phí có thể
đề
tài tăng lên do lãi thấp từ các khoản - Chi phí marketing của lương hưu cá
nhân cao.
chính
đầu tư tồi từ quỹ.
- Cơ cấu quản lý phức tạp hơn do yêu
- Tính phi kinh tế bởi quy mô cầu của quản lý tài sản tư nhân .
trong quản lý tài sản dẫn đến sự
không có khả năng trong việc dịch
chuyển đầu tư.
Các
Thuỵ Điển, Malayxia, Singapore.
nước áp
dụng
Anh, Mỹ, Hà Lan.
Nguồn: Ngân hàng tái thiết và phát triển Châu âu.
Theo cách tiếp cận này, chúng ta thấy quản lý tư nhân và quản lý nhà nước
đều có những ưu và nhược điểm riêng. Xét về khía cạnh kinh tế, quản lý tư nhân
sẽ có hiệu quả hơn do khả năng tham gia vào thị trường trong hoạt động đầu tư.
Thế nhưng, BHXH lại là một chính sách xã hội và do đó, quản lý nhà nước các
26
hình thức quỹ BHXH sẽ có hiệu quả hơn trong việc bảo đảm đời sống người lao
động cũng như ổn định tình hình kinh tế- chính trị và xã hội của đất nước.
6. Mối liên hệ giữa đầu vào và đầu ra của quỹ bảo hiểm xã hội
a, Chu trình quỹ của một hệ thống bảo hiểm xã hội
Người SDLĐ đóng góp
Phạt
Người LĐ đóng góp
Thu nhập từ đầ
tư
Hỗ trợ của Nhà
nước
Cơ quan BHXH
Chi trả trợ cấp
Phí đầu tư
Phí quản lý
Trợ cấp ngắn Trợ cấp dài Trợ cấp TNLĐ
hạn
hạn
Trợ cấp
nghiệp
thất ...
*Chăm sóc y *Mất sức *Chăm sóc y tế
*Thất nghiệp
...
tế
lao động
*Mất sức tạm thời *Trợ cấp bổ ...
*ốm đau
*Tuổi già
*Mất sức vĩnh viễn xung cho người
ăn theo
*Thai sản
*Tử tuất
*Trợ cấp người ăn
*Mai táng
theo
...
27
b, Các biện pháp giải quyết khi quỹ mất cân đối
Một cách đơn giản nhất, công thức cơ bản đối với cân đối tài chính của một hệ
thống BHXH được viết:
Thu = Chi ( hoặc thu nhập = chi tiêu )
Và, với tỷ lệ đóng góp được xác định trước, công thức được biểu thị:
Thu có thể xảy ra = Chi phí có thể xảy
Và, đó là điều mà các nhà làm công tác BHXH mong muốn nhất. Tuy nhiên
điều đó không phải lúc nào cũng xảy ra, do những sai lệch trong tính toán hay
những thay đổi trong tương lai mà nhiều khi quỹ BHXH có thể bội thu hay bội chi
(mà thường là bội chi), vậy thì biện pháp để đối phó với tình trạng này là gì ?
Thông thường, khi xảy ra mất cân đối giữa thu và chi, một cách đơn giản nhất,
người ta tìm ra những nguyên nhân gây ra sai lệch đó và tác động vào chúng.
Chẳng hạn như với chế độ TNLĐ-BNN, khi có một sự gia tăng về tỷ lệ TNLĐ BNN dẫn đến bội chi BHXH thì người ta sẽ tìm cách giảm tỷ lệ này bằng các biện
pháp tăng cường công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động hay chăm lo đến sức
khoẻ của người lao động hơn. Tuy nhiên cách làm này hết sức thụ động vì an toàn
lao động và vệ sinh lao động không phải là nhiệm vụ của BHXH. Hơn nữa, đối
với một vài chế độ, biện pháp này dường như không hợp lý, chúng ta không thể
làm giảm tỷ lệ sinh đẻ khi chính sách dân số của quốc gia là khuyến khích tăng
dân số. Hay với chế độ hưu trí, khi tuổi thọ tăng lên dẫn đến bội chi BHXH thì
chúng ta cũng không thể tìm cách nào đó để làm giảm tuổi thọ vì tăng tuổi thọ là
mối quan tâm của các nhà khoa học, là mong muốn của mỗi xã hội và là mục đích
của toàn nhân loại.
