thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Bảo Việt Hà Nội là
tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trải qua 21 năm hoạt động liên tục, công ty Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng lớn
mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ lúc đầu thành lập chỉ có 10 cán bộ với một
phòng nhỏ làm trụ sở, đến nay Bảo Việt Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế
mạnh với đội ngũ hàng trăm cán bộ bảo hiểm, có trụ sở chính khang trang, thành lập
các văn phòng trực thuộc tại tất cả các quận, huyện trên địa bàn thành phố cùng
mạng lưới cộng tác viên, đại lý phủ kín các địa bàn dân cư của thành phố, sẵn sàng
đáp ứng mọi nhu cầu của nhân dân, trở thành một đơn vị chủ lực của Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam. Theo cơ cấu tổ chức văn phòng hiện nay, song song với
nhiệm vụ khai thác khách hàng, văn phòng công ty có chức năng quản lý và giám
sát hoạt động của các văn phòng địa phương trực thuộc. Bởi vậy, ngoài các phòng
ban phụ trách các vấn đề tổ chức nhân sự, kế toán,..., những phòng nghiệp vụ ngoài
nhiệm vụ trực tiếp tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ trên địa bàn mà công ty phân
cấp còn có chức năng giúp đỡ các văn phòng tại các quận, huyện trong việc quan hệ
với khách hàng, cân nhắc chấp nhận bảo hiểm, phát hành hợp đồng bảo hiểm, xử lý
khiếu nại, giám định và bồi thường.
Cơ cấu tổ chức hiện nay của Bảo Việt Hà Nội được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Giám đốc
Phó Giám
đốc
Phòng
BH
Phi
hàng
hải
Phòng
BH
Hàng
hải
Phòng
BH
Hoàn
Kiếm
Phòng
kiểm
tra nội
bộ
Phòng
BH
Ba
Đình
Phó Giám
đốc
Phòng
tổng
hợp
Phòng
BH
Đống
Đa
Phòng
BH kỹ
thuật
Phòng
BH
Hai Bà
Trưng
21
Phòng
BH
Thanh
Xuân
Phòng
BH
cháy &
rủi ro
hỗn
hợp
Phòng
BH
Gia
Lâm
Phòng
BH
quốc
phòng
Phòng
BH
Đông
Anh
....
Phòng
giám
định bồi
thường
Trong vài năm gần đây, kinh tế xã hội của cả nước nói chung và thủ đô nói riêng
tiếp tục ổn định và phát triển. Đây là yếu tố thuận lợi cho công tác kinh doanh của
các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của Bảo Việt nói riêng. Được sự quan tâm
chỉ đạo và ủng hộ của lãnh đạo Tổng công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của
các phòng ban thuộc Tổng công ty, cán bộ công nhân viên của Bảo Việt Hà Nội đã
từng bước tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động cạnh tranh. Hơn nữa, dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào cán bộ công ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty và Nhà nước giao cho.
Năm nào Bảo Việt Hà Nội cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc
độ tăng trưởng cao về doanh số và tỷ lệ tích luỹ, đóng góp không nhỏ vào thành tích
chung của Tổng công ty và của ngành bảo hiểm nói chung. Đó là những dấu hiệu
đáng mừng đối với Bảo Việt Hà Nội. Bên cạnh đó, hoạt động của Công ty Bảo Việt
Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của thị trường bảo hiểm cao hơn
những năm trước. Địa bàn thủ đô là nơi diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt không chỉ
giữa các công ty bảo hiểm trong nước mà còn với công ty bảo hiểm nước ngoài.
Bảo Việt Hà Nội phải cạnh tranh với các công ty khác không những về tỉ lệ phí, chi
kinh doanh mà còn cả những yếu tố về phục vụ. Việc mở rộng hoạt động của các
công ty bảo hiểm nước ngoài trên thị trường làm cho tính cạnh tranh giữa các công
ty bảo hiểm trong nước vốn đã gay gắt nay càng thêm khốc liệt dẫn đến việc phí bảo
hiểm có xu hướng giảm, nhất là trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và bảo hiểm
trách nhiệm. Doanh thu phí bảo hiểm của các hoạt động này giảm đáng kể do phí
bảo hiểm giảm và phải chia xẻ phí do đồng bảo hiểm. Hơn nữa, trong năm 2000 và
2001, tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư cho các dự án trên địa bàn Hà Nội còn
chậm làm ảnh hưởng đến kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng, lắp đặt.
22
Trước điều kiện khó khăn như vậy, công ty đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để
giữ vững địa bàn và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt chính sách
của Nhà nước, các quy định của Tổng công ty vào hoạt động kinh doanh. Một biện
pháp quan trọng Bảo Việt Hà Nội đang thực hiện nhằm cải thiện, nâng cao chất
lượng dịch vụ, đảm bảo khả năng cạnh tranh là thay đổi phương thức hạch toán kinh
doanh, giao khoán cụ thể hoạt động kinh doanh cho từng phòng, và các phòng phải
có nhiệm vụ tương hỗ nhau nhằm thực hiện chỉ tiêu kinh doanh tốt hơn.
