MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chƣơng I: Môi trƣờng văn hoá và tác động của nó đối với hoạt động
kinh doanh quốc tế
I. Khái quát về môi trƣờng kinh doanh quốc tế và sự cần thiết phải nghiên
cứu
1. Khái quát về môi trƣờng kinh doanh quốc tế
2. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trƣờng kinh doanh
II. Khái quát môi trƣờng văn hoá
1. Khái niệm
2. Những đặc tính văn hoá cần nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu môi trƣờng văn hoá
III. Tác động của môi trƣờng văn hoá đối với hoạt động kinh doanh quốc tế
Chƣơng II: Môi trƣờng văn hoá Mỹ
I. Sơ lƣợc về lịch sử và nguồn gốc con ngƣời nƣớc Mỹ
II. Nền văn hoá Mỹ
1. Ngôn ngữ và bản săc dân tộc
2. Tôn giáo
3. Tính cách, lối sống và suy nghĩ của con ngƣời Mỹ
4. Quan niệm về kinh tế - xã hội của con ngƣời Mỹ
Chƣơng III: Đôi điều cần lƣu ý khi tiếp cận với các doanh nhân Mỹ
I. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng, phƣơng thức giao dịch kinh doanh của các
doanh nhân Mỹ
II. Đạo đức và văn hoá doanh nhân Mỹ
1. Quan niệm về đạo đức trong kinh doanh
2. Văn hoá doanh nghiệp Mỹ qua suy nghĩ của doanh nhân Mỹ
III. Quan hệ giao tiếp và đàm phán trong kinh doanh
1. Vấn đề giao tiếp và đối thoại
2. Danh thiếp và sự tôn trọng cấp bậc trong kinh doanh
3. Thoả thuận, mặc cả và đàm phán
4. Làm việc với phụ nữ
5. Kinh doanh ở cộng đồng ngƣời thiểu số
Kết luận
Tài liệu tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
Sau chiến tranh lạnh, tình hình thế giới diễn biến phức tạp đầy biến động.
Trong tình hình đó nổi lên những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế: Hoà
bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển, ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc
của các quốc gia và dân tộc trên thế giới; xu thế liên kết khu vực, liên kết quốc
tế về kinh tế, thƣơng mại, chính trị ngày càng tăng, ý thức độc lập tự chủ, ý thức
về chủ quyền và bản sắc dân tộc ngày càng đƣợc nâng cao, nổi bật là xu thế vừa
hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa các chế độ chính trị xã
hội khác nhau.
Trƣớc xu thế nhƣ vậy, Tổng thống Bill - Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam (11/7/1995) là phù hợp với xu thế phát triển của thế
giới hiện nay. Đó là một mốc quan trọng, chấm dứt 50 năm quan hệ bất bình
thƣờng, mở ra một trang sử mới trong quan hệ hai nƣớc.
Xuất phát từ nhận thức trên, việc nghiên cứu quan hệ Việt - Mỹ là rất cần
thiết vì đây là một vấn đề có ý nghĩa chính trị, thời sự quan trọng đƣợc khu vực
và thế giới quan tâm nghiên cứu. Qua đó làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt
ra trong quan hệ giữa hai nƣớc, tiến tới đề xuất các kiến nghị, đóng góp vào
chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Mỹ.
Từ thực tiễn quan hệ Việt - Mỹ hơn 5 năm qua kể từ khi hai nƣớc bình
thƣớng hoá quan hệ ngoại giao cho thấy sự lựa chọn đề tài này là phù hợp và
cần thiết.
Thời gian 5 năm cũng mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình lâu dài còn
đang tiếp tục tiếp diễn trong tƣơng lai, nhiều vấn đề chƣa bộc lộ hết còn đang
tiềm ẩn. Do vậy đề tài chỉ đánh giá quan hệ Việt - Mỹ 5 năm qua để thấy rõ
những biểu hiện cụ thể của hai nƣớc. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết
và đƣa ra những kiến nghị mới.
Do hiểu biết và trình độ có hạn, bài viết khó tránh khỏi thiếu sót. Tác giả
rất mong nhận đƣợc sự chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
CHƢƠNG I
MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI NGHIÊN CỨU
1. Khái quát về môi trường kinh doanh quốc tế
Do khác nhau về điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, trình độ
nhận thức, tập quán... nên mỗi quốc gia tồn tại môi trƣờng kinh doanh không giống
nhau. Môi trƣờng kinh doanh là sự tổng hợp và tƣơng tác lẫn nhau giữa các yếu tố gây
ảnh hƣởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh
hƣởng không chỉ đối với các hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nƣớc
ngoài đang hoạt động tại nƣớc sở tại, mà còn ảnh hƣởng đến cả kết quả hoạt động của
các doanh nghiệp kinh doanh nội địa. Vì vậy, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu
quả, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có sự am hiểu nhất định về môi trƣờng
kinh doanh nƣớc ngoài.
Môi trƣờng kinh doanh quốc tế là tổng thể các môi trƣờng thành phần, nhƣ môi
trƣờng luật pháp, chính trị, kinh tế, văn hoá, cạnh tranh, tài chính... Nó là toàn bộ các
điều kiện bên trong và bên ngoài nƣớc có ảnh hƣởng trực tiếp đến các hoạt động của
doanh nghiệp, chi phối bình quân hoạt động tức là sự thành công hoặc thất bại đối với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nƣớc ngoài. Chúng ta tác động và chi phối
mạnh mẽ đối với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, buộc các doanh
nghiệp phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và chức năng hoạt động của mình
cho thích ứng, nhằm nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh và đạt hiệu quả cao trong
kinh doanh. Trong những điều kiện mở cửa xu hƣớng quốc tế hoá, toàn cầu hoá và khu
vực hoá nền kinh tế thế giới và nền kinh tế mỗi quốc gia, hoạt động kinh doanh quốc
tế ngày càng đƣợc mở rộng và phát triển. Thích ứng với xu hƣớng này, các doanh
nghiệp đang từng bƣớc tăng dần khả nănghoà nhập, thích ứng của mình với điều kiện
mới của môi trƣờng kinh doanh trong nƣớc và ngoài nƣớc nhằm tăng cơ hội, giảm
thách thức, hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận.
2. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh
Tại mỗi quốc gia cũng nhƣ từng khu vực lãnh thổ của quốc gia mà doanh nghiệp
đang và sẽ hoạt động đều có những đặc trƣng khác nhau về môi trƣờng kinh doanh.
Các nhân tố, điều kiện của môi trƣờng kinh doanh rất phong phú, đa dạng và luôn biến
đổi khá phức tạp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có sự am
hiểu về môi trƣờng kinh doanh và đƣa ra cách ứng xử cho phù hợp, nhằm đạt đƣợc
hiệu quả cao trong kinh doanh.
Sự thành công nhiều hay ít trong hoạt động kinh doanh quốc tế của các nhà kinh
doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự nhận thức và hiểu biết của họ về môi
trƣờng kinh doanh mà họ vận hành các hoạt động của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu
môi trƣờng kinh doanh quốc tế là sự cần thiết cho mọi ngƣời, trƣớc hết là cho những ai
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Nó trang bị kiết thức cơ bản để các cán
bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh quốc tế có thể đƣa ra đƣợc những quyết định tác
nghiệp hợp lý nhằm tối đa hoá mong muốn của họ.
Môi trƣờng kinh doanh quốc tế tác động chi phối đến mục đích, hình thức và kết
quả hoạt động của doanh nghiệp. Hiểu biết tốt về môi trƣờng kinh doanh mà mình hoạt
động sẽ cho phép các nhà quản lý, các nhà kinh doanh có đƣợc những đánh giá một
cách hệ thống các ý tƣởng kinh doanh. Kiến thức về địa lý, về sự phân bố dân cƣ, hiểu
biết về lịch sử sẽ gợi mở cho các nhà kinh doanh quốc tế hiểu rõ hơn chức năng hoạt
động cuả mình. Kiến thức chính trị, luật pháp trong nƣớc và quốc tế, những đánh giá
về kinh tế đang có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Việc nghiên cứu môi trƣờng cạnh tranh cũng hết sức cần thiết, môi trƣờng này
đang tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp, buộc doanh
nghiệp phải có sự điều chỉnh linh hoạt, thay đổi các biện pháp, các chức năng hoạt
động... của mình cho thích ứng với các điều kiện mới.
II. KHÁI QUÁT MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ
Môi trƣờng kinh doanh với tƣ cách là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các môi
trƣờng thành phần là những bộ phận không tách rời, giữa chúng có sự tác động qua lại
và ảnh hƣởng lẫn nhau. Nếu đứng trên góc độ thực tế, tức là xem xét môi trƣờng ở
trạng thái “tĩnh” ít thay đổi có thể chia môi trƣờng kinh doanh thành môi trƣờng địa lý,
chính trị, luật pháp, kinh tế, văn hoá, thể chế...
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, em chỉ xin trình bày về môi trƣờng văn
hoá.
1. Khái niệm
Theo định nghĩa văn hoá của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá ngày
nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hoặc một nhóm ngƣời trong xã hội. Văn hoá bao
gồm nghệ thuật và văn chƣơng, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngƣời,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngƣỡng.
Văn hoá là những giá trị có thể học hỏi, chia sẻ và liên hệ mật thiết với nhau, nó
cung cấp những định hƣớng cho các thành viên trong xã hội. Những định hƣớng này
cung cấp những giải pháp cho những vấn đề mà xã hội cần giải quyết.
Văn hoá đƣợc hiểu nhƣ một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả khả năng khác mà con ngƣời có đƣợc.