Vậy thì biện pháp nào là thích hợp ?
Cân đối lại giữa mức đóng và mức hưởng BHXH: Khi quỹ BHXH bị thâm
hụt, có thể buộc các đối tượng đóng góp phải đóng góp thêm một khoản đủ để bù
đắp sự thiếu hụt đó. Giảm mức hưởng trợ cấp BHXH cũng là cách cân đối quỹ và
cũng có thể sử dụng cả hai biện pháp trên ( vừa tăng mức đóng góp và vừa giảm
mức hưởng). Khi tăng mức đóng góp phải xem xét đến khả năng tham gia của
28
người lao động và khi giảm mức hưởng phải xem xét ảnh hưởng của quyết định
đó đến việc ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ.
Đánh giá lại hiệu quả hoạt động BHXH: Các chi phí cho hoạt động sự
nghiệp đôi khi lớn quá mức cần thiết, hoặc chi phí với mức không tương xứng
cũng sẽ là nguyên nhân ảnh hưởng đến quỹ BHXH. Tuy nhiên đó không thường là
nhân tố mang tính quyết định đến sự thâm hụt quá lớn quỹ BHXH song cũng cần
đưa vào đánh giá để tăng cường hiệu quả hoạt động quỹ BHXH. Khía cạnh khác
cần quan tâm là vấn đề đầu tư quỹ BHXH. Đôi khi thâm hụt quỹ BHXH không
phải do bội chi hay do sự đóng góp quá ít của đối tượng tham gia vì chúng ta biết
rằng theo thời gian quỹ BHXH sẽ bị giảm giá trị và nếu như không có các biện
pháp bảo toàn giá trị cho quỹ thì thâm hụt quỹ là điều không thể tránh khỏi. Trách
nhiệm này thuộc về các nhà làm công tác BHXH.
Sự tài trợ của Ngân sách nhà nước: Với nhiều quốc gia, mức đóng góp tối đa
và mức hưởng trợ cấp tối thiểu được ấn định bởi những quy định của nhà nước và
nếu như đó là nguyên nhân thâm hụt quỹ BHXH thì sự tài trợ của Ngân sách nhà
nước là hết sức cần thiết. Và nếu như không phải vì điều đó thì, vì mục đích an
toàn xã hội chung, nhà nước cũng nên hỗ trợ một phần.
Một điển hình
Đối với chế độ ốm đau, thai sản ở Mông cổ. Theo luật 1994, tỷ lệ hưởng tối đa
đã giảm xuống từ 80% xuống còn 70% và tỷ lệ hưởng tối thiểu đã giảm xuống từ
60% xuống 45%. Các mức hưởng này được giảm xuống nhằm (i) Cắt giảm chi
phí, (ii) Tin tưởng rằng sự chênh lệch lớn giữa lương và mức hưởng trợ cấp sẽ
ngăn cản được tình trạng nghỉ việc.
Cũng tại Mông cổ, Luật chế độ dài hạn năm 1997 đã đưa ra những thay đổi
nhằm gảm mức hưởng như sau:
- Tăng tuổi nghỉ hưu tối thiểu cho nam lên 55 và nữ lên 50 đối với những
người làm việc ở hầm lò hoặc trong các điều kiện nóng bức, độc hại;
- Tăng mức độ tàn tật tối thiểu cho phép hưởng trợ cấp MSLĐ dài hạn ở mức
50%;
- Ngừng chi trả chế độ dài hạn cho những người dưới tuổi hưu quy định nếu
họ vẫn làm việc.
29
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
I. TẠO NGUỒN
1. Đối tượng tham gia
Theo Điều lệ bảo hiểm xã hội ( ban hành kèm Nghị định 12/ CP ngày 26
tháng 01 năm 1995 của Chính phủ) thì những người lao động sau đây thuộc đối
tượng áp dụng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên.
- Người lao động Việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; Trong các cơ quan, tổ chức nước
ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ
quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực
lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà
nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp
huyện.
Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài
nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng bảo hiểm
xã hội bắt buộc.
Các đối tượng quy định trên gọi chung là người lao động.
