1
Bài thảo luận môn thanh toán và tài
trợ xuất nhập khẩu
Đề tài
Thực trạng tài trợ nhập khẩu của một NHTM Việt
Nam
Bố cục
Lời mở đầu
2
A. Nội Dung
I.
Một số vấn đề TTNK của NHTM
II.
Các hình thức thanh thức tín dụng TTNK
của NHTM
III.
Rủi ro trong TTNK của NHTM
IV. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài
TTNK của NHTM ở Việt Nam.
B. Thực trạng TTNK của ngân hàng Eximbank chi
nhánh Tân Sơn Nhất
C. Kết luận
3
Lời mở đầu
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất nhập khẩu trở thành vấn đề quan
trọng. Thị trường thương mại thế giới mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường
tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp không
phải lúc nào cũng đủ vốn thu mua chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh ra quan
hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của các ngân hàng.
Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp, nên
những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng đem lại cho các
nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết kỹ thuật và chỗ dựa tài chính trong lĩnh
vực quan trọng này.
Có thể nói sự ra đời của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu
khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với
nhau.
Vì vậy nhóm 12 xin được trình bày đề tài “ Thực Trạng Tài Trợ Nhập Khẩu Của
Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam”
Do kiến thức còn hạn chế, chắc chắn đề tài sẽ có nhiều sai sót, nhóm 12 mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn. Nhóm 12 xin trân trọng biết ơn!
4
A.Nội dung
I. Một số vấn đề cơ bản về TTNK của NHTM
1. Một số vấn đề về hoạt động NK
1.1. Khái niệm hoạt động nhập khẩu và sự cần thiết cảu hoạt động nhập khẩu.
1.1.1. Khái niệm
Nhập khẩu của doanh nghiệp là hoạt động mua hàng hóa và dịch vụ từ nước
ngoàI phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc táI xuất nhằm phục vụ mục đích thu
lợi nhuận. Hay nhập khẩu là việc mua hàng hóa từ các tổ chức kinh tế, các công ty
nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc táI
xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất với tiêu dung
1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay
thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao
hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự
ổn định về cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi
mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp
các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần
định hướng sản phẩm, định hướng thị trường.
Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và
mở rộng hợp tác quốc tế.
1.2. Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì
các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài
chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu
tài trợ trên nhiều mặt.
5
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có
những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình
để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các nhà nhập
khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhiều
khi nhà nhập khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng ra bảo đảm để tìm nguồn tài trợ ở
nước ngoài.
- Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập
khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu
hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng
hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà
nhập khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình
chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập
khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ
được.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà
nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập
hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu ở trên ta có thể khẳng định
rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì
để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn
tài trợ thường dùng cho nhập khẩu.
1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó
cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ
thường được sử dụng là:
- Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực
hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yếu
là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực
hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng),
linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng
trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm.
6
- Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa nộp, phải trả
cán bộ công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây là nguồn tài trợ
mang tính thời điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định.
- Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là
vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của
chủ doanh nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và
phần lợi nhuận để lại cộng khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm
được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có
hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận
cao.
- Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể
phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức
này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử
dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân
chia lợi tức cổ phần hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi)
hay làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ có
các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức
này. Với nước ta, do thị trường tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ
này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì vẫn khó có thể đem lại hiệu quả
cao.
- Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến
trong nền kinh tế thị trường, gần như cổ phiếu.
Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù
hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối
với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính
chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế
của nó.
- Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua
nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn
theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo... để thu mua
dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc
cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công
nghệ... Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức
7
nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng
ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn.
- Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp nhập
khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện
trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay các nguồn này thường cũng
được sử dụng thông qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng
ngân hàng nắm giữ một vị trí đặc biệt bởi nó có thể được cung cấp thông qua nhiều
hình thức cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau và các hình thức tài trợ khác
muốn thực hiện được phần nào cũng cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động TTNK
2.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng
2.1.1. Khái niệm
Tín dụng là quan hệ kinh tế giữa những người đi vay và người cho vay, giữa họ
có mối quan hệ thông qua vận động của giá trị vốn tín dụng, được biểu hiện dưới
hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước.