Văn hoá quy định hành vi của mỗi con ngƣời, thông qua mối quan hệ giữa ngƣời với
ngƣời trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên các
nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định có hay không tham gia kinh doanh ở
môi trƣờng đó. Điều này trong một chừng mực nhất định tuỳ thuộc vào sự chấp nhận
của doanh nghiệp đối với môi trƣờng văn hoá nƣớc ngoài. Sự khác nhau về văn hoá
dẫn đến sự khác nhau trong mô hình quản lý của các doanh nghiệp.
2. Những đặc tính văn hoá cần nghiên cứu
Để tăng khả năng thành công của hoạt động kinh doanh quốc tế, các nhà kinh
doanh quốc tế cần phải am hiểu về môi trƣờng văn hoá mà mình hoạt động. Việc thuê
mƣớn nhân công, buôn bán của doanh nghiệp đều đƣợc điều chỉnh và sở hữu của con
ngƣời. Con ngƣời chính là chủ thể trong quan hệ kinh tế đó – mà con ngƣời lại bị tác
động bởi cái văn hoá trong môi trƣờng họ sinh sống. Vì vậy, doanh nghiệp phải cân
nhắc, dự đoán, am hiểu về văn hoá của nƣớc sở tại, văn hoá của từng khu vực trên thế
giới. Có nhƣ vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh đó mới có khả quan.
Tuy nhiên, một số vấn đề mà nhà kinh doanh quốc tế nên ƣu tiên nghiên cứu, đó
là ngôn ngữ, lối sống, thông tin, tín hiệu, tín ngƣỡng, phong tục, tập quán, lễ hội... Các
nhân tố này đƣợc coi là “hàng rào chắn” các hoạt động giao dịch kinh doanh. Mỗi
quốc gia, thậm chí trong từng vùng của mỗi quốc gia, các dân tộc khác nhau cũng có
tập quán, lối sống và ngôn ngữ riêng. Do đó, các nhà kinh doanh cần phải biết rõ và
hành động cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trƣờng mới.
a. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tƣ duy và phong cách tƣ duy. Nó là sản phẩm
của văn hoá và là một nhân tố cấu thành của văn hoá. Nó cung cấp cho các nhà sản
xuất kinh doanh một phƣơng tiện quan trọng để giao tiếp trong quá trình kinh doanh
quốc tế. Đối với các công ty đa quốc gia, hoạt động kinh doanh muốn mở rộng, trƣớc
hết đòi hỏi phải thống nhất việc sử dụng ngôn ngữ. Thông thƣờng hoạt động kinh
doanh quốc tế tất yếu liên quan hoặc đòi hỏi sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Để
giải quyết tình trạng sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong giao tiếp kinh doanh,
chúng ta có thể thuê phiên dịch và nhà giao dịch hoặc thuê cố vấn hay các chuyên gia.
b. Tôn giáo:
Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hƣởng trực tiếp đến các hoạt động hàng ngày
của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, các doanh nghiịep kinh doanh quốc tế
cần phải hiểu biết về các tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội, nơi mà các doanh
nghiệp tổ chức các hoạt động kinh doanh. Thông thƣờng, các doanh nghiệp kinh doanh
quốc tế phải quan tâm đến bốn vấn đề và tôn giáo, đó là:
+ Tôn giá thống trị.
+ Tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội.
+ Mức độ thuần nhất của tôn giáo.
+ Sự tự do tín ngƣỡng trong xã hội.
Tôn giáo có thể ảnh hƣởng đến hoạt động hàng ngày của con ngƣời và do đó ảnh
hƣởng dến hoạt động kinh doanh. Ví nhƣ thời gian mở cửa hoặc đóng cửa, ngày nghỉ,
kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm... Vì vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải đƣợc tổ
chức cho phù hợp với từng loại tôn giáo.
c. Lối sống và suy nghĩ của con người
Tính cách và suy nghĩ của con ngƣời Mỹ quyết định phần lớn đến hành vi của họ.
Đặc biệt, trong quan hệ kinh doanh quốc tế, hiểu biết về đối tác của mình là vấn đề cần
thiết cho bất kỳ thƣơng gia nào muốn giao dịch, buôn bán với các đối tác nƣớc ngoài.
Nó không những tạo ra lợi nhuận, mà còn đem lại sự đam mê thực sự cho cả hai phía.
d. Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng
Thị hiếu, tập quán của ngƣời tiêu dùng có ảnh hƣởng rất lớn đến nhu cầu vì hàng
hoá dù có chất lƣợng tốt nhƣng nếu không đƣợc ngƣời tiêu dùng ƣa chuộng thì cũng
khó đƣợc họ chấp nhận. Ví nhƣ nếu nhà kinh doanh nào đó mang các sản phẩm chế
biế từ thịt lợn đến tiêu thụ ở Irắc, Xiri... hoặc đem thịt bò đến bán ở Ấn Độ thì đó là
một điều nguy hiểm, vì những sản phẩm đó theo tập quán, tôn giáo thì các quốc gia
này không tiêu dùng. Nếu nắm bắt đƣợc thị hiếu, tập quán của ngƣời tiêu dùng, doanh
nghiệp kinh doanh có điều kiện mở rộng khối lƣợng cầu một cách nhanh chóng. Chính
thị hiếu và tập quán của ngƣời tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng
châu lục, từng dân tộc và chịu ảnh hƣởng của các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo.
3. Mục đích nghiên cứu môi trường văn hoá
Kinh doanh ở nƣớc ngoài, các doanh nghiệp phải cố gắng thích nghi với môi
trƣờng văn hoá của các nƣớc sở tại nhằm nâng cao dần vị thế của mình trên thƣơng
trƣờng quốc tế. Chỉ trên cơ sở đó họ mới có thể mở rộng và nâng cao sự hiểu biết của
mình về văn hoá tƣơng ứng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh ở nƣớc ngoài. Nhƣ
vậy, tuỳ thuộc vào nhu cầu và trình độ hiểu biết về văn hoá mà công ty sẽ có hoạt động
thích ứng và hiệu quả. Nếu nhu cầu và trình độ hiểu biết văn hoá đối với nƣớc sở tại
còn ở mức thấp thì công ty chỉ nên kinh doanh với một công ty nƣớc ngoài và một
nƣớc mà chức năng hoạt đọng của công ty đó còn hạn chế. Ngƣợc lại, nếu nhu cầu và
trình độ am hiểu nền văn hoá nƣớc sở tại ở mức cao, thì khi đó công ty có thể tiến
hành kinh doanh với nhiều nƣớc, nhiều công ty khác nhau và công ty có điều kiện
thuận lợi trong việc mở rộng các chức năng và biện pháp hoạt động của mình.
Vì thế, nghiên cứu môi trƣờng văn hoá mà mình hoạt động nhằm giúp các doanh
nghiệp cá nhân và tổ chức kinh doanh có hiệu quả, phòng tránh rủi ro và tối đa hoá
mong muốn của mình.
III. TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH QUỐC TẾ.
Mỗi nƣớc đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng đƣợc hình thành
theo truyền thống văn hoá của mỗi nƣớc và có ảnh hƣởng to lớn đến tập tính tiêu dùng
của khách hàng nƣớc đó. Tuy sự giao lƣu văn hoá giữa các nƣớc đã làm xuất hiện khá
nhiều tập tính tiê dùng chung cho mọi dân tộc, song những yếu tố văn hoá truyền
thống vẫn còn rất bền vững, có ảnh hƣởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng.
Có những thị trƣờng với bản sắc văn hoá thuần nhất (nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản...)
song cũng có những thị trƣờng hết sức pha tạp Về văn hoá (Hoa Kỳ) vì thế môi trƣờng
văn hoá mà doanh nghiệp nghiên cứu sẽ giúp cho việc kinh doanh ấy có hiệu quả.
Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hƣởng đến cách thức giao dịch đƣợc tiến hành,
loại sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và những hình thức khuếch trƣơng có thể đƣợc
chấp nhận.
Giữa các nền văn hoá cũng có sự khác biệt về quản lý nhân lực, chính sách
Marketing và phƣơng thức đàm phán giao tiếp. Nhân tố văn hoá có ảnh hƣởng rất lớn
đến hoạt động kinh doanh quốc tế bởi nó tác động trực tiếp đến suy nghĩ và tính cách
của doanh nhân - chủ thể của hoạt động kinh doanh quốc tế.
CHƯƠNG II
MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ MỸ
I.
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ NGUỒN GỐC CON NGƯỜI NƯỚC MỸ.
Đất nước của những người nhập cư
Khi Côlông đặt chân lên lục địa châu Mỹ, ông ta đã tìm ra một thế giới với những
ngƣời dân sinh sống. Về nguồn gốc, có nhiều khả năng họ là những ngƣời da vàng có
cùng chủng tộc với các dân tộc châu Á. Họ đã từ lục địa châu Á, khoảng từ 20.000
năm đến 40.000 về trƣớc, qua mũi Bêring đã di cƣ sang lục địa châu Mỹ.
Những chuyến đi khám phá ra châu Mỹ của Côlông đƣợc Vƣơng quốc Tây ban
nha bảo trợ, và những ngƣời da trắng đầu tiên đến định cƣ ở thế giới mới này đều là
những ngƣời gốc Tây ban nha theo Đạo Thiên chúa ở Rôma. Họ định cƣ tập trung ở
các vùng miền Nam nƣớc Mỹ ngày nay.
Ngƣời Anh đến Mỹ vào thời điểm muộn hơn ngƣời Tây ban nha, nhƣng họ lại
giữ vai trò nòng cốt của xã hội thuộc địa Mỹ. Trong tổng dân số da trắng là 3,2 triệu
ngƣời trong cuộc điều tra dân số năm 1790, có tới 60 đến 80% là ngƣời Anh.