Với phương châm "phục vụ khách hàng là phục vụ chính mình", "đáp ứng những
cái khách hàng cần chứ không phải những gì mình có", Bảo Việt Hà Nội đã không
ngừng đổi mới phong cách làm việc để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Vì
vậy, Bảo Việt Hà Nội vẫn luôn là người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo
hiểm cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay Bảo Việt Hà Nội thông qua Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm, các công ty giám
định, điều tra tổn thất có uy tín trên toàn thế giới như Lloyd's, Commercial Union
(UK), AIG, CIGNA (Mỹ), Tokyo Marine, Yasuda Mitsui Marine (Nhật), Muniche
(Đức),... Trong vài năm gần đây, Bảo Việt Hà Nội đã nhận được sự cộng tác, giúp
đỡ tận tình của các công ty này trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và
xử lý khiếu nại.
2.1.2. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại
Bảo Việt Hà Nội
Mặc dù bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ rất xa xưa trong
lịch sử phát triển của bảo hiểm, nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà
Nội nói riêng, mãi đến ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay bảo hiểm hoả
hoạn) mới chính thức được triển khai theo quyết định số 06-TC-QĐ của Bộ Tài
chính. Ngay sau khi được triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm này đã khẳng định ngay
vai trò quan trọng của nó qua việc doanh thu phí bảo hiểm tăng đều đặn qua các
năm và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu phí của tất cả các nghiệp
23
vụ. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy là một nghiệp vụ mở rộng phạm
vi của bảo hiểm cháy và đóng vai trò không kém phần quan trọng so với bảo hiểm
cháy nhưng thực chất nó lại không ra đời vào thời điểm bảo hiểm cháy bắt đầu được
triển khai. Phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới bắt đầu được
đưa vào thử nghiệm. Từ khi đưa vào triển khai, số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy do Bảo Việt Hà Nội kí được với khách hàng vẫn chưa nhiều, chủ
yếu là với các công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài. Hầu hết các
đơn bảo hiểm được cấp thông qua môi giới. Chúng ta có thể xem qua tỉ trọng của
doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội thông qua
bảng sau:
Bảng 1:
Tỉ trọng doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại
Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001
Doanh thu bảo hiểm gián
Năm
đoạn kinh doanh sau
cháy(tr. đ)
Doanh thu toàn
công ty (tr. đ)
Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sau cháy/
doanh thu toàn công ty (%)
1998
399
79.068
0,50
1999
505
87.653
0,58
2000
650
74.887
0,87
2001
895
75.800
1,18
Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội.
Số liệu bảng 1 cho thấy tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chiếm một
tỉ lệ rất khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, chúng ta
cũng nhận thấy rằng doanh thu của nghiệp vụ này ngày càng tăng cả về số tương
đối lẫn số tuyệt đối. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách
nhiệm dân sự xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng lắp đặt,.. đang có xu hướng giảm dần
doanh thu khai thác do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo
hiểm khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại đang mang lại cho Bảo Việt Hà Nội
doanh thu ngày càng tăng hơn qua các năm triển khai. Điều đó chứng tỏ bảo hiểm
24
gián đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu
không nhỏ cho Bảo Việt Hà Nội.
Hơn thế, với mục tiêu giữ khách hàng, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng
trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cùng với mục tiêu tăng trưởng và
hiệu quả, ngoài việc củng cố, hoàn thiện, tiếp tục phát triển các nghiệp vụ truyền
thống có doanh thu cao, Bảo Việt Hà Nội đã và đang tìm cách phát triển các nghiệp
vụ khó khai thác như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
2.2. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
2.2.1. Những thuận lợi cơ bản
Khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam đã
thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có
thể nói đây là sự "cởi trói" tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho các đơn vị phát huy
tiềm năng, thế mạnh của mình để mở rộng và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đại hội
Đảng toàn quốc VI được đánh giá là sự kiện làm "hồi sinh" nền kinh tế xã hội Việt
Nam, một bước ngoặt của công cuộc đổi mới toàn diện đưa đất nước từ chỗ bế tắc
dần dần đi vào thế ổn định và khởi sắc. Từ đó đến nay, Việt nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội như giữ vững nền kinh tế tăng
trưởng và ổn định, khống chế chỉ số lạm phát ở mức vừa phải, tăng đầu tư trong
nước và nước ngoài, tăng thu nhập doanh nghiệp, nâng cao đời sống người dân về
kinh tế cũng như về văn hoá xã hội,... Điều kiện kinh tế, xã hội càng phát triển,
người dân không còn chỉ lo nghĩ đến cái ăn, cái mặc mà họ đã nghĩ xa hơn, đó là
làm sao để có cuộc sống ổn định. Đây chính là nền tảng cho ngành bảo hiểm Việt
Nam phát triển.