2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động tài trợ nhập khẩu được thể
hiện qua các mặt sau:
- Cung cấp vốn: như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn
quan trọng đối với các doanh nghiệp nhập khẩu để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu
thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thiết bị...
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời cũng là một
trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do đó, tín dụng
ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả kinh doanh, nâng
cao mức doanh lợi.
Bên cạnh đó, với khả năng linh hoạt về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân
hàng sẽ khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử
dụng vốn sao cho phù hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau.
- Thúc đẩy hoạt động nhập khẩu diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn.
8
- Cấp tín dụng hạn chế được những rủi ro: xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt
động kinh doanh nhập khẩu cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người
mua và người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà
xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra
đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín
dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan
trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
- Trung gian về vốn: ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của
nước ngoài cho hoạt động nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ
của các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện
qua các ngân hàng nước sở tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động nhập khẩu càng có ý nghĩa hơn
khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước. Ngân hàng sẽ cung cấp cho
các nhà nhập khẩu những khoản tín dụng lớn với lãi xuất ưu đãi mà nhờ đó họ có
thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
II.Các hình thức tín dụng tài trợ nhập khẩu của ngân hàng thương mai
Thương mại quốc tế bao gồm những mối quan hệ phức tạp. Với tư cách là trung
gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động
xuất nhập khẩu diễn ra liên tục nhanh chóng, thuận lợi cho cá nhân và nhà xuất
khẩu và nhà nhà nhập khẩu. Dựa trên tiêu chí ta có thế chia tín dụng nhập khẩu
thành các hình thức sau
1.Căn cứ vào phương thức thanh toán
a) Cho vay trong khuôn khổ thanh toán bằng L/C
Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lí trong đó một ngân hàng cam kế sẽ trả một
số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này kí phát
trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với quy định đề ra trong thư tín dụng
+) cho vay kí quỹ L/C
Kí quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng xin
được bảo lãnh, khách sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại
9
ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh của ngân hàng chấm dứt. Thông thường khoản
tiền này được tính tỉ lệ với giá trị hợp đồng mà khách hàng xin được bảo lãnh.
Trong trường hợp thiếu sự tin cậy hoặc thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao ngân hàng có
thể yêu cầu khách hàng kí quỹ 100% giá trị hợp đồng. đối với những khách hàng
đáng tin cậy hoặc có quan hệ thường xuyên thì ngân hàng có thể chấp nhận mức kí
quỹ thấp hơn so với giá trị hợp đồng
Đây là hình thức thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu.
Điều kiện để mở L/C tại các ngân hàng thương mại:
- Phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu
+Đối với các đơn vị nhập uỷ thác phải có hợp đồng uỷ thác nhập khẩu.
+Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục quản lý hàng nhập của Nhà nước,
đơn vị phải xuất trình giấy phép nhập khẩu do Bộ thương mại cấp.
- Đơn vị phải có tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính ổn định và có
tín nhiệm trong quan hệ tín dụng.
- L/C hàng nhập phải có giá hợp lý, đồng thời chứng minh việc nhập lô hàng trên
là hợp lý, phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán
lô hàng.
- Đơn vị phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho giá trị của L/C hoặc được bảo lãnh
thanh toán bởi một tổ chức đáng tin cậy.
- Đối với L/C trả chậm, dư nợ bảo lãnh phải nằm trong hạn mức vay vốn nước
ngoài được ngân hàng nhà nước duyệt.
