Nghiên cứu thực trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam và đề xuất giải pháp khắc phục
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
RNM
: Rừng ngập mặn
CNM
: Cây ngập mặn
DTTN
: Diện tích tự nhiên
TM – DV
: Thương mại và dịch vụ
THPT
: Trung học phổ thông
THCS
: Trung học cơ sở
NN&PTNN
: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
ĐKTN
: Điều kiện tự nhiên
KTXH
: Kinh tế xã hội
GPS
: Thiết bị định vị
OTC
: Ô tiêu chuẩn
KHCN
: Khoa học công nghệ
TVC
: Thực vật chính
TVTG
: Thực vật tham gia
UBNN
: Uỷ ban nhân nhân
BTB
: Bắc trung bộ
NTB
: Nam trung bộ
ĐBSCL
: Đồng bằng sông cửu long
ĐBBB
: Đông bằng bắc bộ
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Diện tích RNM trên thế giới...................................................................9
Bảng 1.2. Thống kê số cơn bão đổ bộ vào ven biển khu vực III ........................11
Bảng 1.3. Lượng mưa bình quân năm (tiểu khu 3).............................................15
Bảng 1.4 .Diện tích đất ngập mặn và rừng ngập mặn ở việt nam..................... 17
Bảng 1.5. Diện tích RNM trên thế giới.................................................................33
Bảng 1.6. Diện tích RNM trên lãnh thổ Việt Nam...............................................35
Bảng 1.7. Diện tích RNM từ năm 1990 – 2001 của các tỉnh thuộc ĐBSCL...... 37
Bảng 1.8. Chế độ thủy văn của xã Tam Hải.........................................................39
Bảng 1.9. Thể hiện cơ cấu và thành phần lao động của xã Tam Hải.................40
Bảng 3.1.Thành phần các loài cây ngập mặn của xã Tam Hải vào năm 2010. .49
Bảng 3.2. Tỷ lệ các nhóm thực vật ngập mặn tại RNM xã tam hải....................50
Bảng 3.3. Công thức tổ thành ở một số vị trí điều tra.........................................51
Bảng 3.4. Mật độ tầng cây cao của các ô điều tra ...............................................52
Bảng 3.5. Độ tàn che của tầng cây cao tại các ô điều tra....................................54
Bảng 3.6. Mật độ cây tái sinh dưới tán rừng tại các ô điều tra .........................54
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Trái Đước...............................................................................................25
Hình 1.2. Cây đước................................................................................................25
Hình 1.3. Trái mắm..............................................................................................26
Hình 1.4. Cây mắm...............................................................................................26.
Hình 1.5. Cây bần................................................................................................. 27
Hình 1.6. Hoa Bần..................................................................................................27
Hình 1.7. Trái Bần.................................................................................................28
Hình 1.8. Cây Vẹt...................................................................................................28
Hình 1.9. Trái vẹt...................................................................................................28
Hình 1.10. Cây sam Biển.......................................................................................29
Hình 1.11. Cây rau muống biển............................................................................29
Hình 1.12. Cây giá..................................................................................................30
Hình 1.13. Cây cóc vàng........................................................................................31
Hình 1.14. Hoa cây cóc vàng.................................................................................31
Hình 1.15: Cây tra.................................................................................................31
Hình 1.16: Cây ráng..............................................................................................32
Hình 1.17 : Sơ đồ thể hiện diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam.....................35
Hình 1.18. Bản đồ xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam...............................38
Hình 2.2. Lập ô tiêu chuẩn....................................................................................44
Hình 3.1. Sơ đồ trắc ngang địa điểm nghiên cứu tại thôn 4 – xã Tam Hải........52
Hình 3.2. Sơ đồ trắc ngang địa điểm nghiên cứu tại thôn 4 – xã Tam Hải........53
Hình 3.3. Sơ đồ Venn về mối quan hệ hiện tại giữa các tổ chức.........................55
Hình 3.4: Sơ đồ Venn mong muốn.......................................................................56
Hình 3.5. Phá rừng ngập mặn làm đầm nuôi tôm...............................................58
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Khung tiến trình nghiên cứu..............................................................43
Sơ đồ 3.1. Cây vấn đề về diện tích RNM tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành,
tỉnh Quảng Nam....................................................................................................57
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đặc biệt mà Việt Nam là một trong những
quốc gia được thiên nhiên ban tặng. Rừng ngập mặn chỉ có ở các nước nhiệt đới, á
nhiệt đới và có vai trò bảo vệ môi trường và con người.
Ở nước ta với bờ biển dài 3620km đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế biển và cho sự phát triển của rừng ngập mặn, với việc hình thành nhiều bãi bồi
đã làm cho diện tích rừng ngập mặn tăng lên một cách đáng kể tạo nên sự phong phú
hơn về số lượng loài và thành phần cây ngập mặn. Rừng ngập mặn có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ môi trường sống cho các loài động thực vật và cung cấp nguồn
thức ăn cho con người, bên cạnh đó rừng ngập mặn có vai trò chắn sóng, chống cát
bay và điều hòa không khí và cũng là nhân tố chống lại biến đổi khí hậu.
Hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế với tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày
càng mạnh, cùng với tốc độ gia tăng dân số nên con người đã khai thác và sử dụng
rừng ngập mặn vào nhiều mục đích khác nhau làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu
hẹp và thành phần các loài cây ngập mặn bị suy giảm. Gần đây vấn đề nuôi tôm của
người dân đang gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng ô nhiễm môi trường quanh các hồ
nuôi tôm và tình trạng dịch bệnh của tôm, nguyên nhân là do rừng ngập mặn đã bị khai
thác nên không còn có chức năng bảo vệ môi trường sống, hơn nữa giữa các cộng
đồng nuôi tôm đang có sự mâu thuẫn rất lớn nên vấn đề nuôi tôm chưa đạt hiệu quả.
Xã tam Hải là một trong những xã có diện tích rừng ngập mặn lớn của huyện
Núi Thành. Do đó vai trò của rừng ngập mặn đối với môi trường và con người là rất
lớn. Tuy nhiên thời gian gần đây do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã làm diện
tích rừng ngập mặn tãi xã Tam Hải suy giảm một cách nhanh chóng. Vì vậy đã làm
cho vai trò của rừng ngập mặn bị suy giảm một cách đáng kể. Trong khi đó việc tìm
kiếm giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả rừng ngập mặn tại địa phương đang được
các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân địa phương quan tâm.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn trên chúng tôi tiến hành chọn đề tài "Nghiên cứu
thực trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam và
đề xuất giải pháp quản lý "nhằm đánh giá thực trạng về diện tích, thành phần loài, sự
phân bố và chính sách quản lý RNM tại địa phương để làm cơ sở đề xuất các giải pháp
quản lý và khai thác, sử dụng RNM một cách hiệu quả.