Một nước Mỹ mới: từ năm 1783 đến nay
Sau khi giành đƣợc độc lập, số dân Mỹ tăng nhanh chóng. Từ năm 1790 đến năm
1835, số dân tăng lên chủ yếu là do sự nhân giống của ngƣời “Mỹ chính gốc”. Nhƣng
từ năm 1830 đến năm 1860, thì chủ yếu là do ngƣời di cƣ từ Bắc Âu sang.
Cũng trong thời gian này, lãnh thổ nƣớc Mỹ đƣợc mở rộng ra rất nhiều. Đến năm
1860, công việc định cƣ đã vƣợt khỏi sông Mítsisipi sang Minêsôta, Kandát, Mítsuri,
Áckansa, và miền đông Tếchdát. Việc di cƣ đến Ôrigơn để tìm các vùng đất tự do và
tới Caliphoócnia để tìm vàng đã là nhân tố thúc đẩy hai bang này gia nhập liên bang.
Vào khoảng năm 1860, những đặc điểm của xã hội Mỹ đã trở nên rõ ràng hơn.
Trong hơn 80 năm từ khi giành đƣợc độc lập, tốc độ tăng dân số – kể cả ngƣời chính
gốc và ngƣời mới di cƣ tới – sánh kịp với tốc độ mở rộng lãnh thổ. Cũng nhƣ ở thời kỳ
thuộc địa, sự tăng trƣởng của ngƣời da đen và ngƣời di cƣ từ Bắc Âu sang đã làm cho
da màu của ngƣời Mỹ thay đổi dần. Tính cách của ngƣời Mỹ về cơ bản vẫn nhƣ ở thời
kỳ thuộc địa: cần cù, chăm chỉ, độc lập, táo bạo, dân tộc chủ nghĩa... Tuy nhiên, cho
đến năm 1860, dân tộc Mỹ vẫn bị chia rẽ. Chỉ sau khi nội chiến kết thúc thì quyền
thống trị của nhà nƣớc liên bang đối với các bang mới đƣợc thiết lập, và chế độ nô lệ
ngƣời da đen mới đƣợc bãi bỏ.
Từ năm 1860 đến nay, số dân nƣớc Mỹ có những thay đổi đáng kể. Cùng với tốc
độ tăng của số dân khá nhanh, một xu thế rất quan trọng là cộng đồng ngƣời di cƣ
trong tổng số dân nƣớc Mỹ lớn dần lên và gốc ngƣời nhập cƣ đến Mỹ cũng thay đổi.
Những ngƣời di cƣ từ các nƣớc Bắc và Tây Âu giảm, từ Đông và Nam Âu tăng lên.
Đồng thời, luồng di cƣ từ châu Á đến Mỹ cũng tăng lên, bắt đầu là ngƣời Trung Quốc,
sau đến ngƣời Nhật... Chính những thayđổi này đã có tác động lớn đến sự hình thành
về sau này, một dân tộc Mỹ tuy phức tạp, không đồng nhất nhƣng sáng tạo và năng
động.
II.
NỀN VĂN HOÁ MỸ
Nền văn hoá của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thật đa dạng, phong phú, cũng giống
nhƣ một cây xanh cao to, gồm nhiều cành, nhánh và dĩ nhiên là chúng mọc xúm xít
chung quanh thân hình chính, làm nên diện mạo đầy đủ cho vây xanh đó.
Ngƣời ta thƣờng coi văn hoá Mỹ bắt đầu từ năm 1607 khi mà sự nhập cƣ của
ngƣời Anh đã tƣơng đối ổn định. Rồi muộn hơn – năm 1668, Wiliam Stoughton một
học giả gốc Anh đã thành công ở xứ sở Hoa Kỳ đã viết “Chúa đã sàng lọc cả một dân
tộc từ nƣớc Anh để có thể chuyển thành những hạt giống tốt nhất tới mảnh dất hoang
dã là Mỹ quốc này”. Văn hoá Mỹ nhìn chung chủ yếu thừa hƣởng một số kinh nghiệm
và địa danh của ngƣời bản xứ (Inđiô), còn hầu hết các mặt nhƣ ngôn ngữ, thể chế, tôn
giáo, văn học, kiến trúc, âm nhạc... đều có xuất xứ từ châu Âu nói chung và nƣớc Anh,
Tây Âu nói riêng.
Tuy bắt nguồn từ văn hoá Tây Âu là chính nhƣng khi hình thành phát triển thì
văn hoá Mỹ thể hiện là một nền văn hoá đa dạng – phức tạp do gần 300 năm hấp thụ
đƣợc ở những ngƣời nhập cƣ và tỵ nạn từ khắp thế giới, tức là xã hội Mỹ có nhiều nền
văn hoá và các nhánh văn hoá phụ.
1. Ngôn ngữ và bản sắc dân tộc
Theo số liệu của Bộ lao động và thƣơng mại nêu trong cuốn sách “một thế kỷ
tăng trƣởng dân số”, cho biết: Khi ngƣời Anh đến Mỹ nhập cƣ ngày một gia tăng
chiếm 60 đến 80% dân số Mỹ thì 13 thuộc địa đầu tiên là do ngƣời Anh cai trị. Luật
pháp, cơ cấu tổ chức chính quyền, đời sống văn hoá xã hội thuộc địa Mỹ chủ yếu
mang đặc điểm Anglo – saxon. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức đƣợc sử dụng ở tất
cả mọi nơi trừ những cộng đồng “nƣớc ngoài” biệt lập.
Cho đến tận ngày nay, nƣớc Mỹ vẫn chƣa có ngôn ngữ chính thức, 1/3 số bang
lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chích thức, 2/3 số bang còn lại coi tiếng Mỹ hoặc khôing
coi ngôn ngữ nào là chícnh thức. Riêng bang đảo Hawai lại tuyên bố có hai ngôn ngữ
chính thức tiếng Anh và tiếng Hawai. Việc ủng hộ tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức
cũng khác nhau, tuy nhiên, trong kinh doanh quốc tế, tiếng Anh là ngôn ngữ chính
đƣợc sử dụng ở tất cả mọi nơi trừ những cộng đồng “nƣớc ngoài” biệt lập.
Trƣớc đây, sự phân rẽ cổ điển là giữa ngƣời da trắng và ngƣời da đen. Những
ngƣời Cộng hoà có xu hƣớng phân biệt hơn. Còn những ngƣời Dân chủ lại muốn thử
tiến hành hội nhập. Cùng với việc gia tăng nhiều dân tộc, các chiến lƣợc này đều đã
quá thời và cần đƣợc thay thế bằng tƣ tƣởng chia sẻ những giá trị dân tộc, những khả
năng tài chính và các kết quả của nền kinh tế mới.
Giữa những năm 20, Mỹ đã thông qua một chính sách hạn chế sự nhập cƣ. Chính
sách này kéo dài 40 năm. Năm 1965, chính sách này thay đổi hoàn toàn, nó cho phép
tiếp nhận những ngƣời nhập cƣ mới, trƣớc hết là những ngƣời từ châu Mỹ la tinh và
châu Á tới. Chính sách này đƣa lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ ngƣời Mỹ sinh ở ngoài nƣớc
Mỹ đã tăng gấp đôi từ những nam 60. Gần 11% dân số có nguồn gốc Tây ban nha,
12% ngƣời Mỹ gốc Phi và 3% gốc châu Á. Ở New York, những ngƣời gốc Tây ban
nha đã tạo ra nhóm thiểu số quan trọng nhất. Năm 1997, lần đầu tiên số lƣợng trẻ em
gốc Tây ban nha vƣợt quá số lƣợng trẻ em Mỹ gốc Phi.
Sự phát triển này sẽ tăng tốc độ trong nửa đầu thế kỷ tới. Ngay từ năm 2005,
những ngƣời Tây ban nha sẽ trở thành nhóm thiểu số đầu tiên của Mỹ. Năm 2050, họ
sẽ chiếm 1/4 dân số Mỹ và những ngƣời châu Á chiếm 8% (ngƣời Mỹ gốc Phi chiếm
13,5%). Tỷ lệ ngƣời da trắng không phải gốc Tây ban nha tụt xuống còn 53%, và ở
nhiều bang họ trở thành thiểu số.
Do đó các dữ kiện bầu cử sẽ bị thay đổi sâu sắc. Các nhà có trách nhiệm về chính
sách bắt đầu quan tâm đến điều đó. Vì vậy, những ngƣời của đảng Cộng hoà - họ từng
xem ngƣời Mỹ gốc Phi, ngƣời Tây ban nha ở Caliphoócnia, ở Tếchdát và Florida nhƣ
kẻ thù – sẽ xem xét lại đƣờng lối của họ trong những năm tới.
Một chính sách tập hợp các dân tộc khác nhau lại không thể chỉ đƣợc khẳng định
trên nguyên tắc. Nó cũng cần phải vạch ra giải pháp cụ thể cho các vấn đề nâng cao
đời sông cho mọi ngƣời.
2. Tôn giáo
Mỹ là một nƣớc đa chủng tộc, gần nhƣ không thiếu một màu da nào, một dân tộc
nào trên đất nƣớc này. Góp vào bức tranh xã hội đầy màu sắc, tôn giáo Mỹ hết sức đa
dạng, phong phú, mang một bản sắc riêng không thấy ở bất cứ quốc gia nào khác.
Các nhà nghiên cứu về xã hội Mỹ nêu lên một nhận xét rằng, khi thấy ngƣời Mỹ
đi ghi tên tham gia vào các đoàn thể thì có thể ƣớc đoán với độ chính xác khá cao là họ
đăng ký gia nhập một tổ chức tôn giáo nhiều hơn tất cả các hội tự nguyện khác gộp lại.