Trong vài năm gần đây, trên thế giới xảy ra không biết bao nhiêu biến động cả về
kinh tế lẫn chính trị, ảnh hưởng đến nền kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là
các nước phát triển cao như Nhật, Hàn quốc, Thái Lan, Argentina,... Đặc biệt vụ
25
khủng bố xảy ra trên nước Mỹ vào ngày 11/9/2001 đã làm cho kinh tế của rất nhiều
quốc gia trên thế giới lao đao và năm 2001 được đánh giá là một năm u tối trong
lịch sử kinh tế thế giới. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam là một trong số ít quốc
gia vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong vài năm qua, năm 2001 tốc độ
tăng trưởng kinh tế của nước ta là hơn 6%. Hơn nữa, đầu năm 2002, Việt Nam đã
nhận danh hiệu "Thủ đô Hà Nội - thành phố an ninh nhất thế giới" do UNESCO
công nhận. Điều đó khẳng định rằng trong khi nền kinh tế, chính trị thế giới có
nhiều biến động phức tạp, rối ren thì Việt Nam vẫn là quốc gia có nền kinh tế, chính
trị ổn định, tạo môi trường an toàn thu hút đầu tư. Tất cả những điều đó đã tạo cơ
hội thuận lợi cho ngành bảo hiểm nước nhà phát triển, từ việc khai thác tới việc sử
dụng tạm thời nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư. Đặc biệt, khi đầu tư phát triển thì nhu
cầu bảo toàn vốn kinh doanh càng được chú trọng và điều đó tạo cơ sở vững chắc
cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tồn tại và phát triển.
Bên cạnh đó, do thực hiện xoá bỏ nhanh chóng cơ chế tập trung bao cấp, đổi mới cơ
chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, làm cho việc bảo
toàn và phát triển vốn trở nên rất khó khăn và nặng nề. Đặc biệt với Thông tư
82/TCLN ngày 31/12/1991 hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 332/HĐBT của Bộ Tài
chính hướng dẫn "Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị
tổn thất do những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai hoặc
những loại hình tương tự". Chính vì vậy, các doanh nghiệp đã thấy được yêu cầu
cấp thiết phải mua bảo hiểm để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra
nhằm đảm bảo khả năng ổn định kinh doanh. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, với
mục tiêu giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, chắc chắn sẽ nhanh
chóng tìm được chỗ đứng của mình nếu công ty bảo hiểm biết khai thác triệt để
nghiệp vụ này trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay.
Hơn nữa, việc ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 cùng các Nghị định, Thông tư
nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm đã tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động bảo hiểm được thực hiện qui củ hơn, tránh được nhiều hiện tượng
tiêu cực trong hoạt động bảo hiểm như trước. Đặc biệt với việc Bộ Tài chính thông
26
qua Thông tư số 71/2001/TT-BC ngày 28/8/2001 qui định tỉ lệ chi hoa hồng cho
từng nghiệp vụ bảo hiểm chỉ trong hạn mức cho phép đã tránh tình trạng nổi cộm
trong hoạt động bảo hiểm trước đây, đó là hiện tượng trả hoa hồng cao quá mức dẫn
đến nguy cơ không đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm. Nói
cách khác, sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn đã tạo
ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động bảo hiểm.
Ngoài ra, cùng với sự trưởng thành của công ty qua nhiều năm hoạt động trong thị
trường cạnh tranh, đội ngũ cán bộ công nhân viên đã có nhiều cơ hội để tự hoàn
thiện chuyên môn cũng như phong cách làm việc nhằm đáp ứng xu thế phát triển
chung. Bảo Việt Hà Nội trong những năm đổi mới, song song với việc đào tạo lại
cán bộ, đã và đang tuyển dụng đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nhanh nhạy với cơ
chế thị trường. Chủ trương phát triển nhân tố con người của Bảo Việt Hà Nội có thể
được coi là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn trong tình hình hiện nay giúp cho
hoạt động kinh doanh bảo hiểm tiến những bước xa hơn.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng thị trường bảo hiểm Việt Nam rất có
nhiều tiềm năng phát triển. Đây là cơ hội tốt nhất cho công ty Bảo hiểm Hà Nội
triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm của mình trên địa bàn thủ đô, một trung tâm kinh
tế quan trọng nhất của đất nước, và các khu vực lân cận. Kinh tế và hoạt động kinh
doanh càng phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi để công ty phát triển các nghiệp vụ
bảo hiểm chưa mấy phổ biến, trong đó có bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
Mặc dù có những thuận lợi như vừa đề cập ở trên, nhưng nhìn chung ngành bảo
hiểm nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn.