CHƯƠNG1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tổng quan về rừng ngập mặn
* Khái niệm về rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái quan trọng có năng suất cao ở vùng cửa
sông ven biển nhiệt đới nhưng rất nhạy cảm với những tác động của con người và
thiên nhiên [1].
1.2. Sự phân bố của rừng ngập mặn
Sự sinh trưởng và phát triển của RNM đều chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố tự
nhiên, nhưng ở một khu vực nào đó thì RNM có thể chịu sự tác động của nhiều nhân
tố hoặc có thể chịu ảnh hưởng của một vài nhân tố như nhiệt độ, lượng mưa, chế độ
thủy triều…. Những nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phân bố
RNM. Bên cạnh đó RNM chịu sự ảnh hưởng bởi các môi trường đó là môi trừờng
không khí, môi trường nước và môi trường đất. Sau đây ta có thể dẫn chứng về sự
phân bố RNM chịu sự tác động của môi trường bên ngoài.
RNM phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận xích đạo nên đối với môi trường
không khí nhiệt độ là yếu tố đặc trưng, ở những nơi có biên độ nhiệt thích hợp và ít
dao động, cây ngập mặn có điều kiện sinh trưởng và phát triển tốt cho nên hạt giống
khi phát tán có điều kiện nảy mầm ở mức tối ưu nhất, ngược lại ở những nơi có biên
độ dao động nhiệt lớn thì quá trình sinh trưởng, phát triển sẽ diễn ra chậm cho nên
cũng ảnh hưởng tới sự phân bố của RNM.
Đối với môi trường nước là một môi trường cung cấp cho cây ngập mặn những
chất dinh dưỡng cần thiết để các loài cây ngập mặn có điều kiện sinh trưởng và phát
triển tốt. Trong môi trường này thì lượng mưa đóng vai trò quan trọng trong việc cân
bằng và duy trì độ mặn để hạt giống các loài cây ngập mặn ở những khu vực khác có
điều kiện cư trú và nảy mầm.
Với môi trường đất trong một quần xã RNM phụ thuộc vào nhiều yếu tố địa hình
và địa mạo. Sự thay đổi mực nước biển hoặc quá trình xói mòn, sạc lở có thể tác động
trực tiếp đến sự phân bố của RNM. Các quần xã RNM phát triển tốt nhất đối với
những bãi bồi có đảo che chắn sẽ tạo điều kiện cho cây ngập mặn phát triển tốt. Nhìn
chung, RNM chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, vì vậy để hiểu rõ sự phân bố RNM
chúng ta cần quan tâm đến những nhân tố ảnh hưởng sau đây:
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố RNM
Các cây ngập mặn sống ở vùng chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền. Tác
động các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sự tồn tại và phân bố của chúng. Tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa có ý kiến thống nhất về vai trò, mức độ tác động của từng
nguyên tố. Một khó khăn lớn thường gặp là các loài cây ngập mặn có biên độ thích
nghi rất rộng với khí hậu, đất, nước, độ mặn. Do đó khi dựa vào một khu phân bố cụ
thể nào đó để nhận định về tác động của môi trường, có thể không áp dụng được ở
những vùng khác hoặc không thể suy ra tính chất chung cho thảm thực vật này.
1.2.1.1. Nhiệt độ không khí
Với nhiệt độ tác động lên cả hai quá trình quang hợp và hô hấp, điều chỉnh phần
lớn quá trình trao đổi chất và năng lượng nội tại trong cơ thể thực vật. Tác động quan
trọng nhất của nó là có thể điều chỉnh quá trình tiết muối ở lá và hô hấp ở rễ. Nhiệt độ
tác động lên sự phân bố loài và đặc biệt thềm nhiệt độ mà ở đó chồi non xuất hiện [2].
Các loài cây ngập mặn phong phú nhất và kích thước lớn nhất ở các vùng xích
đạo và nhiệt đới ẩm, cận xích đạo là những nơi có nhiệt độ không khí cao và biên độ
hẹp, nhiệt độ thích hợp cho hoạt động sinh lý ở cây ngập mặn là 25 – 28 0C nếu nhiệt
độ có sự thay đổi trong môi trường cao quá hoặc thấp quá cũng gây bất lợi cho quá
trình phát triển của RNM.[1]
Dựa trên sự phân bố về loài thì RNM thuộc nhóm nhiệt đới và cận xích đạo số
loài nằm sâu xuống phía nam hoặc lên phía bắc của vùng cận ôn đới. Thực chất có rất
ít số liệu nói về tác động của nhiệt lên sự sinh trưởng và phát triển của chồi. Các
nghiên cứu thường chủ yếu đề cập là sự tăng trưởng của lá. Khi nghiên cứu sự tăng
trưởng của lá mới ra hàng tháng của chín loài cây ngập mặn ở Glastone ( vĩ độ 24 0
nam) Saenger (1987) cho thấy mối quan hệ khá rõ giữa tăng trưởng và nhiệt độ
không khí.
Nhiệt độ không khí có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, số lượng loài cũng như
ảnh hưởng đến sự phân bố của RNM. Nhiệt độ thích hợp cho hoạt động sinh lý của
lá các loài cây ngập mặn là 25 - 28 0 như ở Nam bộ. Số loài cây ngập mặn ở miền
Bắc Việt Nam ít hơn và có kích thước cây bé hơn ở miền Nam vì chịu ảnh hưởng của
nhiệt độ thấp trong mùa đông và nhiệt độ cao vào mùa hè (30 - 340).[1]
Từ những đánh giá trên ta có thể nhận thấy rằng nhiệt độ đóng một vai trò quan
trọng đối với sự phân bố của RNM vì vậy ở những khu vực nào biên độ nhiệt dao
động hẹp sẽ là điều kiện để RNM có điều kiện sinh trưởng và phát triển.
