Phần I: LÝ THUYẾT
CHƯƠNG I
SINH LÝ TIÊU HÓA VÀ HẤP THU
Trong quá trình hoạt động sống, vật nuôi thông qua đường tiêu hóa không
ngừng lấy các chất dinh dưỡng từ môi trường bên ngoài vào như protein, gluxit,
lipit, vitamin, khoáng và vi lượng …
Tiêu hóa là quá trình phân giải các chất dinh dưỡng có cấu tạo phức tạp trong
thức ăn thành những chất đơn giản hòa tan để cơ thể có thể hấp thu được.
Cơ quan tiêu hóa chính bao gồm: miệng, dạ dày, ruột non và ruột già.
Trong đường tiêu hóa, thức ăn chịu tác dụng của 3 quá trình chủ yếu: tiêu
hóa cơ học, hóa học và vi sinh vật học.
Tiêu hóa cơ học nhờ răng và hệ cơ trong đường tiêu hóa. Nó có tác dụng cắt
xé, nghiền nát, nhào trộn và vận chuyển thức ăn trong đường tiêu hóa. Tiêu hóa hóa
học là do dịch tiêu hóa và đặc biệt là các enzyme chứa trong đó.
Tiêu hóa vi sinh vật học phụ thuộc vào các vi sinh vật cư trú thường xuyên
trong cơ quan tiêu hóa, đặc biệt là trong dạ cỏ động vật nhai lại và trong ruột già
của các vật nuôi.
Các sản phẩm của tiêu hóa được hấp thu vào máu và bạch huyết, cung cấp
nguyên liệu cho quá trình trao đổi chất, tạo năng lượng phục vụ cho sự sinh trưởng,
sinh sản và tạo các sản phẩm như thịt, trứng, sữa, long, da … đồng thời đào thải các
chất cặn bã ra ngoài.
Cùng với thức ăn và nước uống, một số vi sinh vật có hại, một số độc tố, hóa
chất cũng vào đường tiêu hóa, gây nên các bệnh tật khác nhau. Vì vậy nghiên cứu
sinh lý tiêu hóa có ý nghĩa lớn trong chăn nuôi thú y.
I. TIÊU HÓA TRONG MIỆNG
Thức ăn ở trong xoang miệng chịu tác dụng tiêu hóa cơ học và hóa học.
1
1. Tiêu hóa cơ học
Gia súc thông qua các giác quan để tìm và lấy thức ăn. Động tác lấy thức ăn
chủ yếu nhờ môi, răng, lưỡi, ở gia cầm nhờ mỏ.
Trong miệng, thức ăn chịu tác dụng tiêu hóa cơ học như nhai, nghiền và
nuốt.
Nhai và nghiền nát thức ăn nhờ tác dụng của răng và cơ hàm với sự giúp đỡ
của lưỡi và má. Động vật nhai lại, khi ăn chỉ nhai sơ bộ rồi nuốt vào dạ cỏ. Khi
nghỉ ngơi, thức ăn từ dạ cỏ được ợ ngược ra để nhai lại.
Nhai là động tác phản xạ, nguyên nhân chủ yếu là do thức ăn kích thích vào
cơ quan thụ cảm trong xoang miệng, xung động được truyền vào qua dây thần kinh
sinh ba (số V), trung khu nhai nằm trong hành tủy thần kinh truyền ra dây số VII
(thần kinh mặt) và XII (thần kinh dưới lưỡi), cơ quan thực hiện phản xạ là các cơ
nhai (cơ hàm, lưỡi, môi …)
2. Tiêu hóa hóa học
Chủ yếu do tác dụng của nước bọt. Nước bọt do ba đôi tuyến chính: tuyến
dưới hàm, dưới lưỡi và tuyến mang tai tiết ra, qua ống dẫn nước bọt đổ vào xoang
miệng. Tuyến mang tai tiết nước bọt loãng, chứa enzyme. Tuyến dưới lưỡi và dưới
hàm tiết dịch nhờn chứa nhiều muxin (chất nhờn).
a. Thành phần và tính chất của nước bọt: tỉ trọng 1,002 – 1,009, nước chiếm 99 –
99,4%, chất khô 0,6 – 1%, trong đó chủ yếu chứa lisozim, protein, enzyme,
mucoproteit, các muối vô cơ như clorua, cacbonat, sunphat của Na, K, Mg, Ca,
nhiều nhất là NaHCO3 …
Độ pH ở nước bọt lợn là 7,32; chó 7,36; trâu bò 8,2.
b. Tác dụng của nước bọt: nước bọt chứa nhiều nước hòa tan một số chất gây khẩu
vị, cùng với chất nhày vo viên thức ăn để dễ nuốt và tránh xây xát cơ giới cho niêm
mạc miệng.
- Nước bọt kiềm có tác dụng trung hòa axit trong dạ dày, đặc biệt là các axit
hữu cơ do quá trình lên men tạo ra trong dạ cỏ động vật nhai lại.
2
- Lisozim trong nước bọt làm tan màng vi khuẩn, có tác dụng diệt trùng.
- Nước bọt chứa enzyme tiêu hóa gluxit (amilaza, mantaza) nhất là gia súc ăn
gluxit nhiều, còn động vật nhai lại ăn thức ăn thô như rơm rạ, cỏ … thì hàm lượng
enzyme tiêu hóa tinh bột không đáng kể.
amilaza
Tinh bột chín
mantoza
+
dextrin
mantaza
Mantoza
2 glucoza (rất ít)
- Tuyến nước bọt ở bò tiết ra từ 60 – 90 lít, ở lợn 15 lít trong một ngày đêm.