30
Người sử dụng lao động và người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội để
thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Người lao động có
đóng bảo hiểm xã hội được cơ quan bảo hiểm xã hội cấp sổ bảo hiểm xã hội, có
quyền hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội quy định tại điều lệ này. Quyền hưởng
bảo hiểm xã hội của người lao động có thể bị đình chỉ, cắt giảm hoặc huỷ bỏ khi
người lao động vi phạm pháp luật.
2. Mức và phương thức đóng góp
Theo điều 36 Điều lệ bảo hiểm xã hội Việt nam. Quỹ bảo hiểm xã hội được
hình thành từ các nguồn sau đây:
1. Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiềnlương của
những người tham gia bảo hiểm xã hội trong đơn vị; trong đó 10% để chi các chế
độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp.
2. Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và
tử tuất.
3. Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm hực hiện các chế độ bảo hiểm xã
hội đối với người lao động.
4. Các nguồn khác.
Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội
theo quy định tại khoản 1 điều 36 và trích từ tiền lương của từng người lao động
theo quy định tại khoản 2 điều 36 Điều lệ bảo hiểm xã hội để đóng cùng một lúc
vào quỹ bảo hiểm xã hội. Tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội gồm
lương theo ngạch bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ,
chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu ( nếu có ).
Hàng tháng, Bộ tài chính trích từ ngân sách Nhà nước chuyển vào quỹ bảo
hiểm xã hội đủ chi các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, tử tuất, bảo hiểm y tế của những người đang hưởng bảo hiểm
xã hội trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 và hỗ trợ để chi lương hưu cho người lao
động thuộc khu vực Nhà nước về hưu kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1995.
Việc tổ chức thu bảo hiểm xã hội do tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt nam thực
hiện.
31
II. SỬ DỤNG NGUỒN (CHI TRẢ TRỢ CẤP CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ
HỘI)
Nguồn quỹ BHXH được sử dụng để chi:
+ Hoạt động sự nghiệp: Chính phủ cho phép Bảo hiểm xã hội Việt nam được
sử dụng 4% số thu BHXH để chi cho các hoạt động của ngành.
+ Chi trợ cấp: Nội dung về điều kiện và mức hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội
đối với từng chế độ đã được thể hiện rất chi tiết tại Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban
hành kèm Nghị định 12/CP của Chính phủ ngày 26.01.1995; Nghị định
93/1998/CP ngày 12.11.1998 của chính phủ về việc sử đổi, bổ xung một số điều lệ
của Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm Nghị định 12/CP và các văn bản pháp
quy liên quan. Ở đây chỉ xin được nêu ra những vấn đề hết sức cơ bản trong các
văn bản pháp quy đó.
1. Chế độ ốm đau
a, Các trường hợp được nghỉ hưởng trợ cấp ốm đau
- Bản thân người lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bị ốm.
- Người lao động có con dưới 7 tuổi bị ốm.
- Người lao động được thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số.
b, Điều kiện được hưởng trợ cấp
- Phải có đóng bảo hiểm xã hội, thời hạn hưởng trợ cấp phụ thuộc vào thời
gian tham gia bảo hiểm xã hội.
- Có giấy xác nhận của tổ chức y tế (do Bộ y tế quy định).
c, Thời hạn và mức trợ cấp
Đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường
- 30 ngày trong 1 năm nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm
- 40 ngày trong 1 năm nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ 15 dến 30 năm
- 50 ngày trong một năm nếu đóng bảo hiểm xã hội từ 30 năm trở lên
Đối với người lao động làm việc trong các ngành nghề hoặc công việc nặng
nhọc, độc hại, làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực nơi có hệ số 0,7 trở lên được
32
nghỉ dài hơn 10 ngày so với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường
có thời gian đóng BHXH tương ứng nhu trên.
Người lao động bị mắc các loại bệnh cần điều trị dài ngày (theo quy định của
Bộ y tế ) thì thời gian hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày không phụ thuộc vào thời
gian đóng BHXH. Trường hợp hết 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được
hưởng tiếp trợ cấp nhưng với mức thấp hơn.
Người lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số thì được nghỉ
việc từ 7 đến 20 ngày tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Người lao động được nghỉ chăm sóc con ốm 20 ngày trong năm đối với con
dưới 3 tuổi và 15 ngày trong năm đối với con từ 3 đến 7 tuổi.