1.2.1.2. Lượng mưa
Tuy nhiên, cây ngập có mặt ở vùng khí hậu ẩm uớt cũng như ở vùng khô hạn
nhưng sự phân bố tối ưu của các loài cây ở vùng xích đạo ẩm như Trung Mỹ,
Malaysia, các quần đảo Indonesia. Ở bán cầu bắc CNM phát triển tốt ở những vùng
mà lượng mưa hằng năm từ 1800 – 3.000mm (Aksornkoae, (1993) còn ở vùng nhiệt
đới, RNM phát triển ở nơi có mưa nhiều ở các nước như là Thái Lan, Australia và
Việt Nam, RNM phát triển mạnh ở những nơi có lượng mưa trong năm cao (1800 –
2500mm), vùng ít mưa, số lượng loài và kích thước của cây giảm.[1]
Ở ven biển Nam Bộ, trong nhiệt độ bình quân năm ở Cà Mau và Vũng Tàu
chênh lệch nhau rất ít (chỉ 0,7 0C), nhưng lượng mưa ở Cà Mau (2.360 mm/năm) lớn
hơn nhiều so với Vũng Tàu (1.375 mm/năm) nên RNM ở Cà Mau phong phú hơn và
kích thước cây cũng lớn hơn.
1.2.1.3. Chế độ gió
Gió ảnh huởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự hình thành RNM. Gió làm tăng
cuờng độ thoát hơi nuớc, giúp cho việc phát tán hạt và cây giống, làm thay đổi lực
dòng triều và dòng chảy ven bờ, vận chuyển phù sa, trầm tích tạo nên các bãi bồi mới
cho cây ngập mặn phát triển. Gío làm tăng lượng mưa ở RNM, thuận lợi cho RNM
phân bố rộng, có nhiều loài, đặc biệt các loài bì sinh. Gió mùa đông bắc về mùa đông
đêm theo không khí lạnh từ phía Bắc xuống Miền Nam Việt Nam, ảnh hưởng rất lớn
đến sự sinh trưởng và phân bố của thực vật nhiệt đới nói chung và RNM nói riêng.[1]
Ngoài ra, gió mạnh có tác dụng làm xáo trộn độ mặn mặt nước trên sông, khiến
cho quy luật phân bố theo chiều sâu bị biến đổi, ảnh đến sự phân bố các loài cây. Ví
dụ như: ở Bến Tre, các cây chịu mặn phân bố sâu vào các bãi lầy phía trong kênh
rạch, đẩy các loài nước lợ ra phía cửa sông hoặc sâu trong nội địa.
1.2.1.4. Ánh sáng
Ánh sáng ảnh hưởng đến sự quang hợp và các quá trình sinh lý khác của cây
như hô hấp, thoát hơi nước… Cường độ ánh sáng thích hợp cho cây ngập mặn sinh
trưởng và phát triển từ 3.000 – 3.800 kcal/m2/ ngày (Aksornkoae, 1993). Ở miền nam
Việt Nam CNM sinh trưởng tốt vì có cường độ ánh sáng từ 3.000 – 3.800mm Kcal/
m2/ ngày [1].
Tuy nhiên về mùa khô, ánh sáng mạnh là nhân tố hạn chế sự sinh trưởng của
cây ngập mặn vì làm tăng nhiệt độ không khí, đất, nước, nước bốc hơi nhiều khi triều
xuống khiến cho đất và cây vốn thiếu nước ngọt lại còn thiếu thêm .
1.2.1.5. Mây
Mây có liên quan đến lượng mưa. Mây dày sẽ giảm cường độ ánh sáng, nhiệt độ
không khí và đất, giữ độ ẩm cao nên hàm lượng muối trong đất không tăng, cây giảm
thoát hơi nước, kéo theo sự hạ thấp lượng muối thừa xâm nhập vào cơ thể.[2]
1.2.2. Tác động của các yếu tố thuỷ văn
1.2.2.1. Thủy triều
Thuỷ triều là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phân bố và sinh trưởng của
RNM, vì không những tác động trực tiếp lên thực vật do mức độ và thời gian ngập,
mà còn ảnh hưởng nhiều yếu tố khác như kết cấu, độ mặn của đất, sự bốc hơi nước,
các sinh vật khác trong rừng.
Nghiên cứu những đặc điểm của thuỷ triều liên quan đến sự phân bố và phát
triển của RNM việt Nam và một số nước Đông Nam Á, Phan Nguyên Hồng (1991)
có nhận xét: Khi điều kiện khí hậu và đất không có sự khác nhau lớn, thì vùng có chế
độ bán nhật triều cây sinh trưởng tốt hơn vùng có chế độ nhật triều.
Biên độ triều ảnh hưởng rõ rệt ảnh hưởng rõ rệt đến sự phân bố của cây ngập
mặn. Các lưu vực sông có biên độ triều thấp như ở miền trung trung bộ và tây bắc bán
đảo Cà Mau (0,5-1m) khả năng vận chuyển trầm tích và nguồn giống kém, do đó
RNM phân bố trong một pham vi rất hẹp. Chỉ ở những nơi có biên độ triều cao trung
bình (2-3m), địa hình phẳng thì cây ngập mặn phân bố rộng và sâu vào đất liền, ví dụ ở
lưu vực sông Cửu Long và phía đông Cà Mau.[5]
Các dòng triều chịu tác đông của gió, nhất là gió mùa và lưu lượng sông vào mùa
mưa. Mặt khác dòng triều chịu tác động đến một số yếu tố khác nhau như nhiệt độ đất,
độ mặn, sự vận chuyển trầm tích và dinh dưỡng ở trong và ngoài vùng RNM, ngoài ra
dòng triều cũng là một nhân tố quan trọng trong việc phát tán hạt và cây con.
1.2.2.2. Dòng nước đại dương
Các dòng nước đại dương có tác dụng lớn trong việc phân bố RNM trên thế giới,
như các nước từ Ấn Độ Dương và từ Biển Đông. Nhờ sự vận chuyển của các dòng
nước này mà hệ thực vật ngập mặn ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á - Thái
Bình Dương có thành phần gần giống nhau. Dòng chảy ven bờ về mùa mưa đưa nguồn
giống lên phía Bắc, đến vĩ tuyến 12 thì chuyển hướng ra khơi và đi lên phía đảo Hải
Nam, do đó một số loài không phân bố ở phía bắc được như: Đước
(Rhizophoraapiculata), đưng (R.mucronata), vẹt tách (Bruguiera pariflora)... Trong khi
chúng có thể phân bố ở đảo Hải Nam
1.2.2.3. Dòng nước ngọt
Dòng nước ngọt do các sông, rạch đem ra RNM ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
của các sinh vật sống ở đó, vì nước đã đưa các chất phù sa cần thiết cho chúng. Mặc
khác, nước ngọt làm loãng độ mặn của nước biển, phù hợp với sự phát triển của nhiều
loài cây trong từng giai đoạn sống nhất định.Khi dòng chảy từ sông vào RNM bị giảm
hoặc không còn nữa, thì một số loài cây ngập mặn sẽ sống còi cọc hoặc chết dần,
nhiều loài động vật trong vùng RNM bị chết hoặc bỏ đi nơi khác.[2]
Độ mặn là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng, tỷ lệ sống và phân bố RNM.