Khi trời nong, một số gia súc như chó thải nước bọt để hạ nhiệt cơ thể.
c. Điều hòa tiết nước bọt
- Điều tiết thần kinh – phản xạ không điều kiện tiết nước bọt: khi thức ăn
kích thích vào thụ quan trong xoang miệng, lưỡi, xung động từ thụ quan theo dây
thần kinh số V, số VII, thần kinh lưỡi hầu, số IX và nhánh dây X truyền vào trung
ương thần kinh tiết nước bọt trong hành tủy. Xung động từ trung khu hành tủy được
truyền đến tuyến nước bọt theo dây thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Thần kinh
giao cảm bắt nguồn từ tủy sống vùng ngực đốt 1 – 3, đến hạch cổ trước thì thay
nơron thần kinh số 2, đi đến 3 đôi tuyến nước bọt. Hưng phấn sợi giao cảm gây tiết
nước bọt ít, đặc, nhiều emzym và muxin.
Sợi phó giao cảm bắt nguồn từ hành tủy, qua dây VII và IX vào tuyến nước
bọt. Dây thần kinh mặt qua phân nhánh thành thừng màng nhĩ, đi vào chi phối
tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi. Dây IX (dây thần kinh lưỡi hầu) phân nhánh
thành dây thần kinh ốc tai, đi vào chi phối tuyến mang tai. Khi thần kinh phó giao
cảm hưng phấn làm tiết nhiều nước bọt nhưng loãng và ít emzym.
- Phản xạ có điều kiện tiết nước bọt. Khi những tín hiệu của thức ăn xuất
hiện như mùi thơm, hình ảnh của thức ăn … thì gia súc đã tiết nước bọt. Đó là sự
tiết nước bọt theo cơ chế phản xạ có điều kiện. Thụ quan ở đây là khứu giác và thị
giác. Thần kinh truyền vào, truyền xung động vào thần kinh trung ương và thông
3
qua những bó thần kinh truyền lên gây ra những vùng hưng phấn trong vỏ não.
Hưng phấn từ những vùng này thông qua đường lien hệ tạm thời đến vùng hưng
phấn của trung khu thức ăn (tiết nước bọt), rồi từ đó theo bó thần kinh truyền
xuống trung khu tiết nước bọt trong hành tủy. Từ hành tủy theo thần kinh phó giao
cảm, từ tủy sống vùng ngực theo thần kinh giao cảm đến chi phối tuyến nước bọt.
d. Nuốt
Nuốt là động tác phản xạ phức tạp, gồm 2 pha:
- Pha tùy ý: pha này nhờ tác dụng của lưỡi và sự giúp đỡ của miệng, thức ăn
được thấm nước bọt, vo viên và chuyển vào họng.
- Pha không tùy ý: viên thức ăn kích thích vào cổ họng, màng khẩu cái nâng
lên đóng kín đường thông ra mũi, tiểu thiệt hạ xuống đóng kín đường vào thanh khí
quản, thức ăn đi vào thực quản và do nhu động của thực quản được đẩy xuống dạ
dày.
Nuốt là một chuỗi các phản xạ không điều kiện, trung khu nuốt nằm trong
hành tủy.
II. TIÊU HÓA TRONG DẠ DÀY ĐƠN
Dạ dày gia súc có cấu tạo khác nhau. Dạ dày đơn, điển hình là dạ dày chó,
chỉ có 1 túi. Dạ dày kép điển hình là dạ dày trâu bò, gồm 4 túi (dạ cỏ, tổ ong, lá
sách và múi khế).
1. Đặc điểm cấu tạo
Phía trên dạ dày là đường cong nhỏ, phía dưới là đường cong lớn. Từ ngoài
vào trong có 4 lớp: tương mạc, cơ trơn, dưới niêm mạc và niêm mạc. Phía trong dạ
dày chia làm 3 vùng; vùng thượng vị có tế bào phụ tiết dịch nhày; vùng thân vị có 3
loại tế bào: tế bào phụ, tế bào chủ tiết enzyme và tế bào vách tiết axit HCl; vùng hạ
vị có 2 loại tế bào: tế bào chủ và tế bào vách.
2. Thành phần của dịch vị
- Để lấy dịch vị người ta sử dụng phương pháp mổ lỗ dò dạ dày của Paplop.
- Dịch vị:
4
+ Nước 99,5%
+ Vật chất khô 0,5%
Chất vô cơ: các muối clorua, photphat, sunphat của Na, K, Ca,
Mg, đặc biệt là HCl.
Chất hữu cơ: enzyme (protein), muxin (chất nhầy), axit lactic,
creatinin, ure …
Axit clohydric (HCl) ở 2 dạng: dạng tự do và kết hợp. HCl cùng với các axit
hữu cơ khác trong dịch vị tạo thành axit tổng số. Axit tổng số quyết định độ pH
dịch vị, pH dịch vị chó 1,5 – 2,0; lợn 2,5 – 4; bò 2,17 – 3,14. Hàm lượng HCl trong
dịch vị của các vật nuôi dao động trong khoảng 0,1 – 0,5%.
Sự hình thành HCl: ion Cl- lấy từ NaCl, H+ lấy từ H2CO3. Trong tế bào vách
dạ dày, CO2 kết hợp với H2O nhờ enzyme anhydraza cacbonic xúc tác tạo thành
Anhydraza cacbonic
H2CO3.
CO2 +
H2O
H2CO3
NaCl
H+
Còn Na+
→
Na+
Cl-
+
+
Cl-
+
HCO3-
→
H+ + HCO3-
HCl
→
NaHCO3
3. Tác dụng của HCl
- Hoạt hóa enzym pepsinogen không hoạt động (trọng lượng phân tử 42.500)
thành pepsin hoạt động (trọng lượng phân tử 35.000).
- Làm trương nở protein của thức ăn trong dạ dày.
- Diệt khuẩn.
- Kích thích tiết dịch tụy, co bóp túi mật và tăng thải mật.
- Gây phản xạ đóng mở vòng hạ vị. Cơ vòng hạ vị thường thắt chặt, khi thức
ăn thấm dịch vị đặc biệt là axit xuống kích thích, cơ vòng hạ vị mở ra, dạ dày co
bóp đẩy thức ăn xuống tá tràng. Khi thức ăn bị kiềm trong tá tràng trung hòa axit
thì cơ vòng hạ vị thắt lại.