Trong thời hạn nghỉ theo quy định người lao động được hưởng trợ cấp bảo
hiểm xã hội bằng 75% mức tiền luơng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi
nghỉ việc. Đối với những người mắc bệnh cần chữa trị dài ngày thì sau thời hạn 80
ngày, được nghỉ và hưởng trợ cấp bằng 70% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo
hiểm xã hội trước khi nghỉ ốm, nếu có thời gian đóng bảo hiểm xã hội dưới 30
năm. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bao gồm lương theo cấp bậc,
chức vụ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ (nếu có )...
2. Chế độ thai sản
a, Các trường hợp được hưởng
- Lao động nữ có thai, sinh con thứ nhất, thứ hai
- Lao động nữ nuôi con sơ sinh
b, Điều kiện
Có tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội
c, Thời hạn và mức hưởng bảo hiểm xã hội
Thời hạn:
- Khi có thai được nghỉ việc khám thai 3 lần, mỗi lần một ngày
- Sảy thai được nghỉ từ 20 đến 30 ngày tuỳ theo tháng thai
- Sinh một lần nhiều con thì tính từ con thứ hai trở đi, mỗi con sinh thêm mẹ
được nghỉ thêm 30 ngày
33
- Trường hợp sau khi sinh con chết, người mẹ được nghỉ 75 ngày kể từ ngày
sinh, nếu con dưới 60 ngày tuổi bị chết thì người mẹ được nghỉ thêm 15 ngày kể
từ khi con bị chết nhưng không quá thời hạn nghỉ sinh con theo quy định chung
- Nếu nuôi con sơ sinh thì người nuôi được nghỉ cho đến khi con đủ 4 tháng
tuổi.
Mức trợ cấp:
- Được hưởng trợ cấp bằng 100% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm
xã hội trước khi nghỉ hưởng trợ cấp.
- Được trợ cấp thêm một tháng tiền lương.
3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
a, Các trường hợp được xác định là tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc và ngoài giờ làm việc theo
yêu cầu của chủ sử dụng lao động.
- Bị tai nạn ngoài nơi làm việc theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động.
- Bị tai nạn lao động trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc.
- Bị các bệnh nghề nghiệp do môi trường và điều kiện lao động. Danh mục
BNN do Bộ y tế và Bộ lao động- Thương binh và xã hội quy định.
b, Điều kiện hưởng trợ cấp
- Có tham gia đóng bảo hiểm xã hội
- Có giám định thương tật, bệnh tật theo quy định của pháp luật hiện hành.
c, Các loại trợ cấp
- Khi bị TNLĐ-BNN trong thời gian điều trị người lao động vẫn được hưởng
lương và các chi phí điều trị do chủ sử dụng lao động chi trả ( không thuộc trợ cấp
BHXH )
- Khi đã ổn định thương tật, được giám định thương tật thì được hưởng trợ
cấp bảo hiểm xã hội tính từ khi ra viện, gồm:
+ Trợ cấp 1 lần ( nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 5-30% bằng từ 4-12
tháng tiền lương tối thiểu ).
+ Trợ cấp hàng tháng ( nếu bị suy giảm từ 31% trở lên ) bằng 0,4 - 1,6 lần
mức tiền lương tối thiểu tuỳ thuộc vào tỷ lệ suy giảm khả năng lao động.
34
+ Được phụ cấp cho người phục vụ bằng 0,8 lần mức tiền lương tối thiểu đối
với những người mất khả năng lao động từ 81% trở lên và bị liệt cột sống, mù hai
mắt, cụt hai chi, tâm thần nặng.
+ Nếu bị TNLĐ-BNN mà chết thì gia đình được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 24
tháng tiền lương tối thiểu và được hưởng trợ cấp trước, không phụ thuộc vào thời
gian đóng bảo hiểm xã hội.
+ Người bị TNLĐ-BNN có đủ điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí.
4. Chế độ hưu trí
a, Điều kiện
Trong chế độ hưu trí điều kiện hưởng trợ cấp gồm tuổi đời và số năm đóng
bảo hiểm xã hội.