Khoảng 60% tổng số ngƣời dân Mỹ là thành viên các hiệp hội tôn giáo, đông hơn
nhiều so với các nƣớc Tây Âu và Canađa.
Tính đến năm 1989, có 145.384 triệu ngƣời Mỹ theo tôn giáo, trong đó khoảng
79 triệu ngƣời theo Đạo Tin lành, 55 triệu ngƣời theo Đạo Thiên chúa La mã, 6 triệu
ngƣời theo các giáo hội phƣơng Đông, 100.000 ngƣời theo Đạo Phật, v.v...
Tôn giáo có một vai trò quan trọngtrong xã hội, và đa số ngƣời Mỹ cho rằng nhà
thờ phải tách khỏi nhà nƣớc. Thuy nhiên, vị trí của tôn giáo trong xã hội đã có những
thay đổi to lớn so với những thời kỳ đầu tiên của lịch sử nƣớc Mỹ. Những ngƣời di cƣ
đến lập nghiệp ở nƣớc Mỹ đều mang trong mình tâm niệm là làm theo ý Chúa, và là
quá trình xây dựng những bậc thang lên thiên đàng. Họ coi tôn giáo là nền tảng của kỷ
cƣơng trong xã hội. Khuôn mặt của một vị linh mục (do mọi ngƣời trong thị trấn bầu
ra, chứ không phải chỉ những ngƣời trong họ đạo) là hiện thân của điều thiện và phúc
lợi xã hội; đồng thời năng lực, phẩm chất của ông ta là cơ sở cho trật tự kỷ cƣơng
trong thị trấn đó. Tuy nhiên, đến nay ta không còn thấy đƣợc chuyện đó nữa, thậm chí
ở cả những vùng xa xôi, hẻo lánh. Tôn giáo đã hoàn toàn trở thành một công việc
mang tính chất cá nhân. Đa số ngƣời Mỹ coi việc theo đuổi tín ngƣỡng là việc riêng
của mình, chẳng có liên quan đến ai cả. Chẳng thế mà có ngƣời nói mỉa mai rằng trong
tƣơng lai, đời sống tôn giáo nƣớc Mỹ sẽ phân chia thành 249 triệu loại tín ngƣỡng, cứ
mỗi ngƣời có một loại tín ngƣỡng cho riêng mình.
Nhƣng hiện nay, ở Mỹ có khoảng 219 tôn giáo nhỏ phân chia thành 341 nghìn tổ
chức địa phƣơng. Tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất nƣớc này là Christmas (còn gọi
là đạo KiTô hay Cơ Đốc Giáo) có khoảng 76,8 triệu tín đồ; Protestant (Tân Giáo), 52
triệu tín đồ; Roman Catholics (Thiên chúa La Mã), 3,9 triệu tín đồ; Judaism (Do Thái),
4 triệu tín đồ; tiếp theo là Eastern Othodox Church (Chính giáo phƣơng Đông); rồi Hồi
giáo, Phật giáo, Quaker, Mormons... Hàng năm có khoảng 45 triệu trẻ em, chƣa kể
ngƣời lớn, theo học ở các lớp do các tổ chức tôn giáo mở. Với một nền tôn giáo đa
giáo phái và với một số lƣợng khổng lồ ngƣời tham gia các hoạt động tôn giáo nhƣ vậy
mà trên nƣớc Mỹ hiện nay không hề xảy ra các cuộc tàn sát hay xung đột tôn giáo.
Trong khi hiện nay tôn giáo và sắc tộc là hai vấn đề rất tế nhị và đã là khởi điểm của
nhiều cuộc xung đột hoặc khủng bố đẫm máu.
Vậy vì lý do gì mà nƣớc Mỹ có thể duy trì đƣợc sự ổn định cho một nền tôn giáo
đa dạng nhƣ vậy? Tai sao ở Mỹ lại có hiện tƣợng cùng một nhà thờ có thể dùng làm
nơi hành lễ của hai giáo phái? Tại sao cùng một bang, một thành phố, thậm chí cùng
một quận tồn tại nhiều trung tâm của các tôn giáo khác nhau? Phải chăng tôn giáo luôn
đƣợc chính phủ “quan tâm chăm sóc” hay ngƣời Mỹ là những ngƣời hiền lành, yêu
hoà bình, nhân ái?
Lời giải đáp chính xác và đầy đủ nhất đó chính là nền tôn giáo Mỹ với tính cách
đặc biệt của nó. Nhận xét về nền tôn giáo Mỹ ngày nay, nhà nghiên cứu văn hoá
Esther Waming đã viết trong cuốn Culture Shock (Sốc văn hoá) nhƣ sau: “Rất có thể ít
nhiều do tình cảm tôn giáo truyền lại từ khuynh hƣớng tôn giáo của nƣớc Mỹ lúc ban
đầu”.
Càng về giai đoạn cuối của thế kỷ XVII, khi những đợt di cƣ ồ ạt từ khắp nơi đổ
về, nƣớc Mỹ thực sự trở thành nƣớc đa tôn giáo. Thanh giáo từ Anh, Do Thái giáo từ
Đức, Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Hồi giáo theo chân những nô lệ châu Phi...
Hơn thế, Hoa Kỳ còn nhƣ bà đỡ khéo tay cho sự ra đời hàng loạt tôn giáo mới nhƣ
Quaker, Mormons... Đó là chƣa kể đến sự phân tách của các giáo hội thành các giáo
phái mới. Các giáo phái dến Mỹ hay đƣợc thành lập ở Mỹ đều chung một ý tƣởng coi
đây là Tân Thế Giới, một miền đất hứa, thậm chí coi nơi đây chỉ là lãnh đậo của giáo
phái họ thôi. Tất cả các ý tƣởng nhằm đƣa một tôn giáo lên thành quốc giáo hay dùng
tiền của, quyền lực áp đặt buộc ngƣời dân phải theo một tôn giáo nào đó đều bị loại
bỏ. Nếu có một giáo hội nào dám đi ngƣợc với tiêu chí, với khuynh hƣớng tôn giáo
Mỹ đã hình thành từ buổi ban đầu thì đều phải trả giá. Nó sẽ bị cô lập, bị phản dối
hoặc bị trục xuất khỏi mảnh đất đang sinh sống.
Theo thời gian, những tình cảm hoà đồng tôn giáo Mỹ trở nên bình thƣờng, mọi
cộng đồng tôn giáo vừa độc lập, vừa cùng nhau sinh sống. Những điều đó có đƣợc là
nhờ 3 yếu tố cơ bản là Nhà nƣớc, gia đình và tƣ tƣởng ngƣời dân.
Ở Mỹ, hiện tƣợng trong một gia đình có năm ngƣời mà có ba, bốn quốc tịch là
chuyện bình thƣờng. Nhƣ một gia đình có ngƣời bố là ngƣời Anh theo Tân giáo, ngƣời
mẹ là ngƣời Ireland theo phái Calvin, các ngƣời con mỗi ngƣời theo một tôn giáo. Nhƣ
vậy, sự hoà đồng trong tôn giáo chỉ có ở một đất nƣớc nhƣ Mỹ khi mà quyền tự do cá
nhân đƣợc tôn trọng: Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do điều trần... và không ngoại
trừ tự do tín ngƣỡng, không ai có thể ép buộc ai phải theo tôn giáo mình đã theo:
chồng không thể ép vợ, bố không thể ép con... nhƣng vợ chồng con cái vẫn cùng
chung sống trong một mái nhà. Từ những hạt nhân nhƣ vậy mà tính hào đồng trong
tôn giáo đƣợc kế tục và phát triển. Ngoài ra, các phán quyết của Toà án tối cao ban
hành khi xét xử các vụ án tôn giáo đã tăng cƣờng tính pháp lý cho việc tự do tinh
ngƣỡng.
Chính quyền các bang cũng trợ cấp cho các giáo hội tiền bạc hoặc đất đai trên
tinh thần thận trọng và công bằng. Nói chung, ở thời điểm hiện nay, khi các cuộc xung
đột và khủng bố mang tính chất tôn giáo ngày càng gia tăng, tính hoà đồng trong tôn
giáo Mỹ tỏ ra có nhiều mặt tích cực trong cuộc sống.
3. Tính cách, lối sống và suy nghĩ của con người Mỹ
a. Chủ nghĩa cá nhân – cốt lõi của nền văn hoá Mỹ
Khi nói đến tính cách con ngƣời và nền văn hoá Mỹ, điều không thể không nhắc
đến là chủ nghĩa cá nhân. Ngƣời Mỹ tin tƣởng ở năng lực và “đạo đức thánh thiện” của
từng nhân cách cá nhân. Trong hoài bão và hy vọng của họ, điều cao cả nhất và hoà
hiệp nhất đều liên quan đến chủ nghĩa cá nhân. Mặc dù chủ nghĩa cá nhân đã làm nảy
sinh nhiều vần đề xã hội phức tạp, nhƣng các nhà nghiên cứu về văn hoá Mỹ đèu cho
rằng không thể làm cho dân Mỹ mất đi tích chất cá nhân chủ nghĩa, vì nhƣ thế là tƣớc
bỏ một đặc điểm chủ yếu của ngƣời Mỹ với tƣ cách là một dân tộc.