Theo nghiên cứu của ông Phan Nguyên Hồng, (1991) chia các loài cây ngập mặn
Việt Nam thành 2 loại: có biên độ muối rộng và biên độ muối hẹp.
Loại có biên độ muối rộng gồm:
- Nhóm chịu độ mặn cao (10 – 35 0/00 hoặc hơn) gồm một số loài mắm, đâng,
đưng, dà quánh, vẹt trụ…
- Nhóm chịu độ mặn cao trung bình (15 – 30 0/00) có đước, vẹt, tách, vẹt dù, sú…
- Nhóm chịu độ mặn tương đối thấp (7 – 20 0/00) có trang, vẹt, tách, ô rô, quao
nước, cốc kèn…
Loại có biên độ muối hẹp gồm:
- Nhóm có cây thân gỗ mọng nước, chịu độ mặn cao (20 – 33 0/00) có bần trắng,
bấn ổi.
- Nhóm cây thảo mọng nước chịu mặn cao ( 25 – 35 0/00 ) hoặc hơi nước muốn
biển, sam biển, hến hải nam.
- Nhóm cây nước lợ điển hình (có độ mặn 5 – 15 0/00 hoặc thấp hơn) gồm dừa
nước, bần chua, mái dầm…
- Nhóm cây chịu nước lợ sống trên đất cạn, độ mặn thấp (1 – 10 0/00) từ nội địa
phát tán ra vùng đất ẩm ven sông nước lợ.
1.3. Thể nền
Các loài cây ngập mặn sống trên thể nền ngập nước định kỳ khác nhau như sét,
bùn, cát thô lẫn sỏi đá, bùn ở cửa sông bờ biển, đất than bùn, san hô. Tuy nhiên RNM
phát triển rộng nhất trên thể nền bùn sét có mùn bã hữu cơ. Loại đất này thường gặp
dọc các bờ biển, tam giác châu thổ, các cửa sông hình phễu và vịnh kín sóng.
Sự phân bố các loài cây ngập mặn có liên quan rất nhiều đến hàm lưọng O2, SO2
,độ mặn của thể nền. nói chung môi trường còn thoáng khí cây ngập mặn sinh trưởng
tốt, nhưng một số loài cây có rễ thở (như loài mắm, bần)vẫn có khả năng thích nghi
với môi trường yếm khí vừa phải.[2]
1.4. Địa hình
RNM phát triển rộng ở vùng bờ biển nông, ít sóng, gió như trong các vịnh các
cửa sông hình phểu, sau các mũi đất, eo biển hẹp hoặc dọc bờ biển có các đảo che
chắn ở ngoài (bờ biển Quảng Ninh). Vùng bờ biển Miền Nam Việt Nam mặc dù không
có đảo nổi nhưng nhờ có vỉa san hô ngầm nằm dọc theo các thềm lục địa, làm yếu lực
của sóng, ít chịu ảnh hưởng của bão (trừ trường hợp khí hậu biến đổi bất thường như
năm 1997), nên RNM cũng phát triển.[1]
1.5. Tác động của các nhân tố sinh học
Thành phần sinh học trong các bãi lầy cửa sông, ven biển đã góp phần đáng kể
trong việc hình thành và phân bố RNM.
Nhờ những đặc điểm thích nghi với độ ngập triều sâu, nồng độ muối cao, chống
đỡ tốt với tác động của sóng gió, thủy triều nên các thực vật tiên phong như cỏ biển,
vài loài mắm, bần đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho đất ổn định
để cho các quần xã cây ngập mặn đến sau phát triển.
Vi sinh vật như nấm, vi khuẩn có ý nghĩa to lớn trong việc phân hủy các chất
hữu cơ trong phù sa, trầm tích thành hợp chất khoáng cho cây. Mặc khác, chúng phân
hủy các chất rơi rụng của cây ngập mặn, tạo ra những sản phẩm có lượng đạm cao,
thức ăn cho các động vật vùng triều.
Tuy nhiên một số vi sinh vật đã sử dụng oxy trong quá trình hô hấp làm lượng
oxy trong đất bùn vốn ít ỏi đã bị giảm sút và đất trở nên yếm khí.
Lượng oxy trong đất đã bị các vi sinh vật hô hấp bằng oxy sữ dụng hết, các vi
sinh vật sử dụng nitơ ở dạng nitrat vì nitrit bắt đầu hoạt động mạnh. Chúng chuyển
nitrat thành nitrit và cuối cùng có thể biến đổi thành amon. Đó là dạng đạm rất khó sữ
dụng và độc đối với một số loài cây ngập mặn.
Khi nitrat đã bị chuyển hóa hết sang dạng amon, các vi sinh vật khử sắt hoạt
động thay thế dần các vi sinh vật khử nitơ. Chúng khử oxy sắt thành các dạng sắt khử
rất dễ hòa tan. Khi sắt còn ở dạng oxy hóa chúng kết hợp với photpho, tanin và các
hợp chất hữu cơ khác do rễ tiết ra nên rất dễ hòa tan. Do vậy photpho có nhiều trong
đất yếm khí hơn đất thoáng khí.
Tiếp sau hoạt động của các vi sinh vật khử sắt là hoạt động của vi sinh vật khử
mangan, và sau đó là vi sinh vật khử lưu huỳnh. Vi sinh vật khử lưu huỳnh sử dụng
sulphat như chất trao đổi điện tử trong quá trình hô hấp. Lưu huỳnh bị khử và chuyển
thành sulphuahidro, đó là một chất độc đối với cả động vật và thực vật.
Trong một số ít trường hợp tiếp theo hoạt động của các vi sinh vất khử metan.