Để được hưởng trợ cấp lương hưu đầy đủ thì về tuổi đời:
+ Nam đủ 60 tuổi trong điều kiện lao động bình thường và đủ 55 tuổi nếu
làm ở ngành nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, hoặc ở nơi có phụ cấp khu
vực hệ số 0,7 trở lên, hoặc công tác ở chiến trường B,C,K.
+ Nữ đủ 55 tuổi trong điều kiện lao động bình thường hoặc đủ 50 tuổi nếu
làm việc ở các công việc và khu vực nêu trên như nam giới.
Về thời gian đóng bảo hiểm xã hội phải có đủ 20 năm đóng đối với các loại
lao động và đối với các trường hợp giảm tiền thì trong đó phải có 15 năm ở ngành
nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên
hoặc công tác ở các chiến trường B,C,K.
Những người nghỉ hưu nhưng hưởng trợ cấp thấp hơn với các điều kiện sau:
+ Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ
15 năm đến dưới 30 năm.
+ Nam đủ 50 tuổi, nữ 45 tuổi có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm
trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
+ Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc nặng nhọc, độc hại đã
đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở
lên, không phụ thuộc tuổi đời.
b, Mức trợ cấp
Những người có đủ các điều kiện nêu trên được hưởng trợ cấp hàng tháng:
35
- Mức trợ cấp được tính dao động từ 45-75% mức bình quân tiền lương làm
căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 5 năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu.
- Đối với những người được hưởng hưu nhưng với mức trợ cấp thấp hơn thì
cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi thì trừ đi 2% trợ cấp nhưng thấp nhất cũng phải
bằng mức lương tối thiểu.
- Đối với những người có từ 30 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, người trợ
cấp hàng tháng được trợ cấp 1 lần trước khi nghỉ hưu, từ năm thứ 31 trở đi cứ mỗi
năm đóng thêm, người lao động được nhận thêm 0,5 của mức bình quân tiền
lương đóng bảo hiểm xã hội nhưng tối đa không quá 5 tháng.
- Những người có đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ tuổi đời
thì chờ (hưu chờ) cho đến khi đủ tuổi để hưởng hưu hàng tháng.
- Người không có đủ các điều kiện hưởng hưu hàng tháng hoặc hưu chờ thì
được hưởng trợ cấp 1 lần, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được hưởng 1
tháng mức tiền lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội.
c, Sự thay đổi chế độ hưu trí
Ngày 12/11/1998 Chính phủ ban hành Nghị định 93/CP sửa đổi một số quy
định đối với chế độ hưu trí như sau:
- Đối với những người có đủ 55 tuổi đối với nam và 50 tuổi đối với nữ mà
có đủ 30 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng đủ 75% tiền lương
bình quân của 5 năm cuối mà không bị trừ tỷ lệ % như trước. Còn đối với những
người không đủ điều kiện được hưởng hưu đầy đủ thay vì trừ đi 2% nay chỉ trừ
1%.
- Đối với những người đã từng có 15 năm làm công việc nặng nhọc, độc hại
mà sau đó chuyển sang làm công việc khác có mức tiền công thấp hơn thì khi tính
tiền lương bình quân, được tính bình quân của 5 năm liền kề có mức tiền lương
cao nhất.
5. Chế độ tử tuất
a, Các trường hợp
- Người lao động đang làm việc bị ốm, bệnh tật hoặc bị tai nạn chết
- Người lao động nghỉ chờ hưu bị chết
36
- Người đang được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng ( hưu,
MSLĐ,TNLĐ-BNN) bị chết. Những trường hợp này thân nhân được hưởng chế
độ trả trước.
b, Điều kiện hưởng
- Tham gia BHXH dưới 15 năm mà chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp 1
lần.
- Tham gia BHXH từ 15 năm trở lên mà chết thì được hưởng trợ cấp hàng
tháng kèm theo các điều kiện của thân nhân
c, Các loại trợ cấp
- Mai táng phí: chung cho tất cả mọi người chết bằng 8 tháng tiền lương tối
thiểu.
- Trợ cấp 1 lần: người lao động chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội hoặc
thân nhân chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng. Mức trợ cấp là mỗi năm
đóng bảo hiểm xã hội thì được hưởng 1 tháng mức tiền lương bình quân làm căn
cứ đóng bảo hiểm xã hội nhưng không quá 12 tháng.