5
4. Tác dụng của các emzym trong dịch vị
Dịch vị có enzym tiêu hóa protein và lipit. Enzym tiêu hóa protein gồm:
pepsinogen được H+ hoạt hóa thành pepsin hoạt động.
H+
Pepsinogen
Pepsin
Pepsin
Protein
Albumoz
+
pepton và 1 ít axitamin
(Albumoz và pepton là những peptid mạch ngắn có từ 6 – 8 axitamin).
- Enzym catepxin tác dụng giống pepsin, nhưng nó có nhiều ở gia súc non và
hoạt động trong môi trường pH 4 – 5, còn pepsin hoạt động ở pH 1,5 – 2,5.
- Enzym chymozin (renin) enzym này làm đông sữa, qua quá trình caseinogen
(protein sữa, dạng hòa tan), dưới tác dụng của chymozin chuyển thành casein.
Casein kết hợp với ion Ca++ → Caseinat Ca (không tan) lưu lại trong dạ dày lâu hơn
để tiêu hóa triệt để hơn.
- Gelatinaza và Colagenaza là 2 enzym tiêu hóa protein gân, tổ chức liên kết,
cho peptid và axitamin.
- Prolipaza và lipaza là 2 enzym tiêu hóa lipit. Prolipaza từ nước bọt xuống
chỉ hoạt động ở gia súc non. Lipaza hoạt lực yếu. Hai enzym này phân giải lipit cho
axit béo và glixerin.
Tuy dạ dày chứa enzym tiêu hóa, nhưng bản thân không bị phân giải vì có cơ
chế tự bảo vệ. Nhờ chất nhầy muxin bao phủ bề mặt niêm mạc nên có hạn chế tác
dụng của HCl và pepsin. Ngoài ra tuần hoàn máu dạ dày có môi trường kiềm tác
dụng để kháng axit dịch vị.
5. Điều tiết sự tiết dịch vị
a. Pha thần kinh: sự tiết dịch vị do phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Phản
xạ không điều kiện gây ra do sự kích thích cơ học và hóa học của thức ăn vào thụ
quan trong xoang miệng và dạ dày, xung động thần kinh từ miệng theo dây thần
kinh lưỡi, lưỡi hầu, từ dạ dày theo dây X, truyền vào trung khu trong hành tủy.
6
Thần kinh truyền ra là thần kinh giao cảm và phó giao cảm, sợi phó giao cảm tăng
tiết dịch vị, sợi giao cảm ức chế tiết dịch vị hoặc tiết ít.
Phản xạ có điều kiện tiết dịch vị: những tín hiệu của thức ăn như hình ảnh,
mùi thơm ... cũng kích thích tiết dịch vị, dịch vị này có tác dụng chuẩn bị đón thức
ăn. Paplop gọi là “dịch vị châm mồi”, “dịch vị thèm ăn” chứa nhiều axit và enzym.
b. Pha thể dịch: pha thể dịch tiết dịch vị chủ yếu là do các sản phẩm của thức ăn bị
phân giải, được hấp thu vào máu, chảy đến tuyến dạ dày, kích thích tiết dịch vị. Pha
này thường diễn ra chậm hơn 30 phút sau ăn và kéo dài khoảng 10 giờ. Những
hoocmon điều tiết dịch vị:
- Gastrin: là một hoocmon do niêm mạc hạ vị tiết vào máu đến dạ dày, tăng
tiết dịch vị, nhất là kích thích tế bào chủ tiết enzym.
- Enterogastrin do niêm mạc tá tràng tiết ra, theo máu về dạ dày tăng tiết dịch vị.
- Histamin: là sản phẩm phân giải axit amin, làm tăng tiết dịch vị giàu HCl, ít
enzym.
- Urogastrin là sản phẩm trao đổi của gastrin, có trong nước tiểu, có tác dụng
tăng tiết dịch vị.
+ Những hoocmon ức chế tiết dịch vị:
- Gastron do niêm mạc hạ vị tiết ra, có tác dụng ức chế tiết dịch vị.
- Enterogastron do niêm mạc tá tràng tiết ra, ức chế tiết dịch vị.
- Hàm lượng HCl dịch vị tăng (pH ≤ 2) thì ngược lại ức chế tiết các kích tố
tăng tiết dịch vị.
6. Sự vận động của dạ dày
Dạ dày có 3 lớp: lớp cơ dọc, cơ vòng và cơ chéo. Cơ chéo hình thành cơ
vòng thượng vị. Ở hạ vị cơ vòng co lại thành cơ thắt hạ vị. Cơ dạ dày co bóp theo 2
phương thức:
- Vận động nhịp điệu: làn sóng co và giãn từ thượng vị xuống hạ vị còn gọi là
nhu động, nó có tác dụng nhào trộn thức ăn và chuyển thức ăn từ trên xuống dưới.
7
- Vận động căng thẳng: do cơ trơn co bóp kéo dài làm tăng áp lực trong dạ
dày, nghiền và ép thức ăn sát thành dạ dày, tăng thấm ướt dịch vị.
- Co đường cong nhỏ: làm cho thượng vị gần hạ vị tạo điều kiện cho nước và
thức ăn lỏng từ dạ dày vào ruột nhanh hơn.
Sự vận động của dạ dày chịu sự điều tiết của thần kinh và thể dịch. Điều tiết
thần kinh thông qua phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Trung khu
vận động cấp thấp nằm trong hành tủy và tủy sống, thần kinh mê tẩu có tác dụng
hưng phấn, giao cảm có tác dụng ức chế vận động.
Điều tiết thể dịch: các chất làm tăng co bóp dạ dày là gastrin, histamin,
axetylcolin. Các chất ức chế dạ dày: adrenalin, noradrenalin.
Ngoài ra, dạ dày còn có khả năng co bóp tự động nhờ cơ và các bó thần kinh
nằm trong vách dạ dày.
Khi đói, dạ dày co bóp mạnh theo chu kì gọi là co bóp đói.