Điều quan trọng nhất để hiểu ngƣời Mỹ là biết rằng họ là những ngƣời rất sùng
bái “chủ nghĩa cá nhân”. Sự kết hợp giữa tự do cá nhân và tính độc lập đƣợc đánh giá
cao ở Mỹ. Họ coi những công việc hoàn thành của cá nhân và những cuộc chiến để
giành đƣợc nhiều tự do. Họ có thể làm theo sở thích hoặc thay đổi lối sống của mình,
cho dù có phải từ bỏ mọi cam kết với gia đình, với cộng dồng. Quan điểm này đã bị
phản ứng mạnh mẽ của những ngƣời thuộc trƣờng phái văn hoá cho rằng, mỗi cá nhân
là một thành viên của gia đình, xã hội và nhấn mạnh vai trò gắn kết với cộng đồng, đặt
sức mạnh của tổ chức cộng đồng lên trên cá nhân, phản đối chủ nghĩa cá nhân. Thực
tế, nhiều thành tựu đạt đƣợc ở Mỹ là nhờ phát kiến của những nhóm ngƣời, mỗi ngƣời
thực sự là một cầu thủ trong đội hình. Hiện nay, một số công ty Mỹ, có xu hƣớng sử
dụng sức mạnh của mỗi cá nhân bằng cách kết hợp các nhóm thành viên có năng lực
khác nhau để thực hiện những mục tiêu nhất định.
Hơn nữa, họ cho rằng sau một thời gian sống ở Mỹ ngƣời ta sẽ cảm thấy thoát
khỏi những ràng buộc bên ngoài và sẽ cảm thấy biết ơn nếu để yên cho họ “làm mọi
thứ theo cách của họ” hay “đạt đƣợc điều gì đó theo cách của họ”.
Theo quan niệm này, ít nhất một số ngƣời Mỹ không nhận ra thực tế là họ đang
chia sẻ một nền văn hoá với nhau. Nhƣ đã đề cập ở trên, họ có ý tƣởng rằng họ hoàn
toàn độc lập để quyết định về những giả định hay giá trị riêng của họ. Quan niệm rằng
các nhân tố xã hội bắt họ trở thành nhƣ những ngƣời khác và trong trƣờng hợp này đã
làm cho họ có cảm giác tính tự chủ bị tổn thƣơng.
Nhƣ vậy, ngƣời Mỹ xem mẫu ngƣời lý tƣởng phải là một ngƣời độc lập, tự chủ
và riêng biệt. Còn quan điểm về “chủ nghĩa cá nhân” - đó là phải tự đứng bằng đôi
chân của mình và tự quyết định – thì có thể nói rằng, ngƣời Mỹ rất khác biệt. Ví dụ
nhiều ngƣời Mỹ xem các cá nhân là anh hùng, bởi họ “nổi bật trong một đám đông” do
tiên phong làm một điều gì đó, lâu và thƣờng xuyên, hay nói cách khác là làm những
điều tốt nhất, chẳng hạn nhƣ các phi công lừng danh: Charles Lindberg và Amelia
Earhart... Ngƣời Mỹ thán phục những ai có thể vƣợc qua khó khăn nhƣ nghèo khổ hay
tàn tật để thành công trong cuộc sống. Nhà giáo dục da đen Brooker T. Washington,
một tác giả vừa bị mù vừa bị điếc là một ví dụ.
Sự tôn sùng “chủ nghĩa cá nhân” vẫn thƣờng thể hiện qua việc ngƣời Mỹ sử dụng
các câu nhƣ “Hãy làm cái gì đó theo cách của mình”, “Tôi làm cái gì đó theo cách của
tôi”, “Hãy tự quyết định điều đó”, “Mình làm mình chịu”, “Đừng trông cậy vào sự
giúp đỡ của ngƣời khác” và “Hãy cố gắng là điều tốt nhất”...
Mối liên hệ chặt chẽ vốn có tầm quan trọng lớn mà ngƣời Mỹ gắn liền với chủ
nghĩa cá nhân là sự riêng tƣ. Ngƣời Mỹ cho rằng, con ngƣòi ta “cần có những lúc ở
một mình” hoặc “để trầm tĩnh lại” để nghĩ lại mọi sự hoặc hồi phục năng lƣợng, tâm lý
đã hao tổn. Ngƣời Mỹ thực sự không hiểu những ngƣời nƣớc ngoài mà thƣờng thích
có ai đó để bầu bạn và họ dƣờng nhƣ không thích ở một mình. Thái độ của ngƣời Mỹ
về riêng tƣ có vẻ rất khó hiểu đối với ngƣời nƣớc ngoài. Nhà, sân chơi, thậm chí văn
phòng của ngƣời Mỹ có thể mở rộng cửa đón tiếp bạn, song, họ lại có những biên giới
mà đơn giản là ngƣời khác không thể bƣớc qua. Khi những biên giới này bị xâm phạm,
có thể thấy ngƣời Mỹ hoàn toàn bị cứng lại, và thái độ của họ trở nên lạnh nhạt và xa
lánh.
b. Sự ngay thẳng
Trong ứng xử, ngƣời Mỹ thƣờng bộc lộ tính cách thẳng thắn, chân thực, họ luôn
có ý kiến về những vấn đề mà họ quan tâm; tự nhận mình là những ngƣời có tham
vọng, lao động chăm chỉ, có nghị lực và tự hào về mức sống cao của mình, về vai trò
quan trọng của nƣớc Mỹ trên thế giới. Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn, căng thẳng về vấn
đề chủng tộc, nòi giống giữa các nhóm sắc tộc trong xã hội, ngƣời Mỹ vẫn cố gắng
biểu hiện sự thân thiện, sẵn sàng kết bạn và dƣờng nhƣ tạo ra mức độ quen thân rất
nhanh (điều mà ở một số nƣớc khác phải mất khá nhiều thời gian). Sự nhanh chóng
này thƣờng làm cho khách ngạc nhiên, thậm chí có thể hiểu lầm không chỉ bởi nó diễn
ra quá nhanh, mà còn bởi sự không chắc chắn về chất trong mối quan hệ đó. Nhƣng
theo họ, sự thân thiện là một cử chỉ lịch sự. Tuy nhiên, mức độ thân thiện còn tuỳ
thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể và đều đƣợc thực hiện có suy xét ở ngƣời Mỹ.
c. Sự bình đẳng
Ngƣời Mỹ cũng rất đặc biệt khi nhìn nhận theo góc độ rằng họ tin vào lý tƣởng,
nhƣ đƣợc phát biểu trong tuyên ngôn độc lập, rằng “tất cả mọi ngƣời sinh ra công bằng
nhƣ nhau” mặc dù trong những hành động thực tế họ vi phạm lý tƣởng này, nhất là
trong vấn đề giải quyết các mối quan hệ chủng tộc. Tuy nhiên, ngƣời Mỹ có một niềm
tin sâu sắc rằng, về cơ bản thì tất cả mọi ngƣời đều có giá trị nhƣ nhau và rằng không
ai sinh ra cao sang hơn ngƣời khác. “Mỗi ngƣời một phiếu”, họ nói. Điều này thể hiện
ý tƣởng rằng ý kiến của một ngƣời đều có giá trị và đáng nhận đƣợc sự chú ý nhƣ bất
cứ những ngƣời khác.
Ngƣời Mỹ thƣờng cảm thấy không thoải mái khi mà họ đƣợc đối xử một cách
trịnh trọng. Họ không thích là đối tƣợng để ngƣời khác thể hiện sự kính trọng nhƣ
đƣợc cúi đầu chào hay đƣợc kính cẩn, đƣợc đối xử nhƣ ngƣời không làm điều gì sai
trái và không bao giờ có những yêu cầu vô lý vậy.
Theo quan niệm ngƣời Mỹ thì không chỉ nam giới sinh ra có sự công bằng mà
phụ nữ cũng vậy. Trong khi ngƣời Mỹ thƣờng vi phạm ý tƣởng này, bởi trong thực tế
họ lại luôn cho rằng phụ nữ công bằng với đàn ông, xứng đáng đƣợc nhận sự kính
trọng nhƣ nam giới. Điều này không có nghĩa là ngƣời Mỹ không phân biệt giữa họ
trong các vấn đề về giới tính, tuổi tác, của cải hay địa vị xã hội, và trên thực tế là có.
Nhƣng sự phân biệt này chỉ tồn tại ở dạng tinh vi, khó nhận thấy. Giọng điệu của lời
nói, cách ra lệnh, cách dùng ngôn từ, vị trí chỗ ngồi – tất cả những điều này là cách để
ngƣời Mỹ công nhận vị trí xã hội khác nhau giữa họ. Ngƣời ở vị trí cao hơn có thể có
quyền nói trƣớc, nói to hơn và lâu hơn. Họ ngồi ở đầu bàn hay trong một ghế thoải mái
nhất. Họ cảm thấy tự do để có thể chen ngang. Ngƣời có vị trí cao trong xã hội có thể
đặt tay lên vai của ngƣời có vị trí xã hội thấp hơn. Nếu có vấn đề đề cập đến giữa
những ngƣời có liên quan, thì ngƣời có vị trí cao hơn sẽ đƣợc nói đến trƣớc.