Đối với người đang hưởng hưu chết mà thân nhân không đủ điều kiện hưởng
trợ cấp hàng tháng thì nếu chết trong năm hưởng hưu thứ nhất thì được hưởng 12
tháng lương hưu. Nếu chết từ năm hưởng hưu thứ hai trở đi, mỗi năm đã hưởng
bảo hiểm xã hội giảm đi 1 tháng lương, nhưng tối thiểu cũng bằng 3 tháng lương
hưu.
- Trợ cấp tuất hàng tháng: khi thân nhân của người đủ điều kiện hưởng trợ
cấp hàng tháng ở vào một trong các điều kiện sau:
+ Con chưa đủ 15 tuổi hoặc đến 15 tuổi nếu đang đi học.,
+ Bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ/chồng đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55
tuổi).
Mức trợ cấp được hưởng đối với mỗi thân nhân bằng 40% tiền lương tối
thiểu nhưng không quá 4 suất. Những người cô đơn, không người nuôi dưỡng thì
được trợ cấp bằng 70% tiền lương tối thiểu.
III. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
37
Nói chung, chúng ta chưa xây dựng được một hệ thống các chỉ tiêu cũng như
những chuẩn mực phản ánh hiệu quả hoạt động quỹ BHXH (có chăng cũng chỉ
một vài chỉ tiêu). Do đó đánh giá hiệu quả quỹ BHXH thông qua công tác tạo
nguồn và sử dụng nguồn.
1. Công tác thu Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội Việt nam được thành lập theo NĐ 19/CP ngày 16/2/1995
cho đến nay đã trải qua chặng đường hơn 6 năm với những khó khăn và thử thách
mà BHXH Việt nam đã vượt qua, tự khẳng định mình và không ngừng lớn mạnh.
Hoạt động BHXH đã đạt được những kết quả rất đáng trân trọng, khẳng định sự ra
đời của BHXH Việt nam là hoàn toàn đúng đắn theo chủ trương, đường lối của
Đảng.
Trên cơ sở, nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH
đã đặt ra yêu cầu rất quyết định đối với công tác thu nộp BHXH vì nếu không thu
được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả trợ cấp BHXH cho người
lao động khi quỹ BHXH được hạch toán độc lập để giảm bớt gánh nặng của
NSNN. Thấm nhuần nguyên tắc trên, ngay từ khi mới thành lập, BHXH Việt nam
đã rất coi trọng công tác thu, luôn đặt công tác thu ở vị trí hàng đầu. Nhờ vậy,
công tác thu nộp BHXH luôn đạt chỉ tiêu kế hoạch đã đặt ra, cụ thể:
Bảng 03: Tình hình thu BHXH.
Năm
Số đơn vị
tham gia
số
Tổng
Người
1995
1996
1997
1998
1999
2000
18.566
ĐV
30.789
34.815
49.628
59.404
61.404
2.275.998 2.821.444 3.162.352 3.355.389 3.579.427 3.842.680
lao động
lao Người/
Số
động BQ
Số
thu
123
92
91
68
61
63
đv
Tr.đ
788.486
2.569.733 3.445.611 3.875.856 4.186.054 5.215.233
BHXH
Tốcđộ PT
%
100
Nguồn: BHXH.
38
134,08
112,49
108
124,58
Bảng số liệu trên cho thấy, số thu BHXH qua các năm đều gia tăng, năm sau
cao hơn năm trước. So với số thu năm 1994 (là năm trước khi đổi mới chính sách
BHXH ) thì số thu từ năm 1998 đến nay đều tăng hơn 10 lần. Với kết quả trên,
BHXH Việt nam đã góp phần quan trọng vào việc hình thành được quỹ BHXH
tập trung, hạch toán độc lập và từng bước giảm nhẹ cho NSNN trong việc chi trả
các chế độ BHXH để có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội của đất
nước. Số thu hàng năm tăng lên bởi một mặt, do ảnh hưởng của nhân tố chính
sách ( Nghị định 06/CP ngày 21/1/1997 điều chỉnh mức lương tối thiểu từ
120000đ/tháng lên 144000đ/tháng, tiếp đó là Nghị định 175/CP ngày 1/1/2000
nâng mức lương tối thiểu lên 180000 theo đó số thu BHXH cũng được tăng lên)
mặt khác do sự tăng đối tượng tham gia BHXH:
Biện pháp quan trọng để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH là không ngừng
mở rộng đối tượng tham gia BHXH vì quỹ BHXH được hình thành trên cở sở
mức chênh lệch giữa dòng tiền chảy vào quỹ (thu) và dòng tiền chảy ra khỏi quỹ
(chi). Nếu chênh lệch này dương thì quỹ sẽ lớn lên về số tuyệt đối, đồng thời khi
mở rộng đối tượng tham gia đóng BHXH cũng có nghĩa là tăng dần tích luỹ (về
mặt giá trị tuyệt đối) của phần quỹ tạm thời nhàn rỗi nhất là đối với quỹ BHXH
dài hạn. Nếu như đầu năm 1995 toàn quốc có 3174197 lao động tham gia BHXH
thì đến nay con số đó đã tăng gấp đôi.
