1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA HÓA
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA
MUỐI MAGIE HYDROXYCITRAT, ỨNG DỤNG
CHẾ BIẾN BỘT GIẢM BÉO HÒA TAN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN SU PHẠM
Sinh viên thực hiện : Trần Thị Quỳnh
Lớp
: 08SHH
Giáo viên hướng dẫn : GS.TS. Đào Hùng Cƣờng
Đà Nẵng - Năm 2012
2
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
.….…..
KHOA HÓA
NHIỆM VỤ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Họ và tên sinh viên
: Trần Thị Quỳnh
Lớp
: 08SHH
1. Tên đề tài: “Nghiên cứu một số tính chất của muối magie hydroxycitrat, ứng
dụng chế biến bột giảm béo hòa tan”.
2. Nguyên liệu, dụng cụ và thiết bị
Nguyên liệu: vỏ quả bứa khô
Hóa chất: cồn 960, nước cất, etylaxetat, MgO, glucose, NaCl, NaOH 0,1N,
phenolphtalein.
Dụng cụ và thiết bị:
-
Cốc thủy tinh 100ml, 250ml, 500ml, 1000ml;
-
Phễu lọc, nồi áp suất, bếp điện, bếp cách thủy, tủ sấy, cân phân tích;
-
Đũa thủy tinh, nhiệt kế, buret, pipet, bình tam giác, ống đong;
-
Máy đo HPLC.
3. Nội dung nghiên cứu
Điều tra sơ bộ, thu gom và xử lí nguyên liệu;
Dùng phương pháp chưng ninh để chiết tách axit;
Tổng hợp muối Magie hydroxycitrat;
Xác định một số chỉ số hóa lý: độ ẩm, độ tan, độ quay cực riêng, nhiệt độ
nóng chảy;
3
Chế biến bột hòa tan từ muối magie hydroxytrat, đường glucose và muối
NaCl;
Đánh giá, nhận xét sản phẩm muối thu được và bột hòa tan.
I. Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Đào Hùng Cường
II. Ngày giao đề tài: 05/05/2011
III. Ngày hoàn thành: 21/05/2012
Chủ nhiệm Khoa
Giáo viên hướng dẫn
PGS.TS. Lê Tự Hải
GS.TS. Đào Hùng Cƣờng
Sinh viên đã hoàn thành và nộp báo cáo cho Khoa ngày … tháng 05 năm 2012.
Kết quả điểm đánh giá:
Ngày… tháng 05 năm 2012
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(Ký và ghi rõ họ tên)
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nghị quốc tế lần thứ VIII về béo phì họp tại Paris ngày 01/09/1998 nhận định
rằng Bệnh béo phì đã trở thành đại dịch toàn cầu, là vấn đề lớn đang đe dọa sức khoẻ
cộng đồng. Số liệu thống kê gần đây của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy số
người béo phì đang gia tăng một cách đáng báo động với hơn 1,5 tỉ người toàn cầu.
Theo tính toán của WHO, một người được xem là béo phì khi chỉ số khối lượng cơ thể
(dựa trên thể trọng và chiều cao) cao hơn 30, người thừa cân có chỉ số dao động từ 2530.
Tại Trung Quốc, tình trạng thừa cân và béo phì có thể lên đến 20% dân số tại một
số thành phố. Tại Mỹ, 30% người trưởng thành bị béo phì (60 triệu người). Tại châu
Âu, Anh đứng đầu bảng với 23% người béo phì. Ở Việt Nam, theo Viện Dinh dưỡng
quốc gia, tỷ lệ béo phì ở người trưởng thành, từ 25-64 tuổi lên tới 16,8%. Kết quả khảo
sát cũng cho thấy tình trạng thừa cân, béo phì tăng nhanh nhất ở lứa tuổi từ 45 trở lên
(chiếm 2/3 số người bị thừa cân, béo phì) và tỷ lệ béo phì ở người dân thành thị cao
gấp 3 lần so với nông thôn.