7. Nôn
Nôn là phản ứng bảo vệ cơ thể, thải chất có hại ra ngoài. Nôn là kết quả của
sự vận động ngược chuyển các chất từ ruột lên dạ dày, qua miệng ra ngoài.
Nguyên nhân gây nôn là do các chất độc hại, thức ăn không thích hợp kích
thích vào thụ quan trong miệng, dạ dày, ruột. Trung khu nôn trong hành tủy và dây
buồng não IV, truyền ra là thần kinh mê tẩu và giao cảm. Kết quả là ruột, dạ dày, cơ
hoành, thực quản vận động ngược. Ngoài ra còn có sự tham gia của cơ thành bụng
và ngực. Động vật nhai lại ít thấy động tác nôn.
III. ĐẶC ĐIỂM TIÊU HÓA TRONG DẠ DÀY LỢN
1. Cấu tạo
Dạ dày lợn gồm có 5 vùng: thực quản, manh nang, thượng vị, thân vị và hạ vị.
Vùng thực quản không có tuyến. Vùng manh nang và thượng vị có tuyến tiết
dịch nhầy. Vùng thân và hạ vị giống dạ dày đơn.
2. Đặc điểm tiêu hóa
8
- Vùng manh nang có quá trình tiêu hóa xơ của vi sinh vật tạo axit béo bay
hơi, nhưng không đáng kể. Gluxit bị tiêu hóa bởi enzym amilaza từ nước bọt xuống
và enzym chứa trong thức ăn. Cần chú ý là thức ăn ở đây chưa ngấm axit.
- Tiêu hóa thức ăn trong vùng thân và hạ vị giống dạ dày đơn.
- Sự tiết dịch vị ở lợn là liên tục nhưng khi ăn dịch vị tiết nhiều hơn.
- Sự vận động của dạ dày lợn yếu nên thức ăn không bị trộn đều mà có hiện
tượng phân lớp.
Lợn con dưới 2 tuần tuổi, dịch vị tiêu hóa thiếu enzym và HCl tự do, sau đó
tăng dần lên, vì thế ở lợn con hay sinh chứng khó tiêu, đồng thời tạo điều kiện cho
vi khuẩn cư trú trong đường tiêu hóa phát triển và gây bệnh ỉa phân trắng ở lợn con.
Trong chăn nuôi lợn con cần chú ý 3 thời điểm: giai đoạn sơ sinh cần cho lợn
con bú sữa đầy đủ. Sữa đầu chứa kháng thể giúp lợn con đề kháng bệnh tật và chứa
nhiều chất dinh dưỡng cần cho lợn con. Giai đoạn 3 tuần tuổi, lúc này sữa mẹ giảm
mà nhu cầu của lợn con lại tăng lên. Để giải quyết khủng hoảng này cần tập cho lợn
con ăn sớm bằng thức ăn dễ tiêu. Giai đoạn cai sữa, lợn con chuyển sang ăn thức ăn
thay sữa, nếu không tập ăn trước dễ gây rối loạn tiêu hóa.
IV. TIÊU HÓA TRONG DẠ DÀY KÉP
Dạ dày động vật nhai lại có 4 túi: dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và múi khế. Ba
túi trước gọi chung là dạ dày trước, quan trọng nhất là dạ cỏ. Dạ múi khế còn gọi là
dạ dày chính.
1. Rãnh thực quản
Có hình lòng máng, bắt nguồn thượng vị, kết thúc ở lỗ tổ ong lá sách. Khi bê
nghé bú gây nên phản xạ khép rãnh thực quản, từ hình lòng máng sang hình ống,
sữa và thức ăn lỏng, nước chảy trong ống và dạ lá sách trốn thoát quá trình lên men
trong dạ cỏ. Nếu lòng máng không khép kín, sữa rơi vào dạ cỏ, bị lên men sinh hơi,
gây chướng bụng đầy hơi ở gia súc non. Khi trưởng thành, rãnh thực quản chỉ còn
lại cái gờ. Đóng rãnh thực quản là động tác phản xạ. Nguyên nhân là do thức ăn
kích thích vào môi, lưỡi, họng, thần kinh truyền vào thần kinh lưỡi hầu, trung khu
hành tủy, thần kinh truyền ra: mê tẩu.
9
2. Tiêu hóa trong dạ cỏ
Đây là nơi tiêu hóa quan trọng nhất và quyết định sản phẩm của động vật
nhai lại. Trong dạ cỏ niêm mạc tạo thành nhiều gờ và sừng hóa.
a. Môi trường dạ cỏ
pH 6,5 – 7,4 tuy quá trình lên men trong dạ cỏ tạo ra nhiều axit hữu cơ
nhưng kiềm trong nước bọt, đặc biệt là muối bicacbonat, photphat xuống làm trung
hòa nên pH tương đối ổn định. Môi trường dạ cỏ là yếm khí.
Nhiệt độ trong dạ cỏ 39 – 41oC, độ ẩm 80 – 90%.
Dạ cỏ vận động yếu, nên thức ăn dừng lại trong dạ cỏ lâu.
Với những điều kiện trên đã tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh vật cư trú
và phát triển.
b. Hệ vi sinh vật dạ cỏ
- Hệ vi thực vật (microflora) trong dạ cỏ có trên 200 loài vi khuẩn khác nhau,
với số lượng 109 vi khuẩn/1 gam chất chứa trong dạ cỏ. Các nhóm chủ yếu là:
+ Nhóm vi khuẩn phân giải xơ (xenluloza)
+ Nhóm vi khuẩn phân giải hemixenluloza
+ Nhóm vi khuẩn phân giải gluxit
+ Nhóm vi khuẩn phân giải protein và các dẫn xuất của protein
+ Nhóm vi khuẩn phân giải ure
+ Nhóm vi khuẩn sử dụng axit hữu cơ sinh ra trong dạ cỏ.
Sự phân chia các nhóm vi khuẩn theo chức năng như trên cũng mang tính
chất tương đối vì nhiều nhóm vi khuẩn có khả năng phân giải nhiều cơ chất khác
nhau. Ngoài khả năng phân giải, chúng còn có khả năng tổng hợp nhiều chất dinh
dưỡng khác nhau cho bản thân chúng, mà cuối cùng là cho động vật nhai lại. Thành
phần các nhóm vi sinh vật dạ cỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là
khối lượng, chất lượng và phương thức chế biến thức ăn.