2.2.2. Những khó khăn trước mắt và lâu dài
Kinh tế nước ta tuy có nhiều dấu hiệu đáng mừng trong những năm qua nhưng do
điểm xuất phát của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là một nước
nghèo, trình độ dân trí không cao, ý thức người dân còn rất kém lại vấp phải những
mặt trái của kinh tế thị trường nên đã gặp không ít khó khăn trong quá trình phát
triển kinh tế nói chung và phát triển ngành bảo hiểm nói riêng. Việc chuyển đổi cơ
27
chế đã làm cho nhiều doanh nghiệp không thích ứng kịp thời với sự thay đổi, lâm
vào tình trạng làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả, dẫn đến phá sản, tạo gánh nặng
cho một nền kinh tế đang yếu kém. Hơn thế, khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo
một số đơn vị, xí nghiệp do mang nặng tư tưởng bao cấp cũ, họ chưa thấy rõ được
trách nhiệm phải bảo toàn vốn tốt nhất bằng con đường tham gia bảo hiểm. Một số
đơn vị kinh doanh khác thì mặc dù đã nhận thức rõ được những khó khăn, phức tạp
trong việc bảo toàn đồng vốn kinh doanh của mình sao cho an toàn nhất nhưng họ
lại không có những hiểu biết nhất định về việc kinh doanh bảo hiểm và họ cảm thấy
bi quan, không tin tưởng vào hoạt động của các công ty bảo hiểm nên chỉ tham gia
một cách dè dặt hoặc không dám tham gia bảo hiểm.
Mặt khác, về phía công ty bảo hiểm, do bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là
một nghiệp vụ mới, công việc xác định chính xác số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm,
số tiền thiệt hại về lợi nhuận gộp là rất khó khăn, nên trong quá trình khai thác rất
khó cho cán bộ bảo hiểm giải thích cho khách hàng hiểu và tin tưởng vào loại hình
bảo hiểm này. Thêm vào đó, tuy công ty bảo hiểm Hà Nội có một đội ngũ cán bộ
khá đông đảo nhưng trình độ chuyên môn lại không cao so với các công ty bảo
hiểm khác. Điều này đã được minh chứng rất rõ trong nhiều vụ nhân viên tư vấn sai
cho khách hàng mua nhầm loại bảo hiểm đã gây khó khăn cho công tác bồi thường
khi xảy ra tổn thất, gây nghi ngờ cho khách hàng. Đối với bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh thì vấn đề còn khó khăn hơn rất nhiều vì tính trừu tượng thể hiện trong loại
bảo hiểm này cao hơn rất nhiều so với các loại bảo hiểm khác.
Một khó khăn nữa phải kể đến là hoạt động bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy ra đời đúng thời kỳ Chính phủ mới ban hành Nghị định 100/CP ngày
18/12/1993 và tiếp sau đó là Nghị định 74/CP ngày 14/6/1997 cho phép nhiều
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia
kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Vì vậy,
nghiệp vụ này từ khi mới ra đời đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các
công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Hơn nữa, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh mà Bảo Việt Hà Nội kí được từ trước tới nay đều khai thác
28
được từ đối tác liên quan đến nước ngoài là chủ yếu. Các công ty bảo hiểm nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam đã và đang giành giật số khách hàng này về phía họ
bằng lợi thế về ngôn ngữ, bề dày kinh nghiệm cũng như khả năng tài chính khổng lồ
của các công ty bảo hiểm đó. Điều đó đặt ra thách thức lớn cho Bảo Việt Hà Nội
cần phải đổi mới tư duy, cung cách phục vụ khách hàng tốt hơn thì mới có khả năng
cạnh tranh trong việc khai thác nghiệp vụ bảo hiểm đầy tiềm năng như nghiệp vụ
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
2.3. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN
KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, công ty Bảo Việt Hà Nội triển khai hoạt động
của mình trên tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm theo các khâu truyền thống như sau:
Khâu khai thác
Khâu đề phòng và hạn chế tổn thất
Khâu giám định và bồi thường
Khâu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh
Cả bốn khâu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và bổ sung cho nhau, chỉ cần một
khâu nào đó hoạt động kém hiệu quả sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến cả quá trình
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy, để có thể tìm ra biện pháp nhằm
nâng cao hoạt động kinh doanh của một nghiệp vụ nào đó, nhất thiết chúng ta phải
phân tích từng khâu hoạt động của nghiệp vụ đó. Trong phần này, thực trạng triển
khai từng khâu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội sẽ được
xem xét một cách cụ thể.
2.3.1. Công tác khai thác bảo hiểm
Trên thực tế, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được coi là một nghiệp vụ
bảo hiểm mới tại Bảo