Tình trạng này cũng tăng đều ở trẻ em. Trên thế giới hiện có 22 triệu trẻ từ năm
tuổi trở xuống bị thừa cân. Theo một báo cáo công bố mới đây của Viện y tế Mỹ, năm
2010, gần 1/5 trẻ em Mỹ bị béo phì. Tỉ lệ trẻ béo phì cũng đang ở mức báo động tại
châu Âu, nơi đang có hơn 14 triệu trẻ thừa cân. Tình trạng này sẽ dẫn đến một thế hệ
thanh niên béo phì trong tương lai. Béo phì cũng đang là một vấn đề đối với các nước
đang phát triển. Tại Thái Lan, chỉ trong vòng hai năm, tỉ lệ béo phì ở trẻ 5-12 tuổi đã
tăng từ 12,2% lên 15,6%.
Bệnh béo phì không chỉ ảnh hưởng đến lao động, sinh hoạt, thẫm mỹ mà còn
nguy hại nhất định đến sức khoẻ. Người trung niên và lớn tuổi bị béo phì sẽ dễ mắc các
bệnh như: huyết áp cao, bệnh mạch vành, tiểu đường, bệnh Gout, tai biến mạch não,…
5
Cuộc chiến chống béo phì đã được diễn ra từ lâu, ở khắp các quốc gia trên thế
giới với rất nhiều biện pháp được đưa ra. Từ việc tập thể dục thường xuyên, những chế
độ ăn uống hợp lý với nhiều rau quả, hạn chế đường, chất béo… đến việc sử dụng các
sản phẩm chức năng giúp giảm cảm giác thèm ăn, giảm hấp thụ các chất béo,…Những
sản phẩm giảm cân có nguồn gốc từ thiên nhiên đang chiếm ưu thế bởi tính hiệu quả và
an toàn. Trong số đó, những sản phẩm có Axit hydroxycitric (HCA) như Hydrotrim,
Maximum Protein, Agel SLM, Healtheries Slim,…Ở Mỹ, Hydrotrim là sản phẩm độc
quyền được điều chế từ muối của HCA, được người tiêu dùng ưa chuộng, có hiệu quả
cao trong việc điều trị giảm cân. Hơn nữa, đây là sản phẩm chức năng ở dạng bột hòa
tan nên rất tiện dụng.
HCA được chiết từ vỏ quả bứa có tác dụng kiềm hãm quá trình chuyển hóa lượng
đường dư thừa trong cơ thể thành mỡ. Không những giúp giảm cân, HCA còn giảm các
loại mỡ xấu cho sức khỏe như tryglycerid, LDL cholesterol, cholesterol toàn phần và
tăng HDL cholesterol là loại mỡ có tác dụng bảo vệ thành mạch. Ngoài ra, HCA làm
gia tăng nồng độ serotonin, một chất dẫn truyền thần kinh chính yếu có vai trò kiểm
soát sự thèm ăn và cảm xúc. HCA kiềm hãm cảm giác thèm ăn, đồng thời cải thiện tâm
lí phiền muộn ở người dư cân, béo phì giúp họ giảm năng lượng khẩu phần. HCA ở
dạng tự do có hoạt tính sinh học nhưng không bền, dễ chuyển hóa thành dạng lacton,
bền nhưng kém hoạt động. Vì thế cần phải tạo ra HCA tồn tại ở dạng dẫn xuất, bền và
có hoạt tính sinh học. Theo kết quả nghiên cứu trên thế giới thì những muối HCA của
kim loại kiềm và kiềm thổ có tác dụng giảm cân. Một trong số đó là muối magie của
HCA (magie hydroxycitrat). Muối magie của HCA có hoạt tính sinh học của HCA,
ngoài ra còn bổ sung một lượng magie, loại khoáng chất quan trọng cho cơ thể.
Ở Việt Nam, cây bứa là một loại cây rất dễ trồng, phát triển tốt, cho năng suất cao
và có ở hầu hết trên các địa bàn Miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ. Dân ta dùng lá và
quả bứa làm món ăn, dùng vỏ quả bứa để trị một số bệnh ngoài da và dùng búp non
nhai ăn để chữa bệnh động thai,... Tuy nhiên, ở nước ta chưa có nhiều công trình
6
nghiên cứu về ứng dụng của loại axit này, cũng như những dẫn xuất của nó một cách
rộng rãi và hiệu quả. Thiếu những nghiên cứu mang tính cơ bản về thành phần, tính
chất, khả năng ứng dụng, công nghệ khai thác về các hợp chất hoá học có trong cây
bứa. Đây là những vấn đề rất đáng được quan tâm nghiên cứu nhằm góp phần quy
hoạch, khai thác, chế biến và ứng dụng các sản phẩm của cây bứa một cách có hiệu
quả, khoa học hơn.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu một số tính chất của
muối magie hydroxycitrat, ứng dụng chế biến bột giảm béo hòa tan”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu một số tính chất lý hóa của muối magie hydroxycitrat được tổng hợp
từ MgO và axit hydroxycitric chiết tách từ vỏ quả bứa.