10
- Hệ vi động vật (microfauna) chủ yếu là protozoa (nguyên sinh động vật)
quan trọng nhất là lớp tiêm mao trùng mà infuzoria (thảo phúc trùng) có số lượng
lớn nhất (0,6 – 1,8 triệu/gam chất chứa).
- Nấm fungi.
c. Tác dụng của vi sinh vật dạ cỏ
Thức ăn trong dạ cỏ chịu tác dụng tiêu hóa cơ học và hóa học của vi sinh vật.
- Tiêu hóa cơ học chủ yếu do tác dụng của tiêm mao trùng, chúng cắt xé thức
ăn ra từng mảnh nhỏ, tạo điều kiện cho vi khuẩn phân giải tiếp theo.
- Tiêu hóa hóa học, do hệ enzym của vi khuẩn cũng như của một số tiêm mao
trùng tiết ra. Quá trình tiêu hóa của các chất dinh dưỡng khác nhau diễn ra như sau:
+ Sự phân giải thức ăn thô xơ (rơm rạ, cỏ khô ...) mà thành phần chính là
xenluloza, hemixenluloza, pectin và sản phẩm cuối cùng là axit béo bay hơi như axit
axetic, propionic, butyric ... Những sản phẩm này phần lớn được hấp thu ở dạ cỏ.
+ Sự phân giải và tổng hợp protein của vi sinh vật dạ cỏ.
Proteaza
Protein
Peptid
Peptidaza VSV
Peptid
Axit amin
Deaminaza VSV
Axit amin
Axit hữu cơ +
NH3
Các hợp chất N – phiprotein cũng bị enzym vi sinh vật thủy phân như ure:
NH2
Ureaza VSV
CO
2NH3
+
CO2
NH2
Sản phẩm cuối cùng của sự phân giải protein và các hợp chất N – phiprotein
không phải là axit amin như ở động vật dạ dày đơn mà là amoniac (NH3).
Đồng thời vi sinh vật sử dụng NH3 để tổng hợp axit amin và protein của bản
thân chúng. Quá trình này diễn ra khá phức tạp, ta có thể tổng quát trong phản ứng
dưới đây : NH3 được chuyển cho 1 xetoaxit để tạo ra một axit amin mới.
11
Axit α-xetoglutaric
→
Axit glutamic (axit amin)
Axit glutamic lại nhường nhóm amin cho 1 xetoaxit khác để tạo ra 1 axit
amin mới.
Các xetoaxit là do quá trình phân giải thức ăn thô xơ và gluxit mà có. Vì vậy
trong quá trình phân giải và tổng hợp protein liên quan mật thiết với sự tiêu hóa và
phân giải gluxit, đồng thời cũng là cơ sở lý luận của việc bổ sung ure thay cho
protein trong khẩu phần thức ăn của động vật nhai lại.
Một phần NH3 được hấp thu và tạo thành ure, ure được chuyển lên nước bọt
hoặc qua vách dạ cỏ để vào trong dạ cỏ cung cấp cho vi sinh vật. Đây là con đường
tiết kiệm nitơ ở động vật nhai lại.
- Ứng dụng : trong thực tiến chăn nuôi động vật nhai lại sử dụng cacbamit
(ure) để thay thế protein tiêu hóa trong khẩu phần đã mang lại hiệu quả kinh tế rất
to lớn, thường thay thế khoảng 25 – 30% protein tiêu hóa trong khẩu phần hoặc
khoảng 100g ure cho một con bò/ngày đêm.
- Cần chú ý là tốc độ phân giải ure tạo NH 3 nhanh hơn nhiều tốc độ sử dụng
NH3 để tổng hợp protein của vi sinh vật nên cần cho ăn ure đúng kỹ thuật để tăng
hiệu quả sử dụng và tránh trúng độc cho gia súc.
- Sự tiêu hóa lipit trong dạ cỏ : tỷ lệ lipit trong thức ăn của động vật nhai lại
là thấp nên cơ thể lấy axit béo bay hơi từ sự phân giải gluxit để tổng hợp lipit.
Trong dạ cỏ triglyxerit bị vi sinh vật dạ cỏ thủy phân để cho axit béo và glyxerin.
Các axit béo không bão hòa cũng bị hydrogen hóa tạo thành axit béo bão hòa.
d. Sự tổng hợp các chất dinh dưỡng
Cùng với quá trình phân giải, vi sinh vật trong dạ cỏ tiến hành tổng hợp các
chất dinh dưỡng cho bản thân chúng. Khi vào dạ múi khế do độ pH thấp, vi sinh vật
bị chết và được cơ thể gia súc tiêu hóa hấp thu.
Hàm lượng protein do vi sinh vật tổng hợp đáp ứng khoảng 1/3 nhu cầu protein
hàng ngày của động vật nhai lại. Protein vi sinh vật chứa đủ các axit amin không thay
12
thế, tỷ lệ tiêu hóa và giá trị sinh vật học cao hơn. Tỷ lệ tiêu hóa mao trùng khoảng
91%, vi khuẩn 74%, giá trị sinh vật học protein vi sinh vật khoảng 80%.
Vi sinh vật còn tổng hợp glycogen và đặc biệt là chúng tổng hợp các loại
vitamin nhóm B. Tuy nhiên khi thiếu coban trong khẩu phần thì sẽ thiếu vitamin B12.
e. Sự sinh hơi và ợ hơi
Vi sinh vật lên men thức ăn trong dạ cỏ tạo ra một lượng khí đáng kể (1000
lít/24 giờ), trong đó có CO2 50 – 70%, CH4 20 – 45%, hàm lượng N2, O2, H2, H2S
tuy có nhưng không đáng kể.