Các vi sinh vật này khử cacbon thành khí metan-rất độc với sinh vật. Nhiều loài động
vật làm tổ trong RNM, rác rưởi từ tổ và phân của chúng được phân hủy thành nguồn
dinh dưỡng cho các cây ngập mặn, chúng còn có tác dụng tiêu diệt sâu bọ.
Ong Bướm và chim là những tác nhân quan trọng trong việc thụ phấn cho hoa
cây ngập mặn.
Một số loài động vật đào hang trong đất RNM và giữ nước ở đó đã làm tăng độ
ẩm của đất trong thời kỳ nước kém. Một số động vật là nguyên nhân hạn chế sự phát
triển hoặc tái sinh của cây ngập mặn vì chúng dùng các bộ phận của cây làm thức ăn,
hoặc bám vào cây con khiến chúng đỗ ngã.
Trong các nhân tố sinh thái thì khí hậu, thủy triều, độ mặn và đất đóng vai trò
quiyết định sự sinh trưởng và phân bố của thảm thực vật RNM. Các nhân tố khác góp
phần tích cực trong việc phát triển hay hạn chế của kiểu thảm thực vật này.
1.6. Sự phân bố của rừng ngập mặn trên thế giới và việt nam.
1.6.1 .Sự phân bố của rừng ngập mặn trên thế giới
Rừng ngập mặn (RNM) có vai trò rất to lớn trong việc đảm bảo cân bằng sinh
thái cho vùng đất ngập nước ven biển đồng thời bảo vệ sự ổn định của đới bờ biển, vì
vậy việc bảo tồn và phát triển RNM vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu cấp thiết nhất
trong thời gian biến đổi khí hậu lớn trên toàn cầu như hiện nay. Đối với nghiên cứu
(Phan Nguyên Hồng,(1987) RNM phân bố chủ yếu ở vùng xích đạo và nhiệt đới hai
bán cầu.
Theo ông Achim Steiner (1987) cho biết hiện có khoảng 150.000km2 RNM
được tìm thấy tại 123 nước trên thế giới. Khu vực tập trung RNM lớn nhất trên thế
giới là Indonesia chiếm 21%, Brazil có khoảng 9% và Úc là 7%. Tương tự một nghiên
cứu của Tomlinson (1986) phân chia quần xã cây ngập mặn làm hai nhóm có thành
phần loài cây ngập mặn khác nhau. Nhóm phía đông tương ứng với vùng Ấn Độ - Thái
Bình Dương với số loài đa dạng và phong phú với trên 40 loài. Nhóm phía tây gồm bờ
biển nhiệt đới Châu Phi, Châu Mỹ ở cả khu vực Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
Số loài cây ở đây chỉ ít bằng 1/5 ở phía Đông (Spaldings và cs, 1987). Các loài cây
chủ yếu là Đước đỏ (Rhizophora manggle), Mắm(Avicenia germinans. [7]
Tuy vậy theo một nghiên cứu của Hutechings và Seager (1987) cho rằng diện
tích rừng ngập mặn trên thế giới là 15.429.000 ha, trong đó 6.246.000 ha nằm ở Châu
Á nhiệt đới và Châu Đại Dương, 5.781.000 ha nằm ở vùng châu mỹ nhiệt đới và
3.402.000 ha thuộc châu phi. [13]
Trên phạm vi toàn cầu, Wash (1974) cho rằng sự phân bố địa lý của RNM chia
làm 2 khu vực chính là khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương bao gồm Nam Nhật Bản,
Philipin, Đông Nam Á, Ấn Độ, bờ biển Hồng Hải, Đông Phi và khu vực 2 là Tây Phi
và Châu Mỹ bao gồm bờ biển Châu Phi ở Đại Tây Dương, quần đảo Galapagos và
Châu Mỹ và khu vực Ấn Độ - Malasia được xem là trung tâm phân bố các loài cây
ngập mặn . Các vùng RNM phồn thịnh nhất ở Đông Nam Á bao gồm Malaysia,
Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. [2,14]
Sự phân bố RNM này được một số tác giả cho rằng khu vực giữa Malaysia và
Bắc Úc là trung tâm tiến hóa của khu hệ thực vật ngập mặn ( Ding Hou 1958), ở đây
có 30 loài cây gỗ và cây bụi thuộc 14 họ thực vật có hoa trong hệ thực vật rừng ngập
mặn.
Dựa vào việc tính toán trên bản đồ bằng công nghệ viễn thám (Spalding và cộng
sự ,(1997) lại thống kê thấy diện tích RNM các vùng trên thế giới là 181.077 km 2 và
được phân bố theo các vùng và dựa vào bản sau:`
Bảng 1.1. Diện tích RNM trên thế giới.
Diện tích RNM (km2)
Tỷ lệ (%)
Nam và Đông Nam Á
75.173
41,5
Austrailia
18.789
10,4
Châu Mỹ
49.096
27,1
27.999,5
15,5
Đông Phi &Trung Đông
10.024
5,5
Tổng cộng
181.077
100
Vùng
Tây Phi
(Ng(Nguồn: Spalding, Blasco, Field, 1997)
Dựa vào bảng 1.1 phân bố diện tích RNM trên thế giới ta nhận thấy diện tích
rừng ngập mặn lớn nhất là khu vực Nam và Đông Nam Á có diện tích lớn nhất với
75.173km2 chiếm tỷ lệ 41,5%, tiếp đến khu vực có diện tích lớn thứ hai là Châu Mỹ
với 49.096km2 chiếm 27,1%, nơi có diện tích RNM thấp nhất là khu vực Đông Phi và
Trung Đông chiếm 5,5%. [14]
Hiện nay, đã có nhiều chương trình khai thác bền vững rừng ngập mặn tại một số
quốc gia châu Á và châu Mỹ với nhiệm vụ khôi phục và mở rộng diện tích rừng ngập
mặn trên quy mô toàn thế giới. Tuy nhiên diện tích rừng ngập mặn đang bị thu hẹp dần
mỗi năm do quá trình khai thác quá mức của con người, vì vậy cần phải có chiến lược
hành động cụ thể nhằm nâng cao nhận thức của đại bộ phận dân cư vùng đới bờ trong
thời gian tới.
1.6.2. Sự phân bố của rừng ngập mặn ở Việt Nam
Nước ta có bờ biển kéo dài 3620 km với khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của cây ngập mặn. Hầu hết các loài cây
ngập mặn phân bố chủ yếu ở vùng ven biển và ở từng khu vực có những điểm đặc
trưng riêng về địa hình, địa mạo nên có sự sai khác nhau về số lượng, thành phần loài
cây ngập mặn. Nghiên cứu của Phan Nguyên Hồng (1987) cho thấy RNM ở Việt Nam
chia thành 4 khu bao gồm:
Khu vực 1: Ven biển Đông Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải
Phòng), ở khu vực này được chia làm 3 tiểu khu:
Tiểu khu 1: Bao gồm từ Móng Cái đến Cửa Ông, bờ biển dài khoảng 55km. Tiểu
khu này gồm lưu vực cửa sông Kalong, lưu vực Tiên Yên – Hà Cối và vùng ven bờ
cửa sông Tiên Yên – Ba Chẽ, hệ thực vật ở đây có quần thể Mắm biển, Đâng, Trang,
Vẹt dù, loài thứ yếu là Sú.
Tiểu khu 2: Từ Cửa Ông đến Cửa Lục ( dài khoảng 40km). Hệ thực vật gồm có
Đâng,Vẹt dù, Trang cao 2 – 3m, dưới quần xã này là cây bụi lùn như Sú, Mắm biển
cao trên dưới 1m. Nhìn chung ở tiểu khu này diện tích RNM còn lại là rất bé, khoảng
380 ha (Cự và cs, 1996)
Tiểu khu 3: Từ cửa lục đến mũi Đồ Sơn (dài khoảng 55km), Quần xã thực vật ở
nơi này có Quần xã Mắm trắng phân bố ở gần lưu vực sông Bình Hương, Quần xã
Đâng, Vẹt dù, Trang phân bố ở những nơi ngập triều trung bình, Quần xã Tra, Gía,
Vạng Hôi cư trú ở đất ngập triều cao. Những năm gần đây do các hoạt động khai
hoang lấn biển của quân khu 3 và người dân địa phương nên RNM đã thu hẹp dần.[1]
Khu vực 2: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến Lạch Trường (Thanh
Hóa), ở khu vực này được chia làm 2 tiểu khu.
Tiểu khu 1 : Từ Đồ Sơn đến của sông Văn Úc, đây là vùng chuyển tiếp giữa khu
vực 1 và khu vực 2 nên quần xã cây ngập mặn gồm những những loài ưa nước lợ,
trong đó ưu thế nhất là loài bần chua phân bố ở vùng cửa sông (Kiến Thụy), Ngoài ra
còn có các loài cây là Sú và ô rô cũng có số lượng phong phú.
Tiểu khu 2 : Từ của sông Văn Úc đến cửa Lạch Trường nằm trong khu vực bồi tụ
của hệ thống sông Hồng nên có bãi triều rộng, giàu phù sa và thích hợp cho sự phát
triển của cây ngập mặn, quần xã cây ngập mặn chủ yếu là Sú và ô rô, thỉnh thoảng có
xen lẫn ít Trang và Bần chua.
Khu vực 3: Ven biển miền Trung kéo dài từ Lạch Trường tới Vũng Tàu.
Khác với vùng ven biển Đồng bằng Bắc Bộ, phần lớn các sông ở Miền Trung
đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn nên ngắn và dốc khi vừa mới xuống đồng bằng, các
trắc diện thường nằm ngang trừ 2 sông là Sông Mã và sông Lam, các sông khác từ cửa
Nhượng và sông Sai(740 sông) trong đó 98,1% sông có L= 10 – 100k; 93% có F <=
500km2 (Tuấn, 1995). Lượng phù sa ít không đủ bồi lên những bãi lầy ven biển, nếu
có ít phù sa trôi ra ngoài cửa sông thì cũng bị sóng cuốn đi. Càng di về phía nam thì bờ
biển càng dốc, càng sâu và khúc khuỷu.
Trầm tích các bãi triều trong cửa sông các yếu tố dinh dưỡng thay đổi. Trầm tích
tần mặt có hàm lượng P cao, nhưng N thấp. Ở tầng sâu hàm lượng P giảm, hàm lượng
N tăng do có quá trình tích tụ mùn cây ngập mặn.
Mặc dầu lượng mưa lớn từ 1500mm tùy theo địa hình nhưng phân bố không đều,
trong thời kỳ có bão, mưa rất lớn có ngày 400 – 700mm và có khi kéo dài từ 2 – 4
ngày, do đó thường gây ra lũ lụt và nước biển dâng. [2]
Cũng như khu vực II khu vực này chiụ ảnh hưởng của gió mùa đông bắc (bảng
1.5). Trong 2 năm 1997, 1998 nhiều cơn bão liên tiếp ở miền nam nam Trung Bộ đã
gây nhiều thiệt hại to lớn về tài nguyên và sinh mạng con người[1]
Bảng 1.2. Thống kê số cơn bão đổ bộ vào ven biển khu vực III.
Ninh Thuận
đến
Thời kỳ
Thanh Hóa đến
Quảng Trị đến
(năm)
Quảng Bình
Khánh Hòa
1884 - 1990
6
5
10
1901 - 1960
44
42
59
1961 - 1980
10
13
12
1971 - 1980
14
14
13
1981 - 1990
14
10
17
Bình Thuận
(Nguồn : Vũ Minh Cát, 1995)
Dựa vào bảng 1.2 ta có thể nhận định rằng từ năm số cơn bão đổ bộ vào vùng
ven biển miền trung với cường độ tăng dần qua từng thời kỳ. Trong đó thời kỳ năm
1901 – 1960 có số cơn bão đổ bộ vào nhiều nhất và tập trụng chủ yếu ở vùng ven biển
Ninh thuận – Bình thuận còn thời kỳ năm 1884 – 1990 có số cơn bão đổ bộ vào ít nhất.
Như vậy ta có thể nhận thấy qua từng năm khí hậu có sự biến đổi rất lớn do vậy chúng
ta cần có những giải pháp cụ thể nhằm bảo vệ cuộc sống của người dân đặc biệt là
những người dân vùng biển.
Với tốc độ gió lớn về mùa hè: gió đông – đông nam 3,1 – 5m/s. Mùa đông gió
bắc và đông bắc thổi thẳng góc với bờ biển( phía nam Nghệ Tĩnh, Quảng Bình), tốc độ
gió lớn 3,1- 7m/s, dồn cát từ biển lên tạo ra những đụn cát, doi cát rất lớn, dài hàng
chục kilomét.
Cùng với địa hình trống trải sóng lớn, bờ dốc nên nói chung không có RNM dọc
bờ biển, hẹp phía tây bán đảo Cam Ranh, bán đảo Quy Nhơn. Chỉ ở phía trong các cửa
sông, cây ngập mặn mọc tự nhiên, thường phân bố không đều, do ảnh hưởng của địa
hình và tác động của cát bay.
Dựa vào đặc điểm địa mạo, thủy văn, có thể chia bờ biển Trung bộ làm 3 tiểu
khu:
Tiểu khu 1 : Từ Lạch Trường đến Mũi Ròn.
Đối với địa hình tiểu khu này bờ biển gồm các cung lõm bồi tụ ngắn xen kẽ với
các mũi nhỏ hoặc các đoạn bờ đá dốc chịu xâm thực của xói mòn do tác động của
sóng. Ở các cung lõm bồi tụ, bãi triều thưỡng hẹp và dốc (1 – 10 0 ), rộng trung bình từ
30 – 100m. Động lực chính hình thành nên các bãi biễn là sóng và trầm tích gồm cả di
chuyển ngang từ đáy và di chuyển dọc bờ.
Mạng lưới sông ngòi ở tiểu khu này khá dày (1km/km 2), các sông ngắn và dốc.
lưu lượng dòng chảy vào mùa mưa gấp 3 – 4 lần mùa khô. Do những đặc điểm trên
nên lượng nước tập trung vào thời kỳ bão nên xảy ra lũ lụt. Ở Bắc Trung Bộ các của
sông có dạng phẳng và đáy lõm, có cồn cát chắn ngang của sông nên lượng phù sa ít.
Trầm tích bãi triều ở vùng cửa sông ở tầng mặt ( 0 – 50cm) có hàm lượng P cao,
tầng sâu thấp, còn N thì ngược lại. Ở tầng mặt trầm tích tạo thành trong điều kiện
thoáng khí nghèo mùn bã hữu cơ, nguyên nhân là do RNM bị tàng phá hết nên hàm
lượng N và P thấp giống như khu vực 2.
Đối với chế độ thủy triều ở tiểu khu này là bán nhật triều không đều, có 8 – 10
ngày bán nhật triều trong tháng. Biên độ và độ lớn của triều giảm dần từ Bắc đến
Nam(3,5 – 2m). Nước triều thường lớn vào các tháng 7, 9, 12. Dòng triều lên 34 –
37cm/s mạnh hơn dòng triều xuống ( 22 – 26cm/s), (Thụy, 1984).
Độ mặn ở đây vào mùa khô có độ mặn trung bình là 28 – 30 % , mùa mưa 15 –
23,5 %; ở các cửa sông lớn, độ mặn về mùa mưa thấp hơn 1 – 10%, còn các cửa sông
nhỏ nước mặn và sâu hơn chính vì vậy có ảnh hưởng rất lớn đến sự phân, bố của cây
ngập mặn.
Mặc dầu tiểu khu này chịu ảnh hưởng của gió tây nam khô nóng nhất là vào
tháng 7 những lượng mưa khá lớn trung bình là 2.290mm/ năm. Lượng mưa cao nhất
là ở Kỳ Anh – Hà Tĩnh (2.928mm/năm), sự cách biệt giữa mùa khô và mùa mưa
không lớn nên cây ngập mặn vẫn sinh trưởng bình thường.
Đối với quần xã RNM ở tiểu khu này, do nằm sát các cửa sông lớn như sông Mã,
sông Lam nên thảm thực vật nước lợ thường phân bố ở phía trong cách xa cửa sông
khoảng 100 – 300m. Các loài cây ngập mặn cũng phân bố theo các bãi ngập triều, trên
các bãi triều cao có Ráng, Vạn hôi, Mướp sát và giá, còn ở những bãi triều thấp chủ
yếu là nơi sinh sống của bần chua.
Tiểu khu 2 : Từ mũi Ròn đến mũi đèo Hải Vân.
Một đặc điểm nổi bật nhất của địa hình bờ biển là đường bờ thẳng kéo dài với
các cồn cát cao chạy sát dọc bờ. Bãi biển dốc, hẹp, chỉ rộng từ vài chục đến vài trăm
mét. Các mũi nhô (mũi ròn, mũi Độc, mũi Lai, mũi Chân Mây) đóng vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển địa hình bờ.
Hệ thống sông ngòi ở đây ngắn và dốc, lượng phù sa ít và phải chảy ngoằn
ngoèo qua các cồn cát trước khi đổ ra biển.
Chế độ thủy triều ở phần Bắc Quảng Bình có chế độ nhật triều không đều, độ lớn
của triều trung bình 1,2 – 1,5m. Từ nam Quảng Bình đến cửa Thuận An là bán nhật
triều không đều, độ lớn của triều thấp nhất trên toàn dải bờ biển Việt Nam: 0,4 – 0,5m.
Vào phía nam chế độ thủy triều chuyển sang bán nhật triều không đều, độ lớn trung
bình kỳ nước cường 0,8m.
Đối với độ mặn ở tiểu khu này là do sông ít, lưu lượng kém, nên độ mặn ven bờ
thường cao (30%). Ở các cửa sông độ mặn mùa khô 24 – 25% mùa mưa 11 -18%.
Trong đó các đầm, phá độ mặn về mùa mưa xuống rất thấp (1 – 0,5%) do hứng nước
các cửa sông trước khi đổ ra biển.
Chế độ nhiệt ở đây tương đối cao, nhiệt độ trung bình năm ở cửa Tùng là 28,2 0C,
nhiệt độ thấp nhất là 8 – 10 0C, còn nhiệt độ nước biển thấp nhất là 16 – 16,4 0C. Tuy
nhiên tiểu khu này tổng lượng bức xạ rất lớn là 110,544 kcalo/cm 3 năm và lượng bốc
hơi hằng năm cao do ảnh hưởng của gió Lào.
Lượng mưa ở đây cũng khá lớn trên 2500mm/năm, riêng Quảng Bình thấp hơn
là 2.127mm/ năm. Mùa mưa trùng với mùa bão nên mưa tập trung vào một số ngày
với lượng mưa cao 500 – 600mm, gây ra lũ lụt.
Đối với chế độ gió hoạt động là gió mùa tây nam khô nóng với tốc độ cao 10m/s
có tác động mạnh mẽ tới sự sinh trưởng và phát triển của thực vật vì gây ra ở nhiệt độ
cao (38 – 400C).