- Nghiên cứu chế biến bột giảm béo hòa tan từ muối magie hydroxycitrat theo
công thức của sản phẩm chức năng Hydrotrim.
- Đóng góp thêm những thông tin, tư liệu khoa học về muối của HCA, tạo cơ sở
khoa học ban đầu cho các nghiên cứu sâu về ứng dụng của muối của HCA.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
- Muối magie hydroxycitrat.
Phạm vi nghiên cứu
- Tổng hợp muối magie hydroxycitrat từ MgO và axit hydroxycitric chiết tách từ
vỏ quả bứa.
- Chế biến bột hòa tan từ muối magie hydroxycitrat tổng hợp được, đường
glucose và muối NaCl.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp nghiên cứu các hợp chất tự nhiên, tổng quan
các tài liệu về đặc điểm hình thái thực vật, thành phần hoá học, ứng dụng của một số
loài thực vật thuộc họ bứa Clusiaceae.
7
- Phương pháp lấy mẫu: Mẫu vỏ quả chọn quả chín. Quả được hái ở dạng tươi,
sau đó sấy khô đến độ ẩm thích hợp. Dung môi là nước.
- Phương pháp thực nghiệm: Sử dụng chiết chưng ninh để chiết tách HCA;
Chuyển hóa HCA thành muối; Phối trộn muối tạo thành với đường glucose và muối
NaCl tạo thành bột hòa tan; Phân tích công cụ để xác định hàm lượng, độ tinh khiết của
muối magie hydroxycitrat trong mẫu muối tạo thành và trong bột hòa tan, nhiệt độ
nóng chảy, độ quay cực riêng của muối tạo thành; Xác định độ ẩm của muối tạo thành,
độ hòa tan trong các dung môi khác nhau ở các nhiệt độ khác nhau.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 59 trang, trong đó có 10 bảng và 28 hình. Phần mở đầu 04 trang,
kết luận và kiến nghị 01 trang, tài liệu tham khảo 01 trang. Nội dung của luận văn chia
làm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan, 19 trang.
Chương 2: Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu, 06 trang.
Chương 3: Kết quả và thảo luận, 18 trang.
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. CÂY BỨA
1.1.1. Bộ Chè [2]
Là bộ lớn, bao gồm chủ yếu các cây thân gỗ có quan hệ gần gũi với bộ sổ và sớm
ra đi ra từ bộ này.
Bộ 2 lá mầm thuộc phân lớp sổ Dilleniiae. Lá đơn có khi lá kép; hoa thường cánh
phân; nhiều nhị; đài xếp xoắn ốc sát nhau [2].
Bộ chè gồm 19 họ, ở nước ta có 8 họ trong đó có 2 họ quan trọng nhất là họ Chè
và họ Măng cụt, phân biệt với nhau chủ yếu như sau:
-
Cây không có nhựa mủ, lá mọc cách thường thuộc Họ Chè.
-
Cây có nhựa mủ màu vàng, lá mọc đối thường thuộc Họ Măng cụt.
1.1.1.1. Họ Chè (Theaceae)
Cây gỗ hay cây bụi, lá mọc cách, đơn nguyên và không có lá kèm, trong lá thường
có tế bào đã phân nhánh. Hoa lưỡng tính, thường mọc đơn độc. Đài gồm 5 lá đài không
bằng nhau, tồn tại trên quả. Tràng gồm 5-9 cánh rời. Nhị nhiều. Nhụy do 3-5 lá noãn
hợp thành bầu trên, số ô tương ứng với số lá noãn, trong mỗi ô có 2 hay nhiều noãn,
đính noãn trụ giữa. Quả có một hay nhiều hạt, không có nội nhũ, phôi lớn.
Họ chè có 29 giống và khoảng 550 loài, phân bố chủ yếu ở các nước nhiệt đới và
cận nhiệt đới của hai bán cầu, đặc biệt ở Đông và Đông Nam Á. Ở Việt Nam có 11
giống với trên 100 loài.