Quá trình tạo chất khí :
CO2 : Đường
NaHCO3
Lên men VSV
+
Rượu
+
axit hữu cơ →
Muối +
H2CO3 bị phân li
→
CO2 +
H2O
CH4: 2C2H5OH
+
CO2 →
2CH3COOH
CH4 +
CO2
H2CO3
2H2O
(Nước bọt xuống)
4H2
+
4HCOOH
CO2 →
→
CH4 +
3CO2 +
+
CH4
2H2O
Các khí trên được thải ra ngoài thông qua phản xạ ợ hơi. Nếu phản xạ này bị
ức chế thì sinh chứng chướng bụng đầy hơi (đầy hơi dạ cỏ). Bệnh này xảy ra khi
nhu động dạ cỏ quá yếu, trúng độc thức ăn hoặc ăn nhiều thức ăn dễ lên men như
cỏ non đầu mùa xuân, khi ăn thức ăn chứa nhiều saponin làm giảm sức căng bề mặt
của dịch dạ cỏ và tạo nhiều bọt khí nhầy dính, khó thoát ra ngoài.
V. TIÊU HÓA TRONG DẠ TỔ ONG, LÁ SÁCH VÀ MÚI KHẾ
1. Tiêu hóa trong dạ tổ ong : giống như dạ cỏ, trong tổ ong có nhiều gờ giống
như tổ ong. Khi tổ ong co bóp phần thức ăn thô quay lại dạ cỏ, thức ăn lòng và
nước vào dạ lá sách.
2. Tiêu hóa trong dạ lá sách: chủ yếu là tiêu hóa cơ học ép lọc thức ăn, phần
lỏng vào dạ múi khế, phần đặc giữ lại giữa các lá để tiêu hóa tiếp theo. Quá trình
tiêu hóa giống dạ cỏ.
13
3. Tiêu hóa trong dạ múi khế (dạ dày chính) quá trình tiêu hóa ở đây cơ bản giống
dạ dày đơn.
Dạ múi khế bò tiết 100 lít dịch vị/24 giờ, tiết liên tục mà nguyên nhân chủ
yếu là do thức ăn và sản phẩm phân giải của nó không ngừng đi vào dạ múi khế
kích thích tiết dịch vị.
Về cấu tạo dạ múi khế chỉ có thân vị và hạ vị.
Thành phần dịch vị dạ múi khế : HCl 0,12 – 0,46%, pH 2,17 – 3,14 ; các
enzym pepsin, kimozin và lipaza.
Ở bê giai đoạn bú sữa quá độ chuyển sang ăn cỏ, dạ múi khế tiết dịch vị tăng
3 – 3,5 lần, khi ăn thức ăn thô hoàn toàn dịch vị tăng tiết 13 – 14 lần.
Các vi sinh vật từ dạ dày trước vào dạ múi khế do pH thấp bị chết và trở
thành nguồn thức ăn giàu protein của cơ thể động vật nhai lại.
VI. TIÊU HÓA TRONG RUỘT NON
Trong ruột non, thức ăn chịu tác dụng tiêu hóa cơ học và hóa học. Tiêu hóa
hóa học chủ yếu là do tác dụng của dịch tụy, dịch mật và dịch ruột non.
1. Dịch tụy
Do tuyến tụy tiết ra, qua ống wirsung đổ vào tá tràng. Dịch tụy có độ pH 7,8
– 8,4 ; độ kiềm dịch tụy tương ứng với độ axit từ dịch vị xuống.
a. Thành phần của dịch tụy : nước và chất khô, chất khô chiếm 1,52 – 6,6% trong
đó các chất vô cơ quan trọng là muối bicacbonat chiếm 0,7% ; tiếp sau là muối
clorua, photphat Na, K. Các muối kiềm này có tác dụng trung hòa HCl tự do từ dạ
dày xuống. Các chất hữu cơ : protein và enzym.
b. Tác dụng tiêu hóa hóa học của dịch tụy : dịch tụy có các nhóm enzym tiêu hóa
protein, gluxit và lipit.
+ Nhóm enzym phân giải protein: chủ yếu là phân giải các protein đã qua tác
dụng của pepsin trong dạ dày.
- Tripsinogen : ở dạng không hoạt động, nhờ enzym enterokinaza hoạt hóa
chuyển thành trypsin hoạt động, tripsin cũng tham gia hoạt hóa tripsinogen (tự xúc
14
tác). Nó tác dụng vào protein đã qua thủy phân của pepsin trong dịch vị, giải phóng
peptid và axit amin.
Tripsinogen
Enterokinaza
Tripsin
Trysin
Protein
Peptid
+
axit amin
- Chymotripsinogen : ở dạng không hoạt động, được tripsin hoạt hóa thành
chymotripsin hoạt động, nó phân giải peptid thành những đoạn peptid ngắn hơn
như di, tri, tetra peptid.
Trysin
Chymotripsinogen
Chymotripsin
Chymotrysin
Peptid
Peptid mạch ngắn
- Elastaza : phân giải protein elastin (trong gân ...) cho peptid và axit amin.
- Cacboxypeptidaza : phân giải polypeptit, giải phóng axit amin có nhóm
cacboxyl tự do (-COOH).
- Dipeptidaza : phân giải dipeptid cho 2 axit amin.
- Protaminaza : phân giải protamin cho peptid và axit amin.
- Nucleaza : nhóm enzym này gồm ribonucleaza và deoxyribonucleaza.
Chúng phân giải ARN và ADN.
+ Nhóm enzym phân giải gluxit
- Amilaza : phân giải gluxit cho dextrin và mantoza
- Mantaza: thủy phân mantoza cho 2 glucoza
- Lactaza: thủy phân lactoza cho glucoza và galactoza
- Saccaraza (invectaza): thủy phân saccaroza cho glucoza và fructoza.
+ Enzym phân giải lipit
- Lipaza: thủy phân lipit cho axit béo và glyxerin
Lipaza
Tristearin
Glyxerin+
c. Điều hòa tiết dịch tụy: do thần kinh và thể dịch
15
Stearic axit
- Điều tiết thần kinh: sự tiết dịch tụy chịu sự điều tiết của thần kinh thông
qua phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Thần kinh phó giao cảm chi phối
tuyến tụy có 2 loại sợi: sợi hưng phấn và sợi ức chế tiết dịch tụy.