Thẩm định hồ sơ mở L/C:
Trên cơ sở thẩm định, ngân hàng quyết định mức ký quỹ L/C. Ký quỹ L/C được
coi là một hình thức bắt buộc tại ngân hàng thương mại. Ký quỹ nhằm bảo đảm
khách hàng nhận hàng và thanh toán L/C. Thông thường mức ký quỹ cao hay thấp
phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán của khách hàng càng
cao mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
- Đối tượng khách hàng: khách hàng có uy tín đối với ngân hàng thì mức ký quỹ
thấp và ngược lại.
- Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thường thấp hơn L/C trả ngay, vì mục
đích L/C trả chậm là để vay vốn nước ngoài, thời gian khá dài, mức ký quỹ cao sẽ
làm ứ đọng vốn của khách hàng.
10
- Loại hàng hoá nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá cả hàng
hoá trên thị trường. Những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn định, giá cả ít biến
động thì mức ký quỹ có thể thấp.
Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên, các định mức ký quỹ L/C ngân hàng sẽ
quyết định mức ký quỹ cụ thể. Ký quỹ được thực hiện bằng cách trích tài khoản
ngoại tệ của khách hàng để chuyển vào tài khoản thanh toán L/C, theo quy định
hiện nay thì số tiền ký quỹ được hưởng lãi bằng với lãi tiền gửi thanh toán. Nếu
không đủ số dư trên tài khoản ngoại tệ hoặc đối với các đơn vị nhập uỷ thác có thể
kèm đơn xin mua ngoại tệ để ký quỹ hoặc có thể làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ
L/C, hiện nay ở nước ta cho vay ký quỹ L/C rất hạn chế.
Trên cơ sở các yếu tố trên, ngân hàng sẽ quyết định mức kí quỹ, nếu như khách
hàng không có đủ số dư trên tài khoản thì phải tiến hành làm đơn xin vay ngoại tệ
kí qũy L/C
+)Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán toàn bộ chứng từ
giao hàng
Theo hình thức này khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang tính
khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh. Đồng thời khách hàng
phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán khi đến thời điểm
thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt với ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem
xét và phân tích kế hoạch và phản ánh của khách hàng, ngân hàng sẽ quyết định tài
trợ và xác định mức ngân hàng chấp nhận tài trợ
b) Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ
Nhờ thu trong thanh toán hàng nhập khẩu: ngân hàng tiếp nhận chứng từ từ
ngân hàng nước ngaoif, xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu. nếu nhà
nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì cần phải có sự tài trợ của ngân
hàng cho vay thanh toán hàng nhập khẩu
c) Cho vay trên cơ sở hối phiếu
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng chấp nhận hối
phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay này
chỉ là một hình thức, một sự đảm bảo về tài chính. Thực chất ngân hàng chưa
phải xuất tiền thực sự cho người vay. Tuy nhiên kho đến hnaj, nếu nhà nhập
11
khẩu không đủ khả năng thanh toán thì người cho vay (ngân hàng) – người
đứng dầu chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay
Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng
khả năng thanh toán của bên mua. Họ có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân
hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên bán kí phát. Nếu ngân hàng
đồng ý, điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhân một khoản tín dụng
cho bên mua để họ thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn
Đối với ngân hàng, kể từ kho chấp nhận trả tiền hối phiếu cũng chính là thời
điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro nếu như bên mua không có tiền thanh toán cho
bên bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán.
Đương nhiên đến hạn thanh toán hối phiếu, bên mua có đủ tiền thì ngân hàng
thực sự không phải ứng tiền ra. Như vậy khoản tín dụng này chie là hình thức,
là một sự đảm bảo về tài chính. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ chỉ nhận
được một khoản phí chấp nhận, khoản tiền này bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi
ro tín dụng mà thôi
2. Căn cứ vào thời hạn cho vay
a) Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử
dụng cho vay bổ sung vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh của các đơn vị,
chiếm tỉ trọng lớn tại ngân hàng, cho vay để nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, máy
móc thiết bị, để thu mua chế biến hàng xuất khẩu….
b) Tín dụng trung và dài hạn
Thời hạn của tín dụng trung và dài hạn tùy theo quy định của mối nước, ở việt
nam tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1-5 năm, tín dụng dài hạn từ 5 năm trở nên.