- Hải đường (Camellia amplexicaulis (Pit.) Coh-Swart.) : Cây bụi. Hoa mọc 2-3
cái ở gần ngọn, không có hương thơm. Cánh hoa tròn, đỏ, dính nhau ở gốc, nhị nhiều,
màu vàng, trồng làm cảnh. Hoa nở vào dịp tết, thường được chưng ngày tết vì hoa đẹp
và lâu tàn.
9
- Chè (Camellia sinensis (L.). O.Ktze) : Còn gọi là trà, chè xanh. Hoa mọc đơn
độc ở nách lá. Gốc có 3-4 lá bắc dễ rụng. Đài 5 cánh không đều nhau. Tràng có 5-6
cánh, nhị rất nhiều xếp làm 4-5 dãy. Ra hoa từ tháng 9, 10 đến tháng 2 năm sau. Hiện
nay ở nước ta chè là một loại đặc sản được trồng nhiều ở nông trường. Chè nổi tiếng
của ta là chè Phú Thọ, Hà Giang, Thái nguyên.
1.1.1.2. Họ Măng cụt (Clusiaceae)
Họ măng cụt Guttiferae còn gọi họ bứa Clusiaceae thuộc bộ Chè. Cây gỗ có mủ
vàng, cành nhỏ mọc thành nhiều tầng. Lá đơn mọc đối, không có lá kèm. Phiến lá dày,
mép nguyên gân bên nhiều nhỏ không nổi rõ. Hoa thường đơn tính hoặc hoa tạp tính
tức hoa đực và hoa lưỡng tính cùng gốc, bầu trên. Quả thịt hay quả hạch thường có đài
tồn tại
ở gốc. Như Măng cụt Garcinia mangostana; dọc G. multiflora; bứa G.
oblongifolia; Tai chua G. cowa; mù u (hồ đồng) Calophyllum inophyllum [2], [7].
Họ măng cụt gồm 14 giống và hơn 350 loài phân bố trong giới hạn các nước nhiệt
đới ẩm. Ở Việt Nam có 5 giống, 41 loài [7].
1.1.2. Bứa [1], [7]
Bứa - Garcinia oblongifolia Champ. Ex Benth., thuộc họ măng cụt-Clusiaceae.
Mô tả: Cây gỗ thường xanh cao 6-7 m (hình 1.1). Cành non thường vuông, xoè
ngang và rủ xuống. Lá hình thuẩn, hơi dài, đuôi nhọn, chóp dài, mép nguyên, nhẵn
bóng, có nhiều điểm mờ. Hoa đực mọc thành cụm 3-5 hoa ở nách lá, 4 lá đài và 5 cánh
hoa, 20 nhị có chỉ nhị ngắn. Hoa lưỡng tính có lá đài và cánh hoa như ở hoa đực, màu
hơi vàng hoặc trắng; bầu 4 (6-10) ô, hình cầu, vòi ngắn. Quả mọng mang đài tồn tại; vỏ
quả dày, có khía múi, khi chín màu vàng, phía trong hơi đỏ chứa 6-10 hạt. Mùa hoa
quả tháng 3-6.
Bộ phận dùng: Vỏ
10
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang trong rừng thứ sinh của các tỉnh từ Hà
Tuyên, Vĩnh Phú đến Quảng Nam - Đà Nẵng. Cũng thường được trồng lấy lá tươi và
quả nấu canh chua. Thu hái vỏ quanh năm, cạo bỏ lớp vỏ ngoài, thái nhỏ, phơi khô.
Tính vị, tác dụng: Vỏ có tính săn da và hơi đắng, mát, hơi độc, có tác dụng tiêu
viêm, hạ nhiệt, làm săn da, hàn vết thương.
Công dụng: Lá có vị chua thường được dùng thái nhỏ nấu canh chua. Hạt có áo
hạt chua, ăn được, dùng nấu canh chua. Vỏ thường dùng trị:
1. Loét dạ dày, loét tá tràng;
2. Viêm dạ dày ruột, kém tiêu hoá;
3. Viêm miệng, bệnh cặn răng;
4. Ho ra máu;
5. Dùng ngoài trị bỏng, mụn nhọt, sâu quảng, eczema, dị ứng mẫn ngứa, rút các
vết đạn đâm vào thịt.
Liều dùng 20-30 g dạng thuốc sắc; dùng ngoài giã vỏ tươi đắp.