Hằng năm ở khu vực này phải chịu ảnh hưởng của các cơn bão, thường có tới 30
ngày/ năm, có đợt kéo dài 8 – 10 ngày. Do bão và gió mùa Đông Bắc gây ra sóng lớn,
bờ biển dốc, bãi triều ven biễn hẹp, nên không có RNM phân bố phía ngoài cửa sông.
Quần xã RNM ở đây với các cồn cát cao chạy sát dọc bờ nên đóng vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển và định hình bờ, do vậy quần xã cây ngập mặn ở đây
phát triển tốt có một số loài chiếm ưu thế như : đâng, vẹt dù, vẹt khang. [2]
Tiểu khu 3 : Từ mũi đèo Hải Vân đến mũi Vũng Tàu, do đặc điểm địa hình
không có khả năng lấn ra biển nên quần xã cây ngập mặn chủ yếu là Đưng, xu ổi, vẹt
dù, vẹt khang [6].
Do đặc điểm của địa hình đó làm cho đất liền không có khả năng lấn ra biển như
các khu vực khác chỉ có phía Tây các đảo gần bờ, được lăng sống và lắng đọng cho
đảo dính vào đất liền (như bán đảo Sơn Trà, khối mũi Ba Lang An, bán đảo Cam
Ranh, bán đảo Quy Nhơn). Trên các các dải cát pha bùn phía Tây lác đác có một số
giải ngập mặn.
Ở đây có nhiều cồn cát nên các dòng sông nhỏ phải tập hợp lại thành từng nhóm
mới đủ sức vượt qua các cồn cát ra biển. Ở các cửa sông lớn có nhiều cồn cát ngầm
dạng đảo của sông, nhưng vì địa hình trống trải, chịu sự tác động mạnh của gió bão
nên cây ngập mặn không tái định cư được.
Dọc bờ biển là các cồn cát che phủ một số đầm hồ hẹp, nguyên là di tích của các
vùng biển cũ, trong đó còn có một số đầm thông với các lạch triều hẹp như Đầm Thị
Nại, đầm Ông Tong, đầm Ô Lang… đây cũng là nơi cư trú của cây ngập mặn.
Từ đèo Hải Vân trở vào, khí hậu có các đặc điển khác với các khu vực phía Bắc
đèo Hải Vân trở ra. Nhiệt độ bình quân năm ở bán đảo Sơn là 25,7 0C, nhiệt độ bình
quân tháng thấp nhất (tháng 1) là 21,7 0C. Như vậy là nhiệt độ ảnh hưởng không đáng
kể đến sự phân bố của RNM.
Lượng mưa phân bố không đều, từ Nha Trang trở ra lượng mưa bình quân 2.000
mm/năm, lượng mưa cao nhất đạt 2.530 mm (bảng 1.3), lượng mưa năm thấp nhất là
670 mm ở Nha Trang. Từ Nha Trang trở vào Phan Rang, Phan Thiết lượng mưa rất
thấp , bình quân năm trên 1.000 mm, thấp tuyệt đối 272 mm và cao tuyệt đối 1169 mm
(Barry và cộng sự, 1961). Sông ngòi ở tiểu khu này ngắn và dốc, lưu lượng kém như
sông Trà Khúc có tổng lượng nước 5,1 km3/năm (Phổ, 1983). Càng vào phía Nam các
sông còn hẹp như sông Cái, sông Lũy, sông Cầu.
Thủy triều từ Đà Nẵng đến Quảng Nam là bán nhật triều không đều, trong tháng
có 20 ngày bán nhật triều, độ lớn trung bình kỳ nước là 0,8 – 1,2m, tăng dần về phía
[6]
Do địa hình không thuận lợi cho nên nói chung vùng ven biển tiểu khu 3 không
có RNM, chỉ ở phía Tây các bán đảo như: Cam Ranh, Quy Nhơn và vài bờ biển có đảo
che chắn như: Ninh Hòa (Khánh Hòa) do kín sóng nên cây ngập mặn có thể định cư
thành một thành vùng hẹp ở ven mép bán đảo và ven biển. Trong cửa sông cũng có các
rải RNM nhưng do dân địa phương khai thác mạnh nên cũng còn dạng cây bụi [1]
Bảng 1.3. Lượng mưa bình quân năm (tiểu khu 3)
Trạm
thán
g
Đà
Nẵng
Tam
I
Kỳ
Quảng
Ngãi
Quy
Nhơn
Tuy
Hòa
Nha
Trang
Phan
Thiết
96,2
72,9
131,1
64,6
59,6
46,9
1,2
II
33,0
24,8
52,5
32,2
21,3
17,4
0,7
III
22,4
8,0
37,5
24,0
21,1
32,4
4,7
VI
26,9
39,5
37,6
32,4
38,1
33,1
32,0
V
62,6
94,5
66,3
63,4
83,9
55,3
130,1
VI
87,1
181,8
89,8
61,5
49,1
48,8
148,1
VII
85,6
67,9
75,5
54,6
42,7
43,0
224,3
VIII
130,0
114,3
121,8
58,6
51,7
50,7
175,3
IX
349,7
263,8
282,4
245,1
210,6
167,2
190,2
X
612,8
693,1
586,7
463,3
499,0
323,5
169,7
XI
366,2
659,3
541,5
422,7
413,2
383,6
50,2
XII
199,0
311,5
127,8
169,6
151,3
167,0
20,7
TS
2044,5
2531,5
2290,5
1692,3
1591,6
1358,9
1152.2
192744
Thời
gian
quan
trắc
1931-44
1947-85
1979-85
1907-44
1933-44
1907-44
1958-85
1947-85
1947-85
197885
(Nguồn: Chương trình cấp nhà nước 42A (1985 – 1990)
Các quần xã cây ngập. dựa vào kết quả nghiên cứu của J. Barry, L. C. Kiệt, V. V.
Cường (1961) ta thấy các kiểu quần xã đước ở phía tây bán đảo Cam Ranh.
-
Quần xã đưng tiên phong trên đất thấp.
-
Quần xã đưng và đước đôi trên đất chặt hơn các loại cây xu ổi, vẹt khang.
-
Quần xã mắm quăn và mắm lưỡi dòng với các loài côi, cóc biển, dà vôi.
Trên đất ít ngập triều có quần xã cây gỗ như ở các khu vực khác với các
loài giá, xu, tra, vạng hôi, mớp sát..
- Xem thêm -