Hình thức này được cung cập để đầu tư mua sắm tài sản cố định, xây dựng mới, cải
tạo mở rộng, khôi phục, cải tiến thiết bị
3.Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
a) Tín dụng có đảm bảo
12
Đây là hình thức tín dụng nhằn đảm bảo an toan vốn vay cua ngân hàng, các doanh
nghiệp được vay vốn của ngân hàng phải có vật tư tài sản cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh của người thứ 3 đối với khoản vay. Những tài sản này là cơ sở đảm bảo cho
ngân hàng có khả năng thu hồi vốn cho vay trong trường hợp doanh nghiệp không
có đủ khả năng trả được nợ
b) Tín dụng không đảm bảo
Đây là hình thức ngân hàng cho vay mà không cần tài sản thế chấp cầm cố hoặc
bảo lãnh của người thứu ba. Cơ sở cho vay mà không cần đảm bảo là dựa vào uy
tín, quy mô, hiệu quả kinh doanh, phương án trả nợ
4.Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu khác
Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức trợ vốn ta đời ở Mỹ năm 1953, sau đó nhanh chóng thâm
nhập vào châu âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang được các nước
trên thế giới áp dụng
Thuê mua là hình thức thuê tái sản dài hanh mà trong thời gian đó người cho thuê
chuyển giao tài sản thuộc sở hữu cua mình cho người đi thuê sử dụng. người thuê
có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc thời
hạn họ có thể có được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay
là được quyền thuê tiếp. điều này tùy thuộc vào thỏa thuận của hai bên khi kí hợp
đồng thuê. Có hai hình thức thuê mua, đó là: cho thuê vận hành và cho thuê tài
chính
- Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị và các tài sản khác. Bên đi thuê được chuyền
quyền sở hữa hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê
- Cho thuê vận hành: bên đi thuê thuê máy móc, thiếu bị trong thời gian ngắn
để sử dụng vào mục đích tạm thời. mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với
quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc vào người cho thuê
So với hình thức vay truyền thống, hình thức thuê mua này có những ưu điểm sau
- Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiếu bị ngay lập tức mà trả trả
tiền thuê thiết bị theo đinh kì, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động
13
hơn về vốn để tập trung cho sản xuất. hình thức này có ý nghĩa đối với
những doanh nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể đi thuê thiết bị để dản
xuất và dung một phần lợi nhuận từ sản xuất trả tiền thuê định kì
- So với đi vay ngân hàng việc thế chấp để được thuê máy móc thiết bị đơn
giản hơn nhiều so thiết bị thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong
suốt thời gian thuê, nên khi bên thuê không trả được nợ, bên cho thê có thể
lấy lại toàn bộ tài sản thuê. Ngày nay các ngân hành thường lập công ty tài
chính riêng để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp và làm phong phú them hoạt
động của mình
Tài trợ bảo lãnh và tái bảo lãnh
Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các
thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng), từ đó
nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro
Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm được khả năng tài
chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu. Do vậy, nhà xuất
khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng
thương mại đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc
không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân
hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dung để vay vốn nước
ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính. Trách nhiệm
của ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo đúng cam kết với nước ngoài trong trường
hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đủ nghiệp vụ nào đó với bên nước
ngoài
Bảo lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau
-
Mở thư tín dụng trả chậm
Kí bảo lãnh hay kí chấp nhận trên các hối phiếu
Phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài
Lập cam kết trả nợ với nước ngoài..
Các lợi thế các bên liên quan trogn nghiệp vụ này
14
- Đối với nhà nhập khẩu ( bên được bảo lãnh): được hưởng một khoản vốn
của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi ( thực chất có thể giá bán đã tính lãi
rồi) chỉ trả một khoản phí cho người bảo lãnh
- Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toán yên tâm rằng đến hạn sẽ được thanh toán
nợ. nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại
một ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu vay vốn của mình
- Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất kì ngân hàng nào, khi tiến hành bào
lãnh nghĩa là được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về phía bên xuất khẩu và
nhập khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chi cho vay tượng trưng
nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khaorn vốn nào cà, àm chỉ lấy uy tín,
danh dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay
Thủ tục bảo lãnh cho vay ngắn hạn theo phương thức cho vay thông thường
nghĩa là khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin vay,
có khả năng thanh toán và có tài sản thế chấp. Khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu
không đủ khả năng thanh toán, thì cần phải làm thủ tục xin vay tại ngân hang.
Như vậy, mục đích bảo lãnh đã được thực hiện, nghĩa là ngân hàng bảo lãnh
muốn khách hàng của mình vay nhằm thu them được một khoản lãi, có khách
hàng mới về mặt tín dụng
III. Rủi ro trong hoạt động tài trợ NK của ngân hàng thương mại.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ NK là một dạng rủi ro trong hoạt động của
NHTM. Đó là những biến cố bất thường, không mong đợi xảy ra, dẫn đến tổn thất
cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hoá ngày càng
rõ rệt và quan hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng thì hoạt động NK
cũng đồng thời cũng phát triển với quy mô ngày càng lớn. Điều này đóng vai trò
quan trọng trong việc phát huy lợi thế của các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối
ngoại với các quốc gia khác. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của hoạt động NK thì
vai trò của ngân hàng trong việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động NK
ngày càng lớn, và cũng do vậy những rủi ro với các ngân hàng cũng ngày càng lớn
hơn. Những rủi ro tín dụng tài trợ NK là rất đa dạng và khó quản lý. Bởi vì khác
với hoat động tín dụng thông thường, hoạt động tín dụng tài trợ NK chịu tác động
của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ khó nắm bắt như: tình hình kinh tế, chính trị
trên thế giới, các cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị ảnh hưởng rất lớn đến các
quan hệ kinh tế đối ngoại, tác động trực tiếp đến tâm lý, nhu cầu cũng như nguồn
cung cấp các mặt hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan đến tỷ giá,
15
yếu tố thời vụ cũng ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá NK, qua đó tác động xấu đến
hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến lợi ích của ngân hàng, dẫn tới tổn
thất cho ngân hàng và nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết,trong quan hệ NK thường luôn có một phía đối tác nước
ngoài, và như vậy, các doanh nghiệp NK trong nước cũng như ngân hàng tài trợ rất
khó nắm bắt được tất cả các thông tin cần thiết về đối tác một cách chính xác. Do
đó, khả năng xảy ra rủi ro đã xảy ra thì tổn thất không thể tránh khỏi đối với doanh
nghiệp cũng như ngân hàng. Mặc dù, về nguyên tắc trong hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng và đơn vị được tài trợ luôn có những điều khoản quy định rõ ràng quyền
hạn của ngân hàng cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp, các điều khoản này
nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp và sử dụng vốn đúng mục đích,
có hiệu quả. Đồng thời đơn vị được tài trợ cũng luôn phải có tài sản thế chấp đảm
bảo khoản vay. Tuy nhiên, những tài sản thế chấp này lại chính là lô hàng đó.
Thậm chí ngay cả khi hợp đồng NK hàng hoá của doanh nghiệp là hoàn hảo và
doanh nghiệp thực hiện hợp đồng một cách suôn sẻ thì rủi ro vẫn có thể xảy ra do
sự vi phạm các điều khoản trong hợp đồng tín dụng, ngay cả khi các đơn vị được
tài trợ hoàn toàn có khả năng thực hiện các cam kết đó.
Rủi ro tín dụng của nhà nhập khẩu: Khi nhà nhập khẩu trong hoạt động kinh
doanh của mình bị vỡ nợ, phá sản, mất khả năng thanh toán sẽ gây ảnh hưởng cho
ngân hàng phát hành thư tín dụng (L/C). Khi ngân hàng phát hành (L/C) thay mặt
người nhập khẩu cam kết trả tiền cho bên xuất khẩu, trong trường hợp các ngân
hàng không yêu cầu ký quỹ 100%, mà ngược lại ngân hàng tài trợ cho vay đối với
người nhập khẩu, gặp trường hợp mất khả năng thanh toán của người nhập khẩu,
rủi ro trong thanh toán ngân hàng sẽ xảy ra, sẽ gây không ít khó khăn, tổn thất cho
ngân hàng phát hành.
Xét một cách tổng thể, ta có thể thấy rằng, rủi ro trong tín dụng tài trợ NK cũng
giống như của tín dụng ngân hàng nói chung nó luôn là một yếu tố bất lợi, tiềm ẩn
có thể xảy ra bất cứ lúc nào, với hậu quả không thể lường trước được. Vì vậy, đòi
hỏi các ngân hàng phải tìm ra biện pháp phòng ngừa, hạn chế tối đa rủi ro và thiệt
hại có thể xảy ra. Muốn vậy các ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả trong việc
tìm hiểu thông tin về đối tác, về thị trường, về dự báo và đưa ra các biện pháp
phòng ngừa rủi ro.
Các biện pháp phải được thiết lập một cách đồng bộ và phải được thưc hiện một
cách nghiêm túc và có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng chuyên trách. Có như
vậy mới có thể thực hiện tốt được công tác phòng ngừa rủi ro, hạn chế tối đa tổn
16
thất, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động NK nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho
đất nước, đổi mới công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
IV. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài TTNK của NHTM
ở Việt Nam.
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà nó
phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi đã
xem xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tín
dụng tài trợ NK của NHTM.
a. Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.
Các hoạt động kinh tế nói chung và NK nói riêng chịu tác động rất lớn bởi
chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Về mặt tích cực: Chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho
vay NK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính sách
tiền tệ mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân
hàng sẽ gia tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn. Chính
sách lãi suất linh hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng tài trợ NK chủ yếu diễn ra theo hình thức
cho vay bằng ngoại tệ. Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào ngân
hàng, quản lý ngoại tệ một cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn ngoại tệ
đáp ứng nhu cầu nhập máy móc, thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu.
- Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra nhiều
rủi ro cho hoạt động tín dụng NK của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có chiến
lược hướng về nhập khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp NK rất
hạn chế. Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi lợi nhuận của
ngân hàng sẽ giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi thuế
quan thì nó sẽ dẫn đến tăng giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng nhập
khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay vốn giảm.
Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác
động không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ NK của Ngân hàng. Môi trường pháp
không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây
chính là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM.
b. Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước.
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn bị
chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của
17
Ngân hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho
vay tự do hơn. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực
Đông Nam á đã chứng minh điều đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực
của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị
ảnh hưởng sâu sắc. Hàng loạt ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn
phá do không thu lại được các khoản nợ, không cho vay được để bù đắp chi phí khi
nhu cầu tín dụng của khu vực giảm.
Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ cũng là một
trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho vay
của Ngân hàng.
c. Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp NK.
Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng
ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy
móc thiết bị từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả
của doanh nghiệp không cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi
ngân hàng cấp vốn cho vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân
nào đó các ngân hàng này gặp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ
bỏ hợp đồng, hàng bị mất cắp giảm giá trị... ) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để
trả lại các khoản vay cho ngân hàng. Đối với ngân hàng khi mà có quá nhiều khách
hàng đến hạn trả mà khôn có khả năng thanh toán hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn
trọng các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ mất khả
năng thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào tình trạng phá sản.
Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh nghiệp
hoạt động NK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy
hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.
d. Năng lực cho vay của ngân hàng.
Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của ngân
hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh NK có nhu cầu vốn lớn, trong khi
nguồn vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp.