Bảng 04: Thu BHXH Tỉnh Sơn La 1996-2000.
Đơn vị
Số
ĐV
BHXH
t/gia
1996
1997
1998
1999
2000
ĐV
462
584
680
689
701
%
100
126,4
116,43
101,32 101,74
Người
26434
28848
33760
34857
%
100
109,13
117,03
103,25 100,26
Tr.đồng
19391
24766
28961
30492
%
100
127,72
116,94
105,29 128,58
Tốc độ PT
Số LĐ t/gia BHXH
Tốc độ PT
Số thu BHXH
Tốc độ PT
34950
38821
Nguồn: BHXH Tỉnh Sơn La.
Các đơn vị tham gia BHXH đa số nhận thức tốt, có trách nhiệm tham gia bảo
hiểm xã hội và thu nộp đầy đủ. Trong tổng số các đơn vị tham gia BHXH thì các
đơn vị thuộc doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lao động tham gia tăng nhanh:
39
Năm 1995 có 30.063 người, năm 1996 có 56.280 người, năm 1997 có 84.058
người, năm 1998 có 122.685 người tham gia BHXH, bình quân tăng 60%/năm.
Năm 2000 tăng thêm 200.000 lao động tham gia BHXH so với năm 1999, điển
hình:
+ Thành phố Hồ Chí Minh: Có 616.549 lao động tham gia BHXH , tăng so
với năm 1999 là 43.158 lao động (tăng 8%), trong đó có 95.849 lao động ngoài
quốc doanh, tăng 27% so với năm 1999.
+ Tỉnh Bình Dương: 90.809 lao động, tăng so với năm 1999 là 12.797 lao
động (tăng 16%), trong đó 20.000 lao động ngoài quốc doanh, tăng 78% so với
năm 1999.
+ Tỉnh Đồng Nai: 175.500 lao động, tăng so với năm 1999 là 14.088 lao
động (tăng 9%), trong đó có 10.520 lao động ngoài quốc doanh, tăng 19% so với
năm 1999.
Để đạt được những kết quả trên, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã:
Luôn chú trọng công tác thu nộp BHXH, coi công tác thu là nhiệm vụ hàng
đầu cho việc tăng trưởng và phát triển nguồn quỹ. Hội đồng thi đua các cấp đã đưa
chỉ tiêu thu nộp BHXH là một trong các chỉ tiêu để xét công nhận danh hiệu thi
đua đơn vị hoặc cá nhân.
Tích cực rà soát, tuyên truyền vận động để tăng thêm đối tượng tham gia
đóng BHXH đối với những đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc diện
phải tham gia BHXH nhưng chưa tham gia BHXH. Đồng thời đôn đốc, kiểm tra,
đối chiếu thường xuyên để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời số tiền BHXH phát sinh
theo quỹ lương hàng tháng, hàng năm.
Bên cạnh đó là công tác truy thu nợ đọng để ngăn chặn không để công nợ
phát sinh thêm, nhất là cố gắng tối đa hạn chế hiện tượng chây ì để nợ đọng lưu
cữu, chồng chất đến mức không còn khả năng trả nợ.
Công tác thu BHXH đã dần đi vào ổn định, ngành BHXH đã phối hợp tốt
với các ngành chức năng cũng như tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng,
chính quyền địa phương trong công các thu BHXH. Bên cạnh đó là công tác đào
40
- Xem thêm -