Những ngƣời nƣớc ngoài quen với những cách thể hiện sự kính trọng rõ ràng hơn
nhƣ cúi chào, quay mắt sang phía ngƣời có vị trí cao hơn, hay dùng tên, tƣớc hiệu
danh giá thì thƣờng tỏ ra xem thƣờng cách mà ngƣời Mỹ thể hiện sự kính trọng đối với
ngƣời có vị trí cao hơn trong xã hội. Họ nghĩ một cách hơi thiên lệch rằng, ngƣời Mỹ
thông thƣờng không nhận ra sự khác nhau vị trí xã hội và thƣờng tỏ ra bất nhã với
ngƣời khác. Điều đặc biệt trong quan điểm ngƣời Mỹ về vấn đề công bằng là những
giả định quan trọng, theo đó bất kể vị trí xã hội lúc đầu của một ngƣời nhƣ thế nào thì
ngƣời đó cũng có khả năng đề đạt những vị trí xã hội cao và rằng mọi ngƣời dù bất
hạnh đến mấy cũng xứng đáng đƣợc hƣởng sự đối xử cơ bản ngang nhau.
d. Sự thoải mái
Các khái niệm về công bằng đã làm cho ngƣời Mỹ khá thoải mái trong phong thái
noi chung của họ và trong các mội quan hệ của họ với ngƣời khác. Ví dụ nhƣ ngƣời
bán hàng hay ngƣời phục vụ bàn đều có thể giới thiệu bằng tên và nói chuyện với
khách hàng rất thoải mái và cởi mở. Những thƣ ký Mỹ, nhƣ những ngƣời khác, đƣợc
dạy rằng họ cũng hữu ích nhƣ mọi ngƣời khác, thậm chí cả khi họ làm cố định một
công việc mà ngƣời khác cho có thể cho là thấp kém. Thái độ thoải mái này có khi làm
mếch lòng ngƣời nƣớc ngoài, những ngƣời đang có vị trí xã hội ở những nƣớc mà
không cho là “tất cả mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng”.
Những ngƣời đến từ xã hội mà sự cƣ xử một cách trịnh trọng thƣờng dễ bị xốc
bởi sự xuề xoà trong cách giao tiếp, ăn mặc, cách đi đứng của ngƣời Mỹ. Cách nói sử
dụng các thuật ngữ hay còn gọi là tiếng lóng đƣợc thấy thƣờng xuyên trong hầu hết
các dịp và những lời phát biểu trịnh trọng chỉ dành cho các sự kiện có đông công
chúng hay trong những tình huống khá trịnh trọng. Sự thân thiện bề ngoài thƣờng thấy
ở ngƣời Mỹ là cách tiếp cận bình dân và thoải mái của họ đối với ngƣời khác. “Chào”
– Họ có thể nói với bất cứ ai “Mọi việc có ổn không?” hay “Có khoẻ không?”... Cách
giao tiếp này phản ảnh ít hứng thú, đặc biệt đối với ngƣòi đang nói chuyện, hơn là
muốn thể hiện rằng ngƣời đối thoại cũng chỉ là một ngƣời bình thƣờng nhƣ những
ngƣời khác, là thành viên của một nhóm ngƣời bình dân.
Sự thoả mái đi đôi với quyền độc lập, tự do, dân chủ. Tự do và độc lập còn phù
hợp với quan điểm cho rằng, nƣớc Mỹ là miền đất của moi cơ hội, nơi mà việc chấp
nhận rủi ro lại đƣợc đề cao. Họ tự hào với những doanh nhân mới vào nghề mà dám
thực hiện một cuộc cách mạng về sản phẩm, hay đƣa ra một dịch vụ mới. Thực tế ở
Mỹ và các nƣớc phƣơng Tây khác, các công ty bị thất bại nhiều hơn các công ty thành
đạt, sự tự do lựa chọn số phận cho riêng mình, cũng co nghĩa là tự do lựa chọn sự thất
bại.
Cùng với chủ nghĩa cá nhân, độc lập, tự do, dân chủ là sự cạnh tranh. Ngƣời Mỹ
hiểu rõ điều này qua bản chất của những cuộc đọ sức giữa họ. Họ vận dụng một cách
triệt để trong lĩnh vực kinh doanh, thậm chí cả trong cuộc sống. Mục tiêu chính của
các doanh nhân Mỹ là giành chiến thắng ở các cuộc đàm phán trong kinh doanh, và
khi việc giành thắng lợi trở nên thực sự quan trọng với họ, thì sự cạnh tranh có thể
quyết liệt và không thể nhân nhƣợng.
e. Tương lai, sự thay đổi và tiến bộ
Ngƣời Mỹ ít quan tâm đến lịch sử và truyền thống hơn là con ngƣời của các xã
hội trƣớc đó. Nhiều ngƣời có thể nói “lịch sử không quan trọng”, “tƣơng lai mới quan
trọng”. Họ là những ngƣời hƣớng về phía trƣớc. Họ cho rằng những gì xảy ra trong
tƣơng lai nằm trong sự kiểm soát của mỗi ngƣời và ít nhất chịu sự ảnh hƣởng của họ.
Họ tin rằng một con ngƣời có lý trí và trƣởng thành cần phải đặt mục đích cho tƣơng
lai của mình và biết làm việc một cách có hệ thống để đạt đƣợc những mục đích đó.
Họ tin rằng tất cả các cá nhân, từng ngƣời một hoặc làm tập thể, đều có thể thay đổi tất
cả các mặt của môi trƣờng vật chất xã hội một khi đã quyết định làm nhƣ vậy với
những kế hoạch đúng đắn và thực sự bắt tay vào công việc. Sự thay đổi đƣợc xem là
tiền đề để tạo ra sự phát triển. Những điều mới sẽ tốt hơn điều cũ.
Hai khẩu hiệu lâu năm của hai tập đoàn Công ty nổi tiếng của Mỹ đã thể hiện sâu
sắc những giả định Mỹ về tƣơng lai và về sự thay đổi. Một nhãn mác của đồ điện dân
dụng đã chấm dứt thƣơng nghiệp máy tính và radio với khẩu hiệu “Sự tiến bộ là sản
phẩm quan trọng nhất của chúng ta”. Một công ty hoá chất lớn chuyên sản xuất sợi
tổng hợp và nhựa đa dạng có khẩu hiệu “Ngành hoá chất chuyên sản xuất những sản
phẩm tốt hơn để cho cuộc sống tốt hơn”.
Niềm tin mãnh liệt vào sự tiến bộ và một tƣơng lai hoàn toàn ngƣợc lại với thai
độ tin vào số phận của nhiều nền văn minh khác, trong đó tiêu biểu là Latinh, châu Á,
Ả Rập, mà ở đó ngƣời ta rất coi trọng quá khứ. Ở những nƣớc này, tƣơng lai đƣợc xem
nhƣ nằm trong bàn tay của “số phận”, “Chúa” hoặc ít nhất là trong tay của những
ngƣời có quyền lực nhất trong xã hội. Cái ý tƣởng có thể định đoạt đƣợc tƣơng lai của
chính mình đối với họ dƣờng nhƣ rất thơ ngây hoặc thậm chí hơi lố bịch.
f. Bản chất thánh thiện của loài người
Tƣơng lai không thể tốt hơn nếu con ngƣời về cơ bản không có lòng nhân ái và
tiến thủ. Ngƣời Mỹ thƣờng cho rằng bản chất con ngƣời vốn dĩ là tốt, chứ không phải
là tội lỗi. Ngƣời nƣớc ngoài thƣờng thấy họ làm việc mà dựa trên giả định con ngƣời
bản chất tốt và có thể ngày càng làm cho bản thân tốt hơn. Một số ví dụ chứng minh
cho điều này:
Được hưởng nền giáo dục hay đào tạo tốt: Giáo dục chính thức không chỉ giành
cho lớp trẻ mà cho tất cả mọi ngƣời. Ngành giáo dục có những khoá học mở rộng,
những lớp học buổi tối, lớp học tại chức và cả những khoá học dạy trên ti vi dành để
cho những ngƣời đi làm hay sống xa các trƣờng đại học cũng có thể có điều kiện để có
học vấn cao hơn. Nhiều học sinh trung học đã ra trƣờng là những ngƣời đã trƣởng
thành thì có thể tìm cách để cải thiện học vấn của mình bằng cách tự đào sâu thêm.
Vậy mà đến gần đây ngƣời ta đã nhận thấy nguy cơ về chất lƣợng giáo dục trung học
kém cỏi của Mỹ so với các nƣớc khác và chính Tổng thống Clinton cũng đã thừa nhận
đó là một vấn đề quốc sách.
Giáo dục không chính thức nằm dƣới dạng xƣởng học nghề, hội thảo hay các
chƣơng trình đào tạo rộng rãi. Nhờ chúng ngƣời ta có thể tích luỹ đƣợc nhiều kinh
nghiệm, từ việc để trở thành ông bố bà mẹ tốt hơn, đến việc biết cách đầu tƣ tiền một
cách khôn ngoan hơn hoặc xử sự tự tin hơn.
Sự cải tạo: Ngoại trừ các trƣờng hợp tỏ ra quá bất lực, còn tất cả đều nỗ lực để
cải tạo những ngƣời tàn tật do tai nạn hay bệnh tật. Một ngƣời “học đi” sau vụ tai nạn
khủng khiếp thì rất đƣợc khâm phục.
Sự cải tạo không chỉ dành cho những ngƣời bị tàn tật không thôi mà còn cho
những ngƣời không thành công trong xã hội. Nhà tù và các trung tâm giam giữ nhằm
để cải tạo tù nhân trở nên có ích cho xã hội vừa để trừng phạt tội lỗi của họ. Một quan
niệm rộng rãi đó là ngƣời mà phạm luật sở dĩ làm nhƣ vậy bởi vì điều kiện môi trƣờng
không may mắn đối với họ chứ không phải do bản chất họ tội lỗi.
Niềm tin vào chính phủ dân chủ. Có thể nói một cách ngắn gọn rằng niềm tinh
vào chế dộ dân chủ là niềm tin cơ sở cho mọi niềm tin của ngƣời Mỹ, trong đó nó thể
hiện niềm tin về chủ nghĩa cá nhân, tự do và bình đẳng. Nói cách khác, ngƣời Mỹ tin
rằng con ngƣời có thể làm cho cuộc sống của bản thân mình và của ngƣời khác tốt hơn
thông qua chính phủ mà họ đã lựa chọn.