Tín dụng NK của NHTM gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm thế nào để
huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu đang là
vấn đề lớn đối với nhiều NHTM.
e. Các nhân tố khác.
Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của
đội ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho
18
vay XNK của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ
trong thẩm định dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín
dụng sẽ cao và ngược lại.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ NK của NHTM cũng luôn phải đối mặt
với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, sự biến
động này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến khích cả
nhập khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nói riêng sẽ phát triển.
Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau.
Có nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song cũng
có không ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân hàng.
Các ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp NK phải lường trước mọi rủi ro
có thể xảy ra trong hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng
đắn, kịp thời, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
B .Thực trạng tài trợ nhập khẩu của ngân hàng
19
1.1 Giới thiệu về Ngân hàng Eximbank
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu
Việt Nam
- Ngân hàng Eximbank được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định
số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng
Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những
Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam.
- Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày
06/04/1992, Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NHGP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng
ký là 50 tỷ đồng VNĐ tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là Ngân hàng
Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import
Commercial Joint - Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank.
- Đến nay vốn điều lệ của Eximbank đạt 10.560 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu đạt
13.627 tỷ đồng. Eximbank hiện là một trong những Ngân hàng có vốn chủ sở hữu
lớn nhất trong khối Ngân hàng TMCP tại Việt Nam.
- Tính đến ngày 31/12/2010, Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam có
địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và
183 Chi nhánh, phòng giao dịch được đặt tại khắp cả nước và đã thiết lập quan hệ
đại lý với hơn 852 Ngân hàng và chi nhánh Ngân hàng ở hơn 80 quốc gia trên thế
giới.
- Nằm trong kế hoạch mở mới 40 điểm giao dịch trong năm 2009, ngày
04/3/2009, thống đốc ngân hàng nhà nước đã có công văn số 1474, 1475,
1476/NHNN-CNN chấp nhận cho eximbank được mở chi nhánh Tân Sơn Nhất
20
- Ngày 10/8/2009 Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam đã chính thức khai
trương đi vào hoat động Chi Nhánh Tân Sơn Nhất
1.2 Tình Hình Hoạt Động
Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn qua các năm.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổ chức kinh tế
Cá nhân
Tổng
Tổng vốn huy
01/10-31/12/2009
Năm 2010
10,82
180,5
179,65
719,5
190,47
900
động của Eximbank – Chi nhánh Tân
31/07/2011
210,16
840,64
1050,8
Sơn Nhất nhìn chung
tăng qua các năm: Năm 2010 tăng 18,42% (tương đương 35,08 tỷ đồng) so với
cùng kỳ năm 2009. Trong 6 tháng đầu năm 2011, vốn huy động của Eximbank –
Chi nhánh Tân Sơn Nhất tăng rất mạnh lên mức 952,8 tỷ đồng, tăng 5,87% so với
đầu năm. Sở dĩ như vậy là do Eximbank – Chi nhánh Tân Sơn Nhất mới hoạt động
cuối năm 2009 nên tình hình huy động vốn trong những năm đầu chưa khởi sắc, do
lượng tiền gửi cá nhân và tổ chức kinh tế không nhiều. Nhưng sang năm 2011,
lượng tiền huy động tăng mạnh chính là nhờ Eximbank – Chi nhánh Tân Sơn Nhất
đã đẩy mạnh triển khai sản phẩm, xây dựng chính sách lãi suất cạnh tranh và được
nhiều doanh nghiệp lớn biết đến
Hoạt động tín dụng
Với sự phát triển của sản xuất kinh doanh, sự gia tăng hoạt động xuất nhập
khẩu, thì nhu cầu sử dụng vốn của các chủ thể trong nền kinh tế ngày càng tăng lê,
và trên cơ sở tăng nguồn vốn huy động thì hoạt động cho vay và đầu tư và đầu tư
kinh doanh của Eximbank – Chi Nhánh Tân Sơn Nhất cũng liên tục phát triển qua
các năm
- Xem thêm -