Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH VNEN TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ SỐ THẬP PHÂN Ở LỚP 5 TẠI TR...

Tài liệu THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH VNEN TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ SỐ THẬP PHÂN Ở LỚP 5 TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 PHÚ BÀI.

.DOCX
56
915
77

Mô tả:

Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH VNEN TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ SỐ THẬP PHÂN Ở LỚP 5 TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 PHÚ BÀI. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Trong điều kiện toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, trước sự đổi mới ngày càng toàn diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, nền giáo dục cũng có nhiều đổi mới theo hướng tích cực. Chúng ta đã quan tâm nhiều đến việc đổi mới dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý thức vươn lên trong học tập nhằm đào tạo một nguồn nhân lực dồi dào, đầy đủ phẩm chất, trí tuệ góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, chất lượng lao động con người phụ thuộc vào hiệu quả đào tạo ở bậc Tiểu học. Chính vì thế mà trong nhiều năm qua nhà nước ta đã triển khai nhiều giải pháp đổi mới giáo dục ở Tiểu học, trong đó mô hình trường học mới và thay đổi đánh giá học sinh tiểu học là những bước tiến quan trọng. Việc áp dụng mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) đã đánh dấu một bước đột phá mới của bậc giáo dục Tiểu học với một loạt hoạt động đổi mới: đổi mới về tổ chức lớp học, về tài liệu dạy – học, về phương pháp dạy – học, về đánh giá học sinh, về quan hệ với cha mẹ học sinh và cộng đồng. 1.2. Mô hình trường học mới (VNEN) được bắt đầu triển khai thí điểm từ năm 2012, cho đến nay có 2076 trường tiểu học áp dụng mô hình trường học mới này và bước đầu đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Mô hình VNEN là mô hình giáo dục được cải tiến nhằm khắc phục những hạn chế của giáo dục truyền thống; là quá trình tổ chức cho học sinh hoạt động để khám phá và chiếm lĩnh các kiến thức và kỹ thức mới. Bản chất quá trình học tập của VNEN được Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 1 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 diễn ra thông qua đối thoại và tương tác lẫn nhau giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên. Ưu điểm nổi bật của mô hình dạy học này là rèn luyện cho học sinh sự tự tin, tích cực, bản lĩnh chủ động xử lý các tình huống trong cuộc sống. 1.3. Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán ở Tiểu học có vị trí vô cùng quan trọng, nhất là Toán 5 vì kiến thức của lớp học này bao hàm kiến thức của các lớp dưới và tạo nền tảng để học sinh học tốt môn học ở bậc Trung học cơ sở. Trong chương trình môn Toán trường Tiểu học, số học được coi là mảng kiến thức cốt lõi. Và trong mảng kiến thức số học, cùng với số tự nhiên, nội dung số thập phân được coi là quan trọng. Bởi để học có hiệu quả về số thập phân và các phép tính với số thập phân, học sinh phải huy động các kiến thức, kỹ năng về số tự nhiên, phân số, số đo đại lượng và các phép tính với các loại số này đã được học từ lớp 1 đến lớp 4. Ngược lại khi học và thực hành với số thập phân học sinh vừa hiểu sâu sắc hơn các kiến thức đã học, vừa hệ thống hoá và củng cố kiến thức về các phép tính đã học. Hơn nữa khả năng ứng dụng của số thập phân vào thực tế là rất lớn. 1.4. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học hiện nay, việc vận dụng mô hình VNEN trong dạy học chủ đề số thập phân ở các trường tiểu học bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận thì vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập. Nhiều giáo viên tiểu học vẫn còn băn khoăn làm sao cho việc dạy học khi dạy chủ đề số thập phân theo mô hình VNEN thực sự hiệu quả, làm sao cho các em vận dụng tốt những kiến thức về số thập phân đã được học vào trong đời sống thực tiễn…. Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng việc áp dụng mô hình VNEN trong dạy học chủ đề số thập phân ở lớp 5 tại trường Tiểu học số 2 Phú Bài”. 