Đơn thuốc:
1. Viêm dạ dày ruột, kém tiêu hoá: Vỏ cây Bứa sắc đặc cô đặc lấy 50%; hàng
ngày uống 30 ml.
2. Bỏng: Nhựa bứa pha dầu làm thành cao lỏng, bôi ngày 1-2 lần.
11
Hình 1.1. Quả, lá và cây bứa
1.1.2.1. Bứa mọi [1], [7]
Bứa mọi - Garcinia harmandii Pierre, thuộc họ bứa-Clusiaceae.
Mô tả: Cây gỗ cao 6-10 m, phân nhánh nhiều từ gốc, có vỏ vàng vàng. Lá thuôn,
hình trứng ngược hay hình ngọn giáo ngắn, có góc ở gốc, có mũi nhọn ở đầu, nguyên,
dai, dài 4-10 cm, rộng 15-30 mm; cuống ngắn. Hoa vàng vàng, hầu như không cuống;
hoa đực xếp thành nhóm 3-6, hoa cái đơn độc. Quả có đường kính 10-20 mm, màu tía,
hơi dẹp giữa các hạt; hạt 2, có phôi to màu lục. Ra hoa tháng 2-3, có quả tháng 3.
Bộ phận dùng: Vỏ
Nơi sống và thu hái: Loài đặc hữu và sống phổ biến ở Nam Việt Nam,
Campuchia và Nam Lào. Ở nước ta cây mọc hoang trong rừng ở độ cao thấp từ Khánh
Hoà tới Đồng Nai, Tây Ninh.
Công dụng: Quả có nạc ngon, mùi thơm, vị ngọt, ăn được. Vỏ chát được nhân
dân Campuchia dùng ăn với trầu. Người ta phối hợp với nhiều vị thuốc khác trị ỉa chảy.
Ghi chú: Còn có loài Bứa Lanessan-Garcinia lanessanii Pierre mọc ở rừng Tây
Ninh, có vỏ dùng để nhuộm; ở Campuchia cây này có nhiều công dụng.
1.1.2.2. Bứa mủ vàng [1], [7]
12
Bứa mủ vàng - Garcinia xanthochymus Hook.f.ex J. Anderson, thuộc họ bứaClusiaceae.
Mô tả: Cây gỗ lớn, nhánh non vuông, vàng vàng hay nâu. Lá có phiến thuôn, to,
dài đến 30 cm, rộng 6-8 cm, dày bóng; gân phụ nhiều cách nhau khoảng 1 cm; cuống
ngắn. Hoa ở nách lá già, rộng cỡ 1 cm, cuống 2 cm; hoa đực có 5 lá đài, 5 cánh hoa
trắng, cao 8mm; 5 bó nhị mà mỗi bó có 3-5 bao phấn, có nhụy lép; hoa cái có bao hoa
như hoa đực, nhị lép, bầu 5 ô. Quả tròn, to 9cm; hạt 1-5 (hình 1.2).
Bộ phận dùng: Lá, thân, nhựa, mủ và quả
Nơi sống và thu hái: Loài này phân bố ở Ấn Độ, Nepan, Trung Quốc và Việt
Nam. Ở nước ta, cây mọc ở rừng miền Nam.
Tính vị, tác dụng: Lá, thân, mủ có vị đắng, chua, tính mát, có tác dụng sát trùng.
Quả giải nhiệt, lợi mật, làm dịu và làm nhày.
Công dụng: Ở Ấn Độ, quả được dùng như quả loài Garcinia indica Chois làm
thuốc chống bệnh scorbut. Ở Trung Quốc, để trị đỉa vào mũi, người ta lấy mủ tươi với
liều lượng thích hợp nhỏ vào xoang mũi, đỉa sẽ bò ra.
Hình 1.2. Cây, lá, quả, hoa bứa mủ vàng
13
1.1.2.3. Bứa nhà [1], [7]
Bứa nhà - Garcinia cochinchinensis (Lour) Choisy, thuộc họ Măng cụtClusiaceae.
Mô tả: Cây cao 10-15 m, vỏ ngoài màu đen, phía trong màu vàng. Cành non
vuông, về sau tròn. Lá thuôn nhọn ở gốc, dài 8-15 cm, rộng 3-4,5 cm. Hoa đực 1-5,
mọc thành chùm ở nách lá, màu vàng, có nhiều nhị; hoa lưỡng tính không cuống,
thường mọc đơn độc; nhị xếp thành 4 bó, mỗi bó 7-12 bao phấn; bầu 6-10 ô, thường là
8. Quả cao 5cm, đường kính 4cm, hình trứng; vỏ quả nạc, có cơm hơi đỏ bao quanh hạt
(hình 1.3). Ra hoa vào tháng 4-5.