- Điều tiết thể dịch:
Secretin: do niêm mạc tá tràng và đoạn đầu ruột non tiết ra, ở dạng không
hoạt động gọi là prosecretin, nhờ HCl từ dạ dày xuống hoạt hóa thành secretin hoạt
động. Nó được hấp thu vào máu đến kích thích tuyến tụy tiết nhiều chất kiềm
nhưng nghèo enzym.
Pancreozimin: niêm mạc ruột non tiết ra, do kích thích của các sản phẩm tiêu
hóa protein và lipit vào tá tràng. Nó kích thích tụy tiết ra nhiều enzym nhưng ít
nước.
Axetylcolin: là sản phẩm phân tiết của thần kinh phó giao cảm làm tăng tiết
dịch tụy nhiều nước.
Ở bò dịch tụy tiết liên tục 6 – 8 lít/ngày, lợn 10 lít/ngày.
2. Dịch mật
Do gan tiết ra, dự trữ trong túi mật qua ống dẫn, đổ vào xoang ruột theo cơ
chế phản xạ. Một số gia súc như ngựa ... không có túi mật.
a. Đặc tính và thành phần của dịch mật
Mật trong túi mật màu sẫm, có vị đắng, kiềm tính. Màu mật ở động vật ăn cỏ
màu xanh vì chứa sắc tố biliverdin có màu xanh, còn ở động vật ăn thịt thì màu
vàng vì có chất sắc tố vàng bilirubin.
Thành phần dịch mật 90% nước, 10% chất khô, chất khô quan trọng nhất là
axit mật và sắc tố mật.
- Axit mật gồm có: axit colic, deoxycolic và glycocolic. Những axit này
thường ở dạng liên kết với glycocol, taurin và tồn tại dưới dạng muối như Na
glycocolat, Na taurocolat.
- Sắc tố mật gồm: bilirubin và biliverdin. Bilirubin được tạo ra khi hồng cầu
bị phá hủy, 1 g hemoglobin cho 40 mg bilirubin. Khi bilirubin bị oxy hóa tạo thành
16
biliverdin. Sắc tố mật từ ruột non xuống ruột già và thải ra ngoài cùng với phân và
vì thế làm cho phân có màu vàng ở động vật ăn thịt, màu xanh ở động vật ăn cỏ.
Một phần sắc tố mật vào máu qua thận thải ra ngoài cùng với nước tiểu, làm cho
nước tiểu có màu, nhất là khi chứa nhiều sắc tố mật.
b. Tác dụng của dịch mật
- Dịch mật hoạt hóa enzym lipaza, amilaza và proteaza.
- Nhũ hóa lipit, dịch mật làm cho lipit bị chia cắt tạo thành hạt nhỏ ≤ 0,5µ để
cơ thể có thể hấp thu được và tăng diện tích tiếp xúc với enzym.
- Tạo phức chất hoà tan với axit béo. Axit béo không hoà tan trong nước nên
khó hấp thu. Khi axit mật kết hợp với axit béo tạo nên phức chất hoà tan, dễ hấp
thu. Đối với gia súc non, khi hoạt lực lipaza còn yếu thì dịch mật có ý nghĩa quan
trọng đối với tiêu hoá và hấp thu mỡ sữa.
- Dịch mật kiềm có tác dụng trung hoà axit từ dạ dày xuống.
- Làm tăng nhu động ruột.
c. Điều hoà sự tiết dịch mật: sự thải mật vào xoang ruột chịu sự điều tiết của thần
kinh và thể dịch.
- Cơ chế thần kinh: sự thải mật theo cơ chế phản xạ không và có điều kiện.
Khi con vật tiếp nhận những tín hiệu của thức ăn hoặc thức ăn kích thích trực tiếp
vào các thụ quan trong dạ dày và ruột non, hưng phấn từ trung khu thần kinh qua
dây phó giao cảm làm tăng thải mật, vì làm co cơ trơn túi mật và dãn cơ vòng của
ống mật, còn thần kinh giao cảm thì ngược lại ức chế thải mật (làm dãn cơ trơn túi
mật, co cơ vòng ống mật).
- Cơ chế thể dịch: Colexistokinin (hepatoerinin) do tá tràng tiết ra có tác
dụng tăng tiết dịch mật. HCl và sản phẩm phân giải của thức ăn cũng có tác dụng
tăng tíêt dịch mật. Vì vậy phối hợp khẩu phần thức ăn cho vật nuôi có ý nghĩa rất
quan trọng.
Bò tiết 7 – 9,5 lít/24 giờ, lợn 2,4 – 3,8 lít/24 giờ.
3. Dịch ruột non
17
Dịch ruột non do tuyến Brunner ở tá tràng và tuyến Liberkun ở trong ruột
non sinh ra.
a. Đặc tính và thành phần: dịch ruột có pH 8,2 – 8,7 (kiềm) chứa 97 – 98,5% nước
và 1,5 – 3% chất khô, riêng muối vô cơ như cacbonat, bicacbonat, clorua, photphat
của Na, K, Ca chiếm 1%. Protein của dịch ruột chủ yếu là enzym tiêu hoá, ngoài ra
là các chất nhầy và các tế bào biểu mô niêm mạc bong ra.
Dịch ruột non cùng với thức ăn trong ruột tạo thành chất sền sệt gọi là dưỡng
chấp. Ruột bò có khoảng 150 – 250 lít, lợn 50 – 70 lít dưỡng chấp, 1 kg chất khô
của thức ăn cho khoảng 14,5 lít dưỡng chấp.
b. Tác dụng tiêu hoá của dịch ruột
- Nhóm enzym phân giải protein
Aminopeptidaza: cắt mạch peptid giải phóng axit amin có gốc amin (NH 2+)
tự do.
Dipeptidaza: cắt mạch peptid cho 2 axit amin.
Prolinaza: cắt mạch peptid giải phóng axit amin prolin.
Enterokinaza: hoạt hoá tripsinogen.
- Nhóm emzym phân giải lipit: lipaza, photpholipaza, colesteroesteraza.
- Photphataza: phân giải các hợp chất có photphat, tách photphat ra khỏi các
hợp chất trên.
- Nhóm enzym phân giải gluxit: amilaza, mantaza, lactaza, saccaraza, tác
dụng giống enzym dịch tuỵ.
- Nhóm enzym phân giải axit nucleic gồm có nucleaza, nucleotidaza và
nucleosidaza.
Nucleaza
Axit nucleic
nucleotit
Nucleotidaza
Nucleotit
Nucleosit
Nucleosidaza
nucleosit
gốc kiềm +
18
pentoza
+
H3PO4
- Tiêu hoá màng (thành ruột): theo Ugolev thì tiêu hoá trong xoang ruột chỉ
chiếm 20 – 50%, còn trong thành ruột 50 – 80%. Màng biểu mô ruột non gấp nếp
tạo thành nhung mao, mỗi nhung mao lại có rất nhiều vi nhung mao giống như rìa
bàn chải làm tăng diện tích của ruột non lên 30 lần. Giữa vi nhung mao có những
khe hở, đây là nơi cố định các enzym và thức ăn, đồng thời tiến hành quá trình tiêu
hoá và hấp thu rất khẩn trương.
c. Điều hoà tiết dịch ruột
- Cơ chế thần kinh: khi kích thích cơ học hoặc hoá học của thức ăn vào đầu tận
cùng của thần kinh ở ruột thì làm tăng tiết dịch ruột theo cơ chế phản xạ, ở đây có
sự tham gia của các bó thần kinh cục bộ ở vách ruột (Meissner và Auerbach).
- Cơ chế thể dịch: HCl, một số sản phẩm của thức ăn bị phân giải, kích tố
duocrinin, enterocrinin được tạo ra khi kích thích cơ học và hoá học của thức ăn
vào niêm mạc ruột đều có tác dụng kích thích tiết dịch của tuyến ruột.
d. Vận động của ruột non: cấu tạo ruột non ở phía trong là cơ vòng, ngoài là cơ
dọc, sự co bóp của hai loại cơ này tạo ra 3 hình thức vận động: phân đốt, quả lắc và
nhu động.
- Vận động phân đốt: do cơ vòng thắt lại, chia ruột ra thành nhiều đốt. Tác
dụng của nó là nhào lộn, nghiền ép thức ăn thấm dịch tiêu hoá và tăng áp lực hấp
thu.
- Vận động quả lắc: cơ dọc của ruột non khi thì dãn ra, khi thì co vào, làm
cho thứ c ăn được lắc quan lắc lại. Tác dụng của nó giống như kiểu vận động phân
đốt.
- Nhu động và nhu động ngược: nhu động là kiểu vận động theo làn sóng,
đẩy dưỡng chấp từ trên xuống dưới. Nhu động ngược thì trái lại đẩy thức ăn lại
trong ruột non lâu hơn. Trong trường hợp rối loạn tiêu hoá như nôn chẳng hạn là
một loại nhu động ngược.
e. Điều tiết sự vận động của ruột non
- Cơ chế thần kinh: các sản phẩm của thức ăn kích thích vào thụ quan cơ học
và hóa học ở thành ruột thông qua phản xạ trục và phản xạ thần kinh thực vật điều
hòa nhu động của ruột.
19
Phản xạ trục do các hạch thần kinh cục bộ trong ruột: hạch Meissner và
Auerbach điều khiển, vận động này có tính chất tự động.
Phản xạ thần kinh thực vật: kích thích thần kinh phó giao cảm (phế vị) làm
tăng vận động cơ ruột, kích thích thần kinh giao cảm thì ngược lại. Thức ăn thô xơ
nhiều, tăng kích thích cơ học làm tăng nhu động ruột, thức ăn lỏng thì ngược lại.
- Cơ chế thể dịch: các sản phẩm phân giải protein, bột đường, axit, dịch mật,
các muối khoáng làm tăng vận động ruột.
Kích tố enterokinin, serotonin do niêm mạc ruột sinh ra làm tăng co bóp của
ruột.
VII. TIÊU HÓA TRONG RUỘT GIÀ
Ruột già gồm manh tràng, kết tràng và trực tràng. Trong ruột già có tế bào
tiết dịch nhầy, không tiết dịch tiêu hóa.
1. Đặc điểm tiêu hóa: đoạn đầu của ruột già tiếp tục quá trình tiêu hóa nhờ enzym
và dịch tiêu hóa từ ruột non xuống.
Cần chú ý là quá trình tiêu hóa trong ruột già nhờ vi sinh vật cư trú ở trong
đó, về chủng loại của vi sinh vật cũng như quá trình tiêu hóa giống như trong dạ cỏ.
Chất xơ được tiêu hóa trong ruột già ngựa (manh tràng là chính) 40 – 50%, ở
trâu bò 30%, lợn (manh tràng + kết tràng) 14%.
Protein được tiêu hóa trong ruột già ngựa 39%, trâu bò 31%, lợn 12%. Các
sản phẩm tạo ra được hấp thu vào máu và bạch huyết.
Cùng với phân giải thức ăn, vi sinh vật cũng tổng hợp một số chất như
vitamin nhóm B, K. Đặc biệt ruột già hấp thu nước mạnh (làm cho phân khô).
2. Lên men thối: trong ruột già có các vi khuẩn có hại, lên men thối, làm phân hủy
protein tạo ra những độc tố có mùi thối như indol, scatol, cresol. Những chất này
được hấp thu vào máu về gan và được khử độc ở gan bằng cách kết hợp với nhóm
SO2-4 hoặc với axit glucoronic tạo thành những chất không độc.
Indol +
SO2-4
Phenol
+
→
Indolssulfonic
axit glucoronic
20
→
Phenoglucoronic
- Xem thêm -