2. Lịch sử vấn đề Mô hình trường học VNEN là vấn đề đang được ngành giáo dục và xã hội quan tâm, vì thế hiện nay cũng có khá nhiều đề tài nghiên cứu về nội dung này: Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 2 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 - Mai Hoàng Anh (2014), Biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán lớp 2 theo mô hình trường học mới, Luận văn thạc sĩ này đã đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học ở môn Toán lớp 2. - Mai Thị Phương Quỳnh (2014), Thiết kế bài toán thực tiễn cho hoạt động ứng dụng trong dạy học các các yếu tố hình học theo mô hình trường tiểu học mới, Nghiên cứu khoa học cấp trường Đại học Sư Phạm Huế đã thiết kế bài toán thực tiễn cho hoạt động ứng dụng thuộc chủ đề các yếu tố hình học ở lớp 5 nhằm rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng, sáng tạo, linh hoạt các kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần hoàn thiện nội dung chương trình dạy học cũng như nhân cách học sinh. - Nguyễn Thị Thu Dung (2014), Phân tích chương trình dạy học Toán theo mô hình VNEN ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp đã khái quát lên nội dung chương trình dạy học Toán theo mô hình VNEN. - Nguyễn Thị Yến Nhi (2015), Dạy học Toán 3 – Mô hình trường học mới tại Việt Nam theo hướng phát triển năng lực biểu đạt cho học sinh, Khóa luận tốt nghiệp đã đề xuất những biện pháp nhằm phát triển năng lực cho học sinh trong quá trình dạy học Toán 3. - Mã Thanh Thủy (2014), Nghiên cứu triển khai “Mô hình trường học mới Việt Nam” tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng đã nghiên cứu thực tiễn của việc triển khai mô hình trường học mới tại Việt Nam ở trường Hòa Phú, huyện Phú Vang thành phố Đà Nẵng và đề xuất một loạt giải pháp triển khai đại trà mô hình VNEN ở huyện Phú Vang, thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra còn có nhiều bài viết, những chuyên đề đề cập đến mô hình trường học VNEN và thực trạng áp dụng mô hình trường học mới này tại Việt Nam được đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các website, sách báo và tạp chí. Các nghiên cứu kể trên đề cập đến các cạnh khác nhau của mô hình VNEN nhưng hiện chưa có đề tài nào nghiên cứu về “Thực trạng áp dụng mô Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 3 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 hình trường học mới trong dạy học số thập phân ở lớp 5 tại trường Tiểu học số 2 Phú Bài”. 3. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng áp dụng mô hình VNEN trong dạy học chủ đề số thập phân ở lớp 5 của trường Tiểu học số 2 Phú Bài để đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần khắc phục những khó khăn còn tồn tại và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng mô hình trường học mới này trong dạy học chủ đề số thập phân ở lớp 5 tại trường tiểu học khảo sát. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu vấn đề lí luận về những điểm cần lưu ý của mô hình trường học VNEN - Nghiên cứu nội dung dạy học chủ đề số thập phân ở lớp 5. - Khảo sát thực trạng của việc áp dụng mô hình VNEN trong dạy học chủ đề số thập phân ở lớp 5 tại trường Tiểu học số 2 Phú Bài. - Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần khắc phục những khó khăn còn tồn tại của nhà trường khi dạy học chủ đề số thập phân lớp 5 theo mô hình VNEN. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng áp dụng mô hình VNEN trong dạy học môn Toán. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng áp dụng mô hình trường học mới trong dạy học số thập phân lớp 5 tại trường Tiểu học số 2 Phú Bài. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nghiên cứu các tài liệu, sách, các công trình nghên cứu liên quan đến mô hình VNEN; nghiên cứu chương trình sách hướng dẫn theo mô hình VNEN để đưa ra cơ sở lí luận của đề tài. - Phương pháp điều tra, khảo sát: tìm hiểu thực trạng áp dụng mô hình VNEN trong dạy học số thập phân ở lớp 5 tại trường Tiểu học số 2 Phú Bài. Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 4 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 - Nhóm phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu: Căn cứ vào số liệu đã có trong quá trình điều tra, khảo sát thực tế để thống kê, xử lí và phân tích số liệu. Sau đó so sánh, đối chiếu để rút ra những kết luận cần thiết về thực trạng áp dụng mô hình VNEN trong dạy học số thập phân ở lớp 5 tại trường Tiểu học số 2 Phú Bài. 7. Giả thuyết khoa học Nếu nhận thức rõ thực trạng việc áp dụng mô hình trường học mới trong dạy học số thập phân và vận dụng tốt các giải pháp khắc phục những khó khăn còn tồn tại trong quá trình dạy học thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học số thập phân ở lớp 5 nói riêng và dạy học Toán ở Tiểu học nói chung, từ đó đạt được mục tiêu dạy học đã đề ra. 8. Cấu trúc đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Mục lục, phần Nội dung đề tài gồm hai chương: Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Thực trạng áp dụng mô hình VNEN trong dạy học chủ đề số thập phân ở lớp 5 tại trường Tiểu học số 2 Phú Bài. Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 5 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) 1.1.1. Sơ lược về mô hình VNEN Mô hình EN (Escuela Nueva – trường học mới) là hình mẫu giáo dục tiên tiến, đầy sáng tạo của Vicky Colbert de Arboleda và các giáo viên vùng nông thôn ở Comlombia từ cuối những năm 1970. Escuela Nueva mang đến cho học sinh một môi trường học tập tích cực, chú trọng sự tham gia và hợp tác của học sinh, với nội dung học tập phù hợp với hoàn cảnh sống của các em. Những nét tiêu biểu của mô hình trường học mới EN đó là: thay đổi truyền thống dạy học lấy giáo viên làm trung tâm bằng các hoạt động, bằng sự tham gia và cách học tập hợp tác; tăng cường mối quan hệ giữa trường học và cộng đồng và cung cấp một thời khóa biểu linh hoạt cũng như một hệ thống đánh giá mới phù hợp với nhu cầu của trẻ em. Chính vì thấy được những lợi ích mà Escuela Nueva đem lại nên đã có rất nhiều nước triển khai áp dụng mô hình trường học mới này, trong đó có Việt Nam. Mô hình trường học mới tại Viêt Nam (VNEN) là dự án do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Qũy hỗ trợ phát triển giáo dục toàn cầu (GPE – Global Partnership for Education) triển khai ở các trường Tiểu học trên toàn quốc. Mô hình VNEN được triển khai thử nghiệm ở 6 tỉnh năm học 2011 - 2012, đến thời điểm 2012 - 2013 thực hiện trên 63 tỉnh, thành phố và 1447 trường Tiểu học đến thời điểm. Đặc biệt, năm học 2013-2014 có lên đến trên 1650 trường dạy học theo VNEN. Dự án thực hiện trong 3 năm 9/2012 - 9/2015: năm học 2012 2013 thí điểm lớp 2, 3; năm học 2013 - 2014 thí điểm lớp 2, 3, 4 năm học 2014 2015 thí điểm lớp 2, 3, 4, 5. Tại Thừa Thiên Huế, 9 trường tiểu học tại các huyện, thị xã, thành phố đã được chọn thí điểm triển khai chương trình “Mô hình trường học mới Việt Nam”. Mô hình VNEN là mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản: Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 6 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 Học sinh được học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân; nội dung học thiết thực, gắn kết vớ đời sống thực tiễn hàng ngày của học sinh; kế hoạch dạy dọc được bố trí linh hoạt; môi trường học tập thân thiện, phát huy tin thần dân chủ, ý thức tập thể; tài liệu có tính tương tác cao; chú trọng kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác; phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, cộng đồng và nhà trường; tăng quyền chủ động cho giáo viên, phát huy vai trò tích cực, sang tạo của các cấp quản lí giáo dục địa phương. 1.1.2. Những điểm cần lưu ý trong dạy theo theo mô hình VNEN Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học. 1.1.2.1. Mục tiêu dạy học Mục tiêu dạy học theo mô hình VNEN cũng có nhiều điểm tương tự như mô hình cũ. Tuy nhiên, mục tiêu dạy học theo VNEN chủ yếu hướng vào người học hướng vào việc chuẩn bị cho học sinh sớm thích ứng với đời sống xã hội, hòa nhập và phát triển cộng đồng, tôn trọng nhu cầu, lợi ích, tiềm năng của học sinh, giúp học sinh phát triển toàn diện nhân cách. Cụ thể: Về kiến thức, cũng như mô hình dạy học truyền thống học sinh được trang bị những kiến cơ bản, đặc trưng của từng môn học. Tuy nhiên, theo mô hình VNEN học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức trên chính con đường tìm tòi và khám phá của các em chứ không phải thụ động tiếp thu những kiến thức đã được sắp đặt sẵn. Giáo viên đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ các em khi gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm tri thức. Về kĩ năng, dạy học theo mô hình mới này học sinh được thực hành, quan sát trực tiếp, làm thí nghiệm, thảo luận nhiều.... và được đặt vào những tình huống của thực tế cuộc sống gần gũi và quen thuộc với các em. Chính vì thế bên cạnh những kĩ năng cần đạt được của từng môn học, học sinh có cơ hội phát triển và rèn luyện nhiều kĩ năng cần thiết cho cuộc sống: Kĩ năng làm việc Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 7 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 nhóm, kĩ năng làm nhóm trưởng; kĩ năng giao tiếp, diễn đạt lời nói mạch lạc, rõ ràng; kĩ năng đánh giá và tự đánh giá.... Đặc biệt, mục tiêu dạy học theo mô hình VNEN chú trọng nhiều vào năng lực của các em thông qua các hoạt động thực hành, hoạt động ứng dụng, thảo luận như: năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực tư duy, năng lực tự học, năng lực biểu đạt.... Từ đó góp phần bồi dưỡng cho học sinh phương pháp học, phương pháp suy nghĩ, tính tích cực, độc