Bộ phận dùng: Vỏ, lá, quả
Nơi sống và thu hái: Cây mọc chủ yếu ở rừng thưa, thông thường ở bình nguyên.
Từ Quảng Trị trở vào cũng thường được trồng. Thu hái vỏ, lá quanh năm.
Tính vị, tác dụng: Vỏ chát làm săn da. Lá và quả giải nhiệt.
Công dụng: Lá và vỏ quả thường dùng nấu canh chua. Quả chín ăn giải khát; áo
hạt có vị chua ngọt. Vỏ thường dùng trị dị ứng mẩn ngứa và bệnh ngoài da. Lá giã nát
đắp trị sâu quảng. Búp non nhai ăn chữa động thai.
Đơn thuốc: Dị ứng mẩn ngứa, dùng vỏ bứa 20-30 g, nước 500 ml, sắc còn 150
ml, chia 2-3 lần uống trong ngày.
Ghi chú: Còn loài bứa rừng hay bứa núi - Garcinia oliveri Pierre, mọc khá phổ
biến ở miền Nam nước ta, có đọt non và lá dùng nấu canh chua. Quả có thịt và vỏ quả
trong chua, dùng ăn được.
14
Hình 1.3. Cây, quả bứa nhà
1.1.2.4. Tai chua [7], [12]
Tên khoa học là Garcinia pedunculata Roxb (G. cowa Roxb). Cây nhỏ mọc
thẳng, thân thường có nhiều u lồi. Cành nhiều và mảnh, thường nằm ngang, đầu hơi rủ
xuống. Lá hình trứng ngược, đầu lá tù, đuôi lá hình nêm, dài 7-17 cm, rộng 2,5-6 cm,
gân lá rõ ở cả hai mặt, đường gân phụ nối liền với nhau ở mép, cuống lá mảnh dài gần
2 cm. Cụm hoa đực có 3-8 hoa xếp hình tán, hoa có cuống dài 1 cm, đài 4, tràng 4 cánh
dày, nhị xếp thành một khối, chỉ nhị ngắn. Hoa lưỡng tính đơn lẻ hay tụ thành 2-3 mọc
ở nách lá, gần không cuống, nhị hợp thành 4 bó, mỗi bó 1-8 thuỳ hình nêm. Quả mập
hình cầu dẹt, trên có những múi nổi rõ (hình 1.4). Mọc hoang tại nhiều khu rừng miền
Bắc nước ta, nhiều nhất ở Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Hoà Bình, Tuyên Quang, Hà
Giang, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn. Một số vùng người ta trồng ven
đường làng để lấy quả ăn và dùng trong công nghệ. Mùa hoa vào các tháng 3-4, mùa
quả vào tháng 7-8. Thường hái về bỏ hạt thái thành từng miếng mỏng phơi hay sấy
khô, có màu đen nâu nhạt, hơi mềm.
Trong nhân dân tai chua chủ yếu được dùng để nấu canh có vị chua. Một số nơi
nhân dân sắc uống chữa sốt, khát nước. Ngày uống 6-10 gam. Trước khi chưa có axit
15
citric tổng hợp người ta xem tai chua là axit citric thiên nhiên đáng quý. Theo lời phát
biểu của một giám đốc nhà máy nhuộm Zurich (Đức) thì cao quả tai chua dùng trong in
vải vừa giữ cho màu bền, vừa không hại vải cho nên dù cùng một giá trị với axit citric
hay với giá trị cao hơn một chút thì việc sử dụng tai chua trong nhuộm in trên vải vẫn
tốt hơn. Điều này giải thích kinh nghiệm trong nhân dân ta dùng tai chua làm chất cắn
màu trong nhuộm vải, lụa, nhuộm cói đan chiếu và do tính axit nhẹ nên sử dụng trong
việc làm bóng các loại vàng bạc.
Hình 1.4. Quả tai chua
1.1.2.5. Garcinia cambogia [12]
Loại cây có kích thước nhỏ hoặc trung bình với các nhánh mọc tròn đối xứng như
vương niệm, nằm ngang hoặc rủ xuống; lá của nó có màu xanh đậm và bóng, hình elip
dạng trứng ngược, dài từ 5-12 cm và rộng từ 2-7 cm; quả hình trứng, đường kính 5 cm,
màu vàng hoặc đỏ khi chín với 6-8 rãnh, và mỗi quả có từ 6 đến 8 hạt được bao quanh
bởi áo hạt mọng nước (hình 1.5). Cây bứa thường tìm thấy tại các cánh rừng thường
xanh phía tây Ghats, từ Phía nam của Konkan đến Travancore Ấn Độ, và trong rừng
16
Shola của Nilgiris với độ cao 1828 m so với mực nước biển. Nó ra hoa vào suốt mùa
nắng, và trái chín kéo dài trong mùa mưa. Hạt của Garcinia cambogia chứa 31% dầu
béo có thể ăn được.
Quả của Garcinia cambogia có nhiều axit có thể ăn sống. Nước sắc của vỏ quả có
thể chữa bệnh thấp khớp và bệnh đau đường ruột. Nó cũng được sử dụng làm thuốc thú
y để rửa các bệnh ở mồm gia xúc. Tại Ceylon-Ấn Độ vỏ quả khô của G. cambogia
được sử dụng với muối trong muối cá. Vỏ quả khô rất có giá trị, nó được sử dụng như
là gia vị tạo mùi trong carri để thay thế me hoặc chanh.
Hình 1.5. Cây, lá, hoa, quả Garcinia cambogia
1.1.2.6. Garcinia indica [12]
Là cây thường xanh mảnh khảnh với các cành rủ xuống; Lá hình trứng hoặc hình
thun ngọn giáo, dài từ 6-9 cm và rộng 2,5-4 cm, màu xanh đậm ở mặt trên và màu xanh
nhạt ở phía dưới; quả có hình cầu, đường kính từ 2,5-4 cm, có màu tím đậm khi chín và
17
được bao quanh từ 5-8 hạt lớn (hình 1.6). Cây bứa này tìm thấy tại tầng mưa nhiệt đới
của Western Ghats, từ phía nam Konkan đến Mysore, Coorg, và Wynaad Ấn Độ. Nó ra
hoa từ tháng 11 đến tháng 2, quả chín vào tháng 4-5. Rễ chắc chắn. Hạt có dầu ăn
được, trong thương mại nó được biết đến như là bơ Kokam.
Quả Garcinia indica mùi hương dễ chịu và có vị chua ngọt. Nó được sử dụng làm
hương vị chua trong nấu carri và nó cũng được dùng làm siro trong mùa nóng. Quả của
nó cũng có thể chữa giun sán và bệnh trĩ, bệnh lỵ, khối u, vết thương, bệnh đau tim.
Siro từ nước bứa rất được ưa thích. Vỏ quả khô có giá trị, nó được sử dụng như là gia
vị tạo mùi trong carri để thay thế me hoặc chanh.
Hình 1.6. Cây, quả Garcinia Indica và Kokam
18
1.1.2.7. Garcinia atroViridis [12]
Cây phong nhã có kích thước trung bình, cao 9-15 m (30-50 ft), tìm thấy ở phía
đông bắc quận Assam-Ấn Độ. Lá dài 15-23 cm (6-9 inch) và rộng 5-7,6 cm (2-3 inch),
dày như da, nhẵn, mũi nhọn, và phần đuôi thon nhỏ; hoa ra theo từng quý, nhụy đơn và
rộng. Quả màu vàng cam, gần giống hình cầu (dài 3-4 inch.), vỏ có các đường rãnh sâu
và khá mỏng cơm màu trắng đục với các hạt bao quanh (hình 1.7).
Vỏ quả của Garcinia atroViridis cũng chứa nhiều axit và có thể ăn sống, nhưng vị
của nó rất hấp dẫn khi ninh nhừ với đường. Tại Malay-Ấn Độ, vỏ quả gần chín được
phơi khô, bán làm gia vị để nấu carri thay cho me và sử dụng làm gia vị kho cá. Quả
này cũng được sử dụng làm thuốc nhuộm với nhôm trong nhuộm tơ lụa. Nước sắc từ
quả và rễ được sử dụng để chữa bệnh đau tai.
Hình 1.7. Hoa, lá, quả và cây Garcinia atroViridis
19
1.2. AXIT HYDROXYCITRIC (HCA) [12]
1.2.1. Nguồn gốc (-)-HCA
(-)-HCA được tìm thấy trong vỏ quả của một vài loài bứa, bao gồm tai chua (G.
cowa), G. cambogia, G. indica, và G. atroViridis. Các loài này mọc nhiều tại lục địa
Ấn độ và phía tây Sri Lanka [12].
1.2.2. Sự khám phá (-)-HCA
Vỏ quả G. cambogia sấy khô phổ biến được xem như là “me Malabar” được sử
dụng rộng rải khắp vùng biển phía đông Ấn độ với mục đích nấu nướng và trong
thương mại sử dụng như “Colombo curing” để muối cá. Axit hữu cơ trong quả bứa có
mục đích kiềm hãm có hiệu quả sự phát triển của vi khuẩn trong môi trường nước mắm
do pH thấp. Trong quả khô chứa 30% khối lượng là axit được tính như là axit citric.
Axit hữu cơ này đã được xác định nhầm và xem như là axit me và axit chanh. Dung
dịch nước chiết quả cho thấy rõ 02 axit thương phẩm bằng phương pháp sắc ký giấy sử
dụng các dung môi khác nhau, mà nó rất gần giống axit tactaric và citric, nhưng nó
luôn có ý nghĩa khi sự khác biệt nhỏ giá trị của Rf trong các hệ dung môi. Phân tích
nước trái cây bằng sử dụng cột trao đổi ion biểu diễn bằng Palmer cho thấy vạch rộng
hơn vùng axit citric.
Lewis và Neelakantan đã chiết axit chủ yếu trong vỏ quả G. cambogia và xác định
nó như (-)-HCA là hoá chất chính và được nghiên cứu bằng phương pháp quang phổ.
Sự xác định và tách axit hydroxycitric bằng giấy Whatman No. 1 được thực hiện bằng
cách sử dụng n-butanol/axit axetic/nước (4:1:5) và n-propanol/axit focmic/nước
(4:1:5). Các vạch được xác định bằng phun metavanadate 5%. Xà phòng hoá axit bằng
cách trộn với lượng kiềm dư và cho đi qua cột nhựa trao đổi ion (Zeocarb 215), kết quả
rửa cho thấy chỉ có vạch (spot) (Rf = 0,34) có giá trị thấp tương ứng với (-)-HCA tự
do. Trong nồng độ nước rửa cũng còn có vạch cao hơn (Rf = 0,46) đó chính là lacton.
Nước chiết từ quả cho thấy có 02 vạch axit nổi trội trong sắc ký với 02 hệ dung môi
khác nhau. Trong trường hợp chuẩn độ dung dịch chiết này bằng kiềm, sử dụng
20
phenolphthalein làm chất chỉ thị màu, thu được 02 điểm tới hạn khác nhau, trong môi
trường lạnh và sau đó đun nóng, điều này cho thấy đó là đặc điểm của lacton. Hai vạch
sắc ký đã được xem như là axit hydroxycitric và lacton của nó (hình 1.8 và 1.9). Điều
này cũng chứng tỏ rằng 02 vạch trong sắc ký cũng là của axit γ-hydroxycitric và lacton
của nó và không phải là của axit tactaric và axit citric.
COOH
COOH
HO
C
H
HO
C
COOH
H
C
COOH
H
C
OH
HOOC
C
OH
C
COOH
H
H
H
Axit (-)-hydroxycitric (I)
Axit (+)-hydroxycitric (II)
COOH
COOH
HO
C
H
HOOC
C
OH
H
C
COOH
H
C
OH
HO
C
COOH
H
C
COOH
H
H
Axit (+)-allo-hydroxycitric (III) Axit (-)-allo-hydroxycitric (IV)
Hình 1.8. Cấu trúc đồng phân của axit hydroxycitric
HO
O
H
COOH
COOH
C
H
C
H
C
COOH
C
OH
C
C=O
C
C=O
H
Axit (-)-hydroxycitric
lacton
HOOC
O
H
H
Axit (+)-allo-hydroxycitric
lacton
Hình 1.9. Cấu trúc của axit hydroxycitric lacton
1.2.3. Chiết tách HCA
Lewis và Neelakantan đã chiết tách một tỷ lệ lớn (-)-HCA từ vỏ quả G. cambogia
- Xem thêm -