Tự nguyện: Vấn đề này không những chỉ thông qua Chính phủ hay các ban ngành
có thẩm quyền nào khác có vốn, có thể là cho cuộc sống của con ngƣời tốt hơn mà còn
nhờ sự tự nguyện của công dân nữa. Nhiều ngƣời nƣớc ngoài đã phải ngạc nhiên trƣớc
những hoạt động mà ngƣời Mỹ rất ủng hộ. Đó là những hành động tự nguyện cơ bản
nhƣ: các tổ chức ở trƣờng học giữa bố mẹ và thầy cô giáo, cộng đồng gọi là “các câu
lạc bộ dịch vụ” để quyên góp tiền cho các mục đích từ thiện; các gia đình thì cho các
sinh viên nƣớc ngoài ở; các chiến dịch “lau sạch, sơn, sửa chữa” để góp phần làm đẹp
cộng đồng; các tổ chức bảo vệ động vật hoang dã và nhiều tổ chức khác nữa...
Các chiến dịch giáo dục: Khi ngƣời Mỹ nhận thấy có một vấn đề xã hội, họ có
thể nhanh chóng thành lập một chiến dịch giáo dục để công chúng có thể nhận ra
những nguy hiểm của vấn đề đó và khuyên nhủ mọi ngƣời để có những biện pháp
phòng ngừa hay sửa chữa. Do vậy, có những vấn đề liên quan đến hút thuốc, thuốc
phiện, lạm dụng trẻ con và nhiề căn bệnh khác nữa.
Sự tư cải thiện: Ngƣời Mỹ cho rằng bản thân họ có thể tự cải thiện mình. Nhờ sự
tự tìm tòi, qua những gì họ đọc, họ thấy và thông qua các câu lạc bộ họ tham gia,
ngƣời Mỹ có thể cai thuốc, rƣợu, giảm cân và cố gắng để thời gian của họ có hiệu quả
nhất, tốt hơn trong công việc, tự cải thiện họ theo nhiều cách khác.
Ngƣời Mỹ thƣờng nói rằng “ở đâu có ý chí, ở đó có tƣơng lai”. Ngƣời mà đang
có khát vọng là cho cuộc sống tốt hơn thì ƣớc muốn đó của họ sẽ đạt đƣợc miễn là họ
có một động cơ đủ mạnh.
g. Thời gian
Đối với ngƣời Mỹ, thời gian chính là nguồn của cải quý giá giống nhƣ nƣớc hay
than đá, cái mà con ngƣời có thể sử dụng tốt và cũng có thể sử dụng không tốt: “Thời
gian là tiền bạc”, “Cuộc đời bạn chỉ có từng ấy thời gian và bạn nên biết cách sử dụng
một cách khôn ngoan”... Ngay từ rất bé, ngƣời Mỹ đã đƣợc dạy rằng tƣơng lai không
thể tốt hơn quá khứ và hiện tại nếu con ngƣời ta không sử dụng thời gian của mình cho
những mục đích củng cố xây dựng và có định hƣớng cho tƣơng lai. Vì thế nên ngƣời
Mỹ tỏ ra rất khâm phục ngƣời có “đầu óc tổ chức tốt”, những ngƣời thƣờng viết ra họ
sẽ làm gì trong ngày. Con ngƣời có lý tƣởng theo họ phải là ngƣời đúng giờ và biết
quý trọng thời gian của ngƣời khác.
Thái độ về thời gian không đƣợc số đông trên thế giới chia sẻ, nhất là không phải
là châu Âu. Họ có thể coi thời gian nhƣ một cái gì đó đơn giản nhƣng vô hình ở xung
quanh họ chứ không phải là một cái gì đó mà họ có thể sử dụng đƣợc. Một trong
những điều khó đối với ngƣời nƣớc ngoài sống ở Mỹ là phải điều chỉnh để mình quen
với khái niệm thời gian cần phải tiết kiệm bất cứ khi nào có thê và hàng ngày phải biết
cách sử dụng cho khôn ngoan.
Trong cố gắng để sử dụng thời gian cho tốt, ngƣời Mỹ bị ngƣời nƣớc ngoài nhìn
nhận rằng, họ giống nhƣ những cỗ máy, những sinh vật không có cảm xúc. Do luôn
quá coi trọng thời gian nên họ không thể tham gia hay hoà đồng vào cộng đồng chung
của loài ngƣời, điều mà thực sự rất quan trọng trong cuộc sống.
Hiệu quả mà ngƣời Mỹ đặt lên hàng đầu có mối quan hệ chặt chẽ đến quan niệm
của họ về tƣơng lai, sự thay đổi và thời gian. Làm điều gì đó có hiệu quả tức là làm
theo một cách nhanh nhất và ít tốn kém nhất.
h. Thẳng thắn và tự tin
Ngƣời Mỹ luôn cho rằng họ rất trung thực, thẳng thắn, cởi mở khi họ giao tiếp
với ngƣời khác. Họ có thể không ngần ngại nói rằng: “Hãy lật ngửa ván bài lên” hay
“Thôi khỏi cần đánh đố nhau nữa, hãy đi thẳng cào vấn đề đi”... Những câu này và
nhiều câu khác nữa thƣờng mà ngƣời Mỹ thƣờng dùng muốn nói nên rằng ngƣời ta
nên nói thẳng những gì họ nghĩ và họ muốn từ ngƣời khác. Ngƣời Mỹ cho rằng các
mâu thuẫn có thể đƣợc giải quyết bằng những cuộc nói chuyện thẳng thắn. Từ “tự tin”
là tính từ dùng để nói về một ngƣời mà họ trình bày ý kiến một cách rõ ràng và thẳng
thắn. Ngƣời mà không đủ lòng tự tin có thể tham dự vào các khoá học “đào tạo lòng tự
tin”.
Ngƣời Mỹ thƣờng sẽ nói thẳng thắn và cởi mở những điều họ không thích. Họ cố
gắng duy trì phong thái “xây dựng” khi nói những điều nhƣ thế có nghĩa là ngƣời nghe
sẽ không cảm thấy bị xúc phạm hay không thể chấp nhận. Nếu nhƣ họ không thể nói
ra bằng lời thì họ sẽ thể hiện bằng hành động, ví dụ nhƣ qua nét mặt, động tác, lời nói.
Họ không cho là sai nếu thể hiện cảm xúc của mình trong một chừng mực nhất định.
Nhiều ngƣời châu Á cảm thấy xấu hổ về phản ứng mạnh mẽ của ngƣời Mỹ về một vấn
đề nào đó. Nói tóm lại, ngƣời Mỹ thì thẳng thắn và cởi mở hơn những ngƣời khác ở
các nƣớc khác.
i. Thay cho lời kết
Chủ nghĩa cá nhân, sự bình đẳng, sự thoải mái, tƣơng lai thay đổi và tiến bộ, bản
chất thánh thiện của con ngƣời cùng với ý niệm về thời gian đã hình thành nên hệ
thống tƣ tƣởng của ngƣời Mỹ. Đó là những giá trị và giả định đã góp phần tạo nên
phong cách sống của ngƣời Mỹ và nét riêng biệt đối với các quốc gia khác.
Đánh giá một cách khách quan thì những quan niệm về giá trị và giả định của
ngƣời Mỹ có mặt tiến bộ, mà điều đáng nói nhất là vai trò chủ đạo của con ngƣời đƣợc
đƣa lên hàng đầu. Nếu một ai đó đang sống ở một xã hội khác mà ở đó quy tắc xã hội
hà khắc thì khi đến nƣớc Mỹ, cái đầu tiên mà họ cảm nhận đƣợc là không khí tự do,
dân chủ. Lúc đó có thể họ sẽ tìm thấy lại đƣợc cái tôi của chính mình. Do vậy các giá
trị và giả định của ngƣời Mỹ nhƣ vậy đã khẳng định lại vai trò của mỗi một con ngƣời
đối với xã hội, đã tạo cho bất cứ ai cũng có thể có cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, nói
nhƣ thế không có nghĩa là các giá trị và giả định của họ là vẹn toàn, mà đôi lúc ta cũng
có thể tìm thấy sự thái quá trong đó, ví dụ nhƣ quan niệm về chủ nghĩa cá nhân chẳng
hạn, tình trạng bất bình đẳng dân tộc, bất bình đẳng thu nhập, những hiện tƣợng tha
hoá con ngƣời. Nếu quá tôn sùng mà thiếu đi sự cân bằng thì điều đó có thể làm cho
con ngƣời ta trở nên vị kỷ, điều mà ít nhiều một số ngƣời nƣớc ngoài đã thấy ở ngƣời
Mỹ. Nhƣng xét cho cùng, từ tƣ tƣởng để đi đến hành vi là cả một vấn đề và điều đó
phụ thuộc vào mỗi cá nhân và nhiều điều kiện khác nữa.
Nếu so sánh với các nƣớc Tây Âu nhƣ Pháp, Anh, Italia... thì có thể nói cuộc
sống ở Mỹ gấp gáp hơn, văn hoá Mỹ mang tính thƣơng mại cao hơn và có nhiều biểu
hiện của chủ nghĩa cực đoan. Về phƣơng diện nào đó, văn hoá Mỹ đồng cảm với chủ
trƣơng của các nhà vạch chính sách Mỹ là khuếch trƣơng một số khía cạnh văn hoá
Mỹ, lối sống Mỹ ra các khu vực khác trên thế giới, làm cho văn hoá Mỹ chiếm vị trí
thƣợng phong, đƣợc hoan nghênh và hỗ trợ cho kỳ vọng nƣớc Mỹ luôn mạnh nhất thế
giới, chỉ huy đƣợc các quốc gia khác, mọi quyền lợi (kể cả văn hoá) của họ phải ít
nhiều phục vụ cho chủ nghĩa thực dụng của Mỹ.
4. Quan niệm về kinh tế – xã hội của con người Mỹ
a. Ngày nay Mỹ và hầu hết mọi khu vực khác đều phải thích ứng với các giá trị
phổ biến của tiến bộ xã hội như:
Cuộc cách mạng công nghệ - thông tin làm cho mọi hoạt động con ngƣời (chính
trị, kinh tế, văn hoá - xã hội) đƣợc trí tuệ hoá ngày càng cao. Đến lƣợt nó, sự trí tuệ
hoá hoạt động của con ngƣời là cái thay đổi tận gốc bản chất của mọi mối quan hệ
giữa ngƣời và ngƣời, trong đó có đời sống văn hoá tinh thần nói riêng.
Dân trí ở những quốc gia trên cũng đƣợc nâng theo: chính trị, kinh tế, văn hoá sẽ
phục vụ tới đa số cộng đồng hơn. Đó là một mệnh lệnh của lịch sử chứ không thuần
tuý chỉ là vấn đề đạo đức học hay tƣ tƣởng chính trị.
Cũng chính cuộc cách mạng công nghệ - thông tin đã đƣa đến sự quốc tế hoá đời
sống nhân loại. Không những nền kinh tế thị trƣờng mang tính quốc tế, tính toàn cầu
mà lĩnh vực văn hoá cũng có những cởi mở, trao đổi, hợp tác giữa các dân tộc với
nhau để các dân tộc hiểu nhau hơn, tăng cƣờng giao lƣu, hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau
để cùng tồn tại và phát triển.
Các nƣớc tƣ bản nói chung và Mỹ nói riêng có những đặc điểm chung của hệ
thống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Cơ chế thị trƣờng, nhất là thị trƣờng cạnh
tranh xuất hiện có ý nghĩa nhƣ một cơ chế bảo đảm tình hiệu quả trong việc phát hiện
những nhu cầu xã hội và việc hình thành những cân đối của sản xuất xã hội (tất nhiên
là phụ thuộc vào khả năng điều tiết, hạn chế tác động mặt trái vốn có của kinh tế thị
trƣờng ở từng nƣớc ra sao?).
Trên thực tế, sự thành công của nền kinh tế thị trƣờng của nhiều nƣớc không chỉ
đem lại sự phồn vinh cho quốc gia mà còn góp phần tạo thuận lợi cho văn hoá phát
triển (tuy cũng có một số hạn chế nhất định). Tiến bộ khoa học, công nghệ đã góp
phần làm cho văn hoá đến đƣợc nhiều ngƣời. Không phải ngẫu nhiên, trong thông điệp
Liên bang ngày 27/1/1998, Tổng thống Bill Clinton đã tự hào nói: nƣớc Mỹ là nơi mà
mọi đứa trẻ đều có thể với tay lên bàn máy tính và đƣợc “chạm” vào mọi cuốn sách
đƣợc viết ra, mọi bức tranh đƣợc vẽ nên, mọi bản nhạc giao hƣởng đƣợc sáng tác...
Chính nền văn hoá hƣớng tới chủ nghĩ nhân văn, hƣớng tới hoàn thiện cá nhân,
xử lý tốt quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng sé ảnh hƣờng trở lại làm cho xã hội phát
triển lành mạnh; đáng tiếc là tại những cƣờng quốc nhƣ Mỹ và nhiều nƣớc khác, bên
cạnh những thành tựu còn có những mảng tối - đó là các tệ nạn xã hội và bạo lực
khủng bố, tệ mãi dâm, tuyên truyền khiêu dâm... làm xói mòn đạo đức, con ngƣời phải
chịu những sức ép to lớn của sự cạnh tranh, sự phân cách giàu nghèo quá mức, nhiều
ngƣời bế tắc tinh thần... và đấy cũng là những thách thức to lớn đối với nhiều quốc gia.
Nhìn chung, theo các chuyên gia thì tuy văn hoá Mỹ đã định hình rõ nét, xác lập
đƣợc vị trí của mình những nó cũng vẫn có xu hƣớng mang tính phổ biến. Đó là:
Về tính chất: Văn hoá mang tính công nghiệp ở Mỹ đã và đang chuyển mạnh
sang văn hoá tin học. Sự thành công của xã hội ngay càng phụ thuộc rất lớn vào việc
thu nhận thông tin và khả năng truyền tải và xử lý thông tin.
Về tính hỗ tương: Trƣớc đây, Mỹ thích chủ động tuyên truyền áp đặt cái mà họ
gọi là “văn hoá Mỹ, lối sống Mỹ” cho nhiều nƣớc.Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá
mạnh mẽ, có nhiều yếu tố văn hoá mang tính dộng, các nƣớc tăng cƣờng sự hợp tác
với các quốc gia và dân tộc mình, họ chủ động học tập điều tốt ở nƣớc Mỹ, và nƣớc
Mỹ cũng tích cực hơn trong việc thu nhận những tinh hoa văn hoá từ bên ngoài.
Về quyền lực trong văn hoá (chỉ tƣ cách sáng tạo, việc tiếp nhận, hƣởng thụ và
khả năng chi phối văn hoá): Từ chỗ bị một số ngƣời của giai cấp cầm quyền và tầng
lớp văn nhân lũng đoạn, nền văn hoá Mỹ có những bƣớc chuyển sang sự bình đẳng
hơn nhiều mặt do tin học phát triển. Cơ cấu văn hoá thay đổi do mạng lƣới tin học
thống nhất hình ảnh, âm thanh, màu sắc, ngôn ngữ... đã giúp đông đảo công chúng
tham gia vào quyền lực nói trên.
Các tầng lớp văn hoá Mỹ hỗn dung, tƣơng hợp, nhƣng có đỉnh cao: Khi văn hoá
lũng đoạn không chiếm địa vị chủ yếu thì văn hoá đại chúng sẽ nổi dần lên, có một vị
tri hẳn hoi. Đại chúng ở đây không có nghĩa là không văn hoá, mà là văn hoá mang
tính phổ cập, cùng sự phát triển dân trí sẽ là khoảng cách giữa các nhà văn hoá và phi
văn hoá, giữa chuyên gia và ngƣời thƣờng càng thu hẹp. Tuy nhiên, ở đất nƣớc mà chủ
nghĩa cá nhân phát triển ở mức cao, pháp luật rõ ràng, tổ chức xã hội khá chặt thì việc
thẩm định giá trị cũng khắt khe. Nếu muốn cả xã hội công nhận tác phẩm của mình,
coi là đỉnh cao thì phải chấp nhận cạnh tranh, thi dấu, sàng lọc... thật nghiêm khắc.
Có thể thấy sự khác biệt giữa ngƣời Mỹ và ngƣời Á Đông qua bảng sau:
NĂM GIÁ TRỊ CON NGƯỜI QUAN TRỌNG NHẤT
1.
2.
3.
4.
5.
Ngƣời Đông Á
Cần cù
Hiếu học
Trung thực
Tự lực cánh sinh
Kỷ luật
1.
2.
3.
4.
5.
Ngƣời Mỹ
Tự lực cánh sinh
Thành đạt cá nhân
Cần cù
Thành công trong cuộc sống
Giúp đỡ mọi ngƣời
SÁU GIÁ TRỊ XÃ HỘI QUAN TRỌNG NHẤT
Ngƣời Đông Á
Ngƣời Mỹ
1. Một xã hội trật tự
1. Tự do ngôn luận
2. Sự hoà nhập xã hội
2. Sự hoà nhập xã hội
3. Các quan chức có trách nhiệm
3. Quyền cá nhân
4. Cởi mở đón nhận tƣ tƣởng
4. Tự do tranh luận
mới
5. Tự do ngôn luận
5. Suy nghĩ về bản thân
6. Tôn trọng chính quyền
6. Các quan chức có trách nhiệm
1.
2.
3.
4.
5.
QUAN NIỆM KHÁC VỀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Ngƣời Đông Á Ngƣời Mỹ
Giá trị
Thực hiện nghĩa vụ đối với ngƣời khác
39%
19%
Thành công trong cuộc sống
50%
59%
Thành đạt cá nhân
33%
59%
Hiếu học
69%
15%
Kỷ luật cá nhân
48%
22%
Trong xã hội Mỹ hiện nay, dù nền kinh tế phát triển, lạm phát và thất nghiệp
thấp, song vẫn còn không ít thanh niên không có việc làm, họ không đủ thu nhập đẻ
tạo dựng một gia đình cho chính mình. Nhiều ngƣời trong số họ vẫn phụ thuộc vào sự
trợ giúp của bố mẹ. Ngoài ra, sự phát triển của y tế và sự gia tăng dân số đã làm cho tỷ
lệ ngƣời già phát triển nhanh, họ phải dựa vào con cái về tài chính và cùng sống trong
một mái nhà. Với những quốc gia khác, tình trạng trên là bình thƣờng, nhƣng ở Mỹ thì
đó là trƣờng hợp ngoại lệ trong suốt thế kỷ 20 này. Nói một cách tổng quát rằng, ngƣời
Mỹ ngày nay lớn lên từ một gia đình hạt nhân, cha mẹ cùng những ngƣời con, họ
không đƣợc chuẩn bị đầy đủ về tài chính và tình cảm để có thể mở mang cuộc sống gia
đình tốt hơn. Mặt khác, các hộ độc thân (phần lớn là phụ nữ) đang tăng nhanh. Sự ổn
định và các nguồn để tạo nên gia đình hạt nhân không phải lúc nào cũng thuận tiện,
đặc biệt với các gia đình chỉ có một bố hoặc một mẹ.
- Xem thêm -