lập, chủ động và sáng tạo trong học tập và cuộc sống. Đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác, tinh thần tập thể, đoàn kết và tinh thần cộng đồng cho mỗi học sinh, qua đó hoàn thiện nhân cách các em. 1.1.2.2. Chương trình dạy học Nội dung chương trình dạy học theo VNEN giống hoàn toàn nội dung chương trình theo mô hình dạy học truyền thống do Bộ GD&ĐT ban hành. 1.1.2.3. Tài liệu dạy học Tài liệu giảng dạy cho học sinh không phải là sách giáo khoa thông thường mà là tài liệu hướng dẫn học tập. Tài liệu này được xây dựng trên cơ sở giữ nguyên chương trình nội dung sách giáo khoa hiện hành cũng như chuẩn kiến thức, kỹ năng nhưng có thêm điểm mới là tài liệu được biên soạn lại, sắp xếp “ba trong một” gồm: Sách giáo khoa, sách giáo viên và sách hướng dẫn học sinh tự học thành một tài liệu chung. Do đó, trong một quyển sách, học sinh có thể tự học, tự làm bài, giáo viên hướng dẫn trên đó và cả phụ huynh cũng có thể sử dụng để hướng dẫn con em mình. Tài liệu được phát miễn phí cho tất cả các em học sinh gồm: một bài học theo thiết kế của mô hình VNEN có ba hoạt động, đó là hoạt động cơ bản (học sinh tự trải nghiệm, khám phá để hình thành kiến thức mới), hoạt động thực hành (áp dụng kiến thức đã học vào bài tập) và hoạt động ứng dụng (học sinh hiểu và vận dụng kiến thức vào cuộc sống). 1.1.2.4. Cấu trúc bài dạy Bài học mô hình VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh nhằm giải quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, củng cố, vận Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 8 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 dụng, ứng dụng kiến thức vào thực tế. Mỗi bài học được thiết kế theo cấu trúc sau: Cấấu trúc bài dạy Tên bài Mục têu Hoạt động cơ bản Các hoạt động Hoạt động thực hành ạt động ứng dụng Ho Sơ đồ 1: Cấu trúc bài học Trong đó: Phần hoạt động cơ bản giúp học sinh học qua trải nghiệm, học qua việc làm thực tế, học qua tìm tòi, khám phá, phát hiện với sự hỗ trợ, giúp đỡ thích hợp với giáo viên. Phần hoạt động thực hành thể hiện các hoạt động thực hành của học sinh nhằm củng cố, rèn luyện, phát triển các kiến thức, kĩ năng vừa học. Phần hoạt động ứng dụng khuyến khích học sinh bước đầu biết vận dụng kiến thức trong thực tế cuộc sống. Nhấn mạnh sự quan tâm, hỗ trợ học sinh học tập từ phía gia đình và cộng đồng. Khuyến khích học sinh mở rộng vốn kiến thức qua các nguồn thông tin khác nhau (từ gia đình, cộng đồng thôn xóm, làng bản, ….). Bắt đầu của mỗi hoạt động điều có 1 lô gô “lệnh” thực hiện để học sinh dễ dàng nhận ra yêu cầu và các hình thức tổ chức thực hiện hoạt độnghọc tập (học cá nhân, theo cặp, nhóm nhỏ, hoạt động chung cả lớp hoặc hoạt động với cộng đồng), cụ thể ở trang đầu của Tài liệu hướng dẫn các môn. Trong thiết kế bài học, trước mỗi hoạt động điều có các lô gô chỉ dẫn. Học sinh nhìn lô gô để biết hoạt động đó thực hiện cá nhân, hay nhóm đôi, nhóm lớn Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 9 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 hoặt chung cả lớp. Giáo viên nên hiểu lô gô hướng dẫn chỉ có tác dụng định hướng cho các nhóm học sinh hoạt động, không máy móc mà có thể điều chỉnh để hoạt động học của học sinh đạt hiệu quả. Lô gô làm việc cá nhân được hiểu là cá nhân làm việc là chính. Nhưng khi làm xong có thể đổi vở cho bạn để kiểm tra bài làm của nhau, hoặc báo cáo với nhóm kết quả mình đã làm được. Lô gô làm việc theo cặp đôi được hiểu là 2 học sinh làm việc là chính, cùng thảo luận, bàn bạc, trao đổi để thống nhất chung 1 kết quả từ đó trao đổi kết quả, tranh luận với các nhóm khác để chốt đáp án chung của các nhóm rồi báo cáo kết quả làm việc của nhóm cho giáo viên. Lô gô làm việc nhóm chủ yếu nhắc nhở học sinh hoạt động theo nhóm có sự tương tác trong nhóm để cùng giải quyết một nhiệm vụ học tập nào đó. Có lô gô hoạt động nhóm nhưng mỗi học sinh vẫn phải suy nghĩ, phải làm việc các nhân, nhóm không làm thay, học thay các nhân. Như vậy rất cần sự điều chỉnh linh hoạt của giáo viên để hoạt động học diễn ra tự nhiên, hiệu quả. Lô gô làm việc chung cả lớp được hiểu là cả lớp sẽ hoạt động: suy nghĩ, thảo luận, phát biểu ý kiến theo yêu cầu cùng với sự tham gia, hướng dẫn của giáo viên. Lô gô hoạt động với cộng đồng thường xuất hiện ở hoạt động ứng dụng. Đây là hình thức kiểm tra khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống của các em; nhắc nhở học sinh những công việc phải thực hiện ở nhà với sự giúp đỡ của người than, gia đình và cộng đồng để từ đó mở rộng vốn hiểu biết cho học sinh. 1.1.2.5. Phương pháp dạy học Đây là mô hình áp dụng phương pháp giảng dạy mới thay thế phương pháp dạy truyền thống với việc học sinh sẽ giữ vai trò trung tâm, giáo viên là người hướng dẫn và đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu kiến thức. Học sinh được tự học, hoạt động, trải nghiệm, hợp tác từ đó có được năng lực mới (kiến thức, kĩ năng, các phẩm chất, yếu tố khác của năng lực). Giáo viên chỉ tư vấn, hỗ trợ, tổ chức quá trình tự học của học sinh. Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 10 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 Điểm mới của đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học hợp tác. Thông qua làm việc nhóm và hợp tác với nhau các em có thể cùng làm việc với nhau những công việc mà mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. Sự thay đổi về phương pháp tổ chức dạy học đã tạo ra sự tiến bộ khá nhanh về năng lực tự học, năng lực hợp tác, tự quản, năng lực tự đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đồng thời giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp và trong các hoạt động giáo dục. 1.1.2.6. Hình thức tổ chức dạy học Việc học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp nhưng được sử dụng phổ biến nhất trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Hoạt động trong tập thể nhóm sẽ làm cho từng thành viên được bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết thái độ của mình, qua đó đựơc tập thể uốn nắn, điều chỉnh, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỉ luật, tinh thần tuơng trợ, ý thức cộng đồng. Hoạt động trong tập thể nhóm, tập thể lớp sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tập sẽ tăng lên nhất là phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành một nhiệm vụ xác định. Trong hoạt động hợp tác, mục tiêu hoạt động là chung của toàn nhóm nhưng mỗi cá nhân được phân công một nhiệm vụ cụ thể. Trong nhóm nhỏ, mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, không thể ỷ lại vào người khác, toàn nhóm phải phối hợp với nhau để cuối cùng đạt mục tiêu chung. Kết quả làm việc của từng nhóm được trình bày thảo luận trước lớp sẽ tạo một không khí thi đua giữa các nhóm, đóng góp tích cực vào kết quả chung của bài học. Mô hình trường học mới Việt Nam đưa vào đời sống học đường có tác dụng chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội, trong đó mỗi người sống và làm việc theo sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng. Trong mô hình VNEN, thường dùng bàn ghế cá nhân, có thể bố trí thay đổi linh hoạt cho phù hợp với hoạt động học tập trong tiết học, thậm chí theo Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 11 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 yêu cầu sư phạm của từng phần trong tiết học, nhiều bài học còn được tiến hành trong phòng thí nghiệm, ngoài trời, tại Viện bảo tàng hay cơ sở sản xuất… 1.1.2.7. Đánh giá học sinh Đánh giá học sinh là khâu quan trọng của quá trình dạy học. Nếu như theo mô hình dạy học truyền thống thì đây là khâu của giáo viên. Nhưng theo mô hình VNEN thì khâu này bao gồm đánh giá của cả giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh và cộng đồng. Cụ thể: Giáo viên đánh giá thông qua quan sát: - Tinh thần, thái đô ô học tâ p, tính tự giác, tích cực tham gia hoạt đô ng nhóm. ô ô - Tính hợp tác, thực hiê ôn điều hành của nhóm trưởng. - Kết quả thực hiê ôn các hoạt đô ng trong bài, đối chiếu với mục tiêu bài học. ô - Ghi chép của học sinh. Học sinh tự đánh giá: - Đánh giá viê ôc hoàn thành từng hoạt đô ng trong bài học. ô - Đánh giá kết quả đạt được sau mỗi hoạt đô ng, sau bài học. ô - Đánh giá viê ôc hoàn thành mục tiêu bài học. Đánh giá của nhóm: - Tinh thần, thái đô ô. - Sự tương tác với bạn bè. - Thời gian và chất lượng hoàn thành hoạt đô ng học. ô - Kết quả các hoạt đô ng học tâ p. ô ô Cô ông đồng đánh giá: - Có thường xuyên trò chuyê ôn với cha mẹ viê ôc học ở trường. - Có thực hiê ôn chăm sóc cây cối, vâ ôt nuôi, sức khỏe bản thân và người thân trong gia đình - Sự tự tin trong trao đổi, trò chuyê n, giao tiếp. ô - Khả năng diễn đạt, đối thoại, tương tác. - Sự chuyên cần trong học tâ ôp, tiến bô ô trong học tâ ôp. Mỗi đối tượng tham gia đánh giá học sinh theo mô hình VNEN đều có những công cụ đánh giá khác nhau. Cụ thể: Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 12 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 Đối với giáo viên: - Đánh giá thường xuyên : + Sổ ghi nhận xét của giáo viên qua theo dõi hoạt động học của học sinh trong các tiết học, ngày, tuần, tháng. + Các sản phẩm hoạt động học tập của học sinh (phiếu học tập, quá trình và kết quả thảo luận nhóm, tranh vẽ, bài viết ngắn, báo cáo kết quả sưu tầm, tìm hiểu, học sinh báo cáo kết quả hoạt động học tập với giáo viên, …) + Bảng đánh giá tiến độ học tập của học sinh theo nhóm. - Đánh giá định kì: bài kiểm tra, bài thi Đối với học sinh: - Bảng tự đánh - Báo cáo kết quả học tập với giáo viên sau mỗi hoạt động - Bảng đánh giá nhóm: Mỗi bài, mỗi ngày, mỗi tuần nhóm tự đánh giá, giới thiệu cá nhân có nhiều cố gắng trong học tập, hợp tác trong hoạt động nhóm. Đối với phụ huynh học sinh và cộng đồng - Bảng tổng hợp ý kiến đánh giá của cha mẹ học sinh và cô ông đồng. - Hoạt động thực tế ngoài lớp học - Việc thực hiện hoạt động ứng dụng với sự giúp đỡ của gia đình, cộng đồng (hoặc các hoạt động tham quan, ngoại khóa...) Như vậy, theo mô hình VNEN đối tượng tham gia đánh giá và công cụ đánh giá đa dạng và khách quan. Học sinh có quyền tự đánh giá mình và bạn bè để tự nhận ra những ưu điểm cần phát huy đồng thời rút ra những nhược điểm cần cố gắng khắc phục. Bên cạnh đó học sinh còn nhận được sự đánh giá của cả giáo viên, cha mẹ và cộng đồng để không ngừng hoàn thiện bản thân. Chính cách đánh giá theo mô hình VNEN đã mang lại cơ hội to lớn để từng học sinh tự nhận ra khả năng của mình và tự khẳng định mình. Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 13 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 1.1.3. Tổ chức dạy học 1.1.3.1. 5 bước dạy học Bước 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú cho học sinh Bước 2: Tổ chức cho học sinh trải nghiệm Bước 3: Phấn tch, khám phá, rút ra kiêấn thức mới Bước 4: Thực hành Bước 5:Vận dụng Sơ đồ 1: Quy trình 5 bước dạy học theo VNEN Trong đó: Bước 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú (bước khởi động) - Kết quả cần đạt: + Kích thích tính tò mò, khơi dạy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học; học sinh cảm thấy vấn đề nêu lên rất gần gũi với mình. + Không khí lớp học vui, tò mò, chờ đợi, thích thú. - Cách làm: đặt câu hỏi, đố vui, kể chuyện, đặt một tình huống, tổ chức trò chơi, … Hình thức thực hiện có thể với toàn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng học sinh. Bước 2: Tổ chức cho học sinh trải nghiệm - Kết quả cần đạt: + Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiện có sẵn của HS để chuẩn bị học bài mới. + HS trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa đựng những nội dung kiến thức, những thao tác, kỹ năng để làm nảy sinh kiến thức mới. - Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm gần gũi với học sinh. Nếu là tình huống diễn tả bằng lời văn thì câu văn phải đơn giản, gần gũi với học sinh. Hình thức thực hiện có thể với toàn lớp, nhóm nhỏ hoặc cá nhân từng học sinh. Bước 3: Phân tích, khám phá, rút ra kiến thức mới - Kết quả cần đạt: Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 14 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 + Huy động vốn hiểu biêt, khái niệm hay quy tắc lý thuyết, thực hành mới. + Nếu là một dạng toán mới thì HS phải nhận biết được dấu hiệu, đặc điểm và nêu được các bước giải dạng toán này. - Cách làm: Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp học sinh thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học. Bước 4: Thực hành - Kết quả cần đạt: + Học sinh nhớ dạng cơ bản một cách vững chắc; làm được các bài tập áp dụng dạng cơ bản theo đúng quy trình. + Học sinh biết chú ý tránh những sai lầm điển hình thường mắc trong quá trình giải bài toán dạng cơ bản. - Cách làm: + Thông qua việc giải những bài tập rất cơ bản để học sinh rèn luyện việc nhận dạng, áp dụng các bước giải và công thức cơ bản. Giáo viên quan sát, giúp học sinh nhận ra những khó khăn của mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện. + Tiếp tục ra các bài tập với mức độ khó dần lên phù hợp với khả năng của học sinh; giáo viên tiếp tục giúp các em giải quyết khó khăn bằng cách liên hệ lại với các quy tắc, công thức, cách làm, thao tác cơ bản đã rút ra ở trên. + Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng cá nhân hoặc theo nhóm, theo cặp đôi, theo bàn, theo tổ học sinh. Bước 5:Vận dụng - Kết quả cần đạt: + HS củng cố, nắm vững các nội dung kiến thức trong bài đã học. +HS biết vận dụng kiến thức đã học trong hoàn cảnh mới, đặc biệt trong những tình huống gắn với thực tế đời sống hàng ngày. + Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội và vận dụng kiến thức mới. - Cách làm: + Học sinh thực hành, vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức cơ bản của nội dung bài đã học. Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 15 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 + GV giúp HS thấy được ý nghĩa thực tế của các tri thức toán học từ đó khắc sâu kiến thức đã học. + Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ, cách hiểu của chính các em; khuyến khích học sinh tập phát biểu, tập diễn đạt bước đầu có lý lẽ, có lập luận. 1.1.3.2. 10 bước học tập Theo mô hình VNEN, việc học tập của học sinh tiến hành bằng 10 bước sau: Bước 1. Chúng em làm việc nhóm (nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng học tập). Bước 2. Em đọc Tên bài học và viết vào vở. Bước 3. Em đọc Mục tiêu bài . Bước 4. Em thực hiện Hoạt động cơ bản (nhớ xem làm việc cá nhân hay theo nhóm theo lôgô trong tài liệu). Bước 5. Kết thúc Hoạt động cơ bản, em tự đánh giá rồi báo cáo những việc đã làm được với thầy, cô giáo để thầy, cô xác nhận. Bước 6. Em thực hiện Hoạt động thực hành - Làm việc cá nhân - Em chia sẻ với bạn kề bên (giúp nhau sửa chữa những bài làm còn sai sót) - Em trao đổi với cả nhóm, sửa bài cho nhau, luân phiên nhau đọc (chú ý không làm ảnh hưởng đến nhóm khác). Bước 7. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo. Bước 8. Em thực hiện Hoạt động ứng dụng (với sự giúp đỡ của gia đình, người lớn). Bước 9. Kết thúc bài, em viết vào Bảng đánh giá. Bước 10. Em đã học xong bài mới em phải ôn lại phần nào? Như vậy, dạy học theo mô hình VNEN thì mỗi học sinh thực hiện đến trường luôn ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hoạt động học tập như thế nào, không cần chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên. Từ đó kích thích sự sáng tạo, rèn luyện tính độc lập học tập và sự tự tin trong mọi hoạt động cho học sinh. Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 16 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 1.1.4. Tổ chức lớp học 1.1.4.1. Hội đồng tự quản học sinh Theo mô hình của trường học mới, quản lí lớp học là Hội đồng tự quản học sinh, các ban trong lớp do học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn trong lớp tín nghiệm. Hội đồng tự quản học sinh là do học sinh với sự hướng dẫn của giáo viên tổ chức và thực hiện. Hội đồng tự quản học sinh được thành lập là vì học sinh, bởi học sinh và để đảm bảo cho các em tham gia một cách dân chủ, tích cực vào đời sống học đường; khuyến khích các em tham gia một cách toàn diện vào các hoạt động của nhà trường. Qua đó giúp các em phát triển tính tự chủ, sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác và đoàn kết của học sinh. Đồng thời bồi dưỡng các kĩ năng lãnh đao, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động cho các em. Hội đồồng tự quản HS Chủ tịch hội đồồng P.Chủ tịch hội đồồng P.Chủ tịch hội đồồng Ban học tập Ban thư viện Ban quyêồn lợi Ban đồấi ngoại Ban VN, TDTT Ban SK, vệ sinh Sơ đồ 2: Hội đồng tự quản học sinh Thành lập được một bộ máy Hội đồng tự quản học sinh của một lớp như trên đòi hỏi phải có sự tham gia của giáo viên, học sinh, khuyến khích phụ huynh và các tổ chức khác cùng tham gia. Giáo viên cần chuẩn bị về tư tưởng cho học sinh khi các em tham gia Hội đồng tự quản, những lợi ích có thể có của Hội đồng tự quản học sinh tới đời sống của chính các em trong nhà trường cũng như những vai trò, trách nhiệm mà các em cùng chia sẻ, gánh vác. Qúa trình thành lập Hội đồng tự quản như sau: Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 17 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 Trước bầu cử, học sinh dưới sự định hướng của giáo viên trao đổi về những phẩm chất, năng lực cần có của các bạn trong Hội đồng tự quản. Sau đó học sinh lập danh sách ứng cử và danh sách đề cử để bỏ phiếu bầu Hội đồng tự quản học sinh. Các học sinh trong danh sách ứng cử, đề cử bắt đầu chuẩn bị phần ứng cử của mình với nội dung: giới thiệu về bản thân, những mong muốn của em về lớp học, những việc em sẽ làm nếu như em trở thành Chủ tịch Hội đồng tự quản. Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho học sinh cảm thấy dân chủ, công bằng, bình đẳng và được học cách thuyết trình trước lớp. Bầu cử, một học sinh dưới sự hỗ trợ của giáo viên sẽ điều hành bầu cử. Các ứng viên lần lượt tranh cử bằng các bài thuyết trình đã chuẩn bị. Ban kiểm phiếubắt đầu làm việc. Học sinh có số phiếu cao nhất từ trên xuống sẽ trúng cử vào vị trí Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng tự quản học sinh.Chủ tịch và phó Chủ tịch ra mắt trước lớp. Thành lập các ban chuyên trách, học sinh đăng kí vào các ban theo nguyện vọng, sở thích. Sau đó, bầu trưởng ban rồi ra mắt trước tập thể. Số lượng các ban tùy theo tình hình lớp học và sự thống nhất giữa Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội đồng tự quản học sinh và học sinh trong lớp quyết định. Như vậy, quá trình thành lập Hội đồng tự quản sinh là quá trình bầu cử tự do, công bằng và dân chủ. Thông qua hoạt động này, học sinh tự giác hơn, phát huy tinh thần trách nhiệm, sáng tạo trong quản lí và chỉ đạo những công việc được giao. 1.1.4.2. Các góc học tập, góc thư viện, góc cộng đồng Theo mô hình VNEN, lớp học thường xây dựng các góc học tập cơ bản: góc Toán, góc Tiếng Việt, góc Tự nhiên và Xã hội, góc hoạt động giáo dục. Giáo viên cùng học sinh trang trí cho góc học tập, tìm những tài liệu, tranh ảnh, đồ dùng học tập liên để đưa vào từng góc học tập của lớp mình. Thư viện lớp học chỉ đơn giản là một tủ sách nhỏ. Thư viện được thiết kế không quá cao, không quá thấp so với tầm với của học sinh. Thư viện được đặt ở cuối lớp. Sách được xếp theo các chủ đề: truyện cổ tích, truyện dân gian, truyện cười… Tuy nhiên giáo viên có thể huy động học sinh đóng góp thêm vào tủ Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 18 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 sách. Các loại sách trong thư viện được sắp xếp, phân loại theo từng lĩnh vực để tiện cho việc sử dụng và quản lý sách. Góc cộng đồng là sự mô tả các thông tin về sản xuất, kinh doanh, ngành nghề, phong tục tập quán,…. của địa phương. Ngoài ra, góc cộng đồng còn là những “Điều em muốn nói” hay là những “Hộp thư bạn bè” do chính các em tự tay trang trí để các em bày tỏ những ý kiến, suy nghĩ, mong muốn hay đề nghị của mình. 1.1.5. Những thuận lợi, khó khăn khi dạy học theo mô hình VNEN 1.1.5.1. Thuận lợi Về phía giáo viên: - Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1 nên giáo viên chủ động hơn trong quá trình dạy học. - Học sinh từ lớp 1 lên, đa số các em đã biết đọc thông, viết thạo. - Học sinh hứng thú với môn học. - Mỗi bài học được xác định mục tiêu cụ thể. - Các hình thức dạy học thể hiện qua các lô gô cụ thể. Về phía học sinh: - Sách hướng dẫn học tập cụ thể, dễ hiểu; kênh hình và kênh chữ khá rõ ràng giúp học sinh tiếp cận bài học một cách dễ dàng. - Hứng thú với làm việc nhóm. - Chủ động, tích cực học tập theo 10 bước học tập và thông qua các lô gô hoạt động cụ thể. - Phát huy năng lực tự học, sáng tạo trong học tập. - Phát huy tốt các kĩ năng: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng đánh giá lẫn nhau trong giờ học. 1.1.5.2. Khó khăn Về phía giáo viên: - Tốn nhiều thời gian. - Đối tượng học sinh trong lớp có trình độ không đồng đều. - Không bao quát hết tất cả học sinh. Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 19 Bài tiểu luận: Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học 2 - Khó đánh giá chính xác mức độ nắm bài của từng cá nhân vì đa số các em đều làm theo nhóm. - Lớp học ồn ào, mất trật tự. - Học sinh tiểu học còn nhỏ, một số học sinh còn hạn chế kĩ năng sử dụng Tiếng Việt nên còn khó khăn trong việc giải quyết yêu cầu trong bài. - Một số em không có ý thức tự học, làm bài chậm, không hoàn thành được các bài tập như sách yêu cầu. Về phía học sinh: - Kĩ năng giao tiếp, trình bày ngôn bằng ngôn ngữ nói, viết chưa tốt. - Bài tập ứng dụng khó. - Phải luân phiên làm nhóm trưởng, thường xuyên rèn luyện kĩ năng quản lí nhóm, làm thêm nhiều việc nhóm nên mất nhiều thời gian. - Học lực các bạn trong nhóm không đều, dẫn đến hiệu quả làm nhóm chưa cao. - Các bạn học lực yếu chưa được giáo viên và các bạn khác giúp đỡ cụ thể, sâu sát. 1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 Tâm lý của học sinh lớp 5 thuộc vào giai đoạn thứ hai (giai đoạn học tập sâu). Qua 4 năm học, các em đã có một số kiến thức, kinh nghiệm, kiến thức về học tập và về cuộc sống, cho nên nhận thức của các em đã chuyển hẳn sang nhận thức li tính, các tố chất về tư duy của học sinh ngày càng phát triển. 1.2.1 Tri giác Tri giác của học sinh lớp 5 đã phát triển nhiều hơn so với học sinh lớp dưới. Lúc này tri giác của các em đã bớt sự trực quan và đã phát triển ở mức độ cao. Các em đã biết kết hợp các giác quan để tri giác sự vật, hiện tượng. Đồng thời, các em cũng đã biết tách chi tiết nhỏ, dấu hiệu đặc trưng của đối tượng nào đó để đi sau vào chi tiết đó và mang tính chủ động. Do đó học sinh phân biệt được chính xác đối tượng. 1.2.2. Trí nhớ Ở học sinh lớp 5, các em đã biết việc tổ chức ghi nhớ nhớ có ý nghĩa, biết sử dụng sơ đồ logic và dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, hiểu rõ mục đích ghi Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Quỳnh Thương – Lớp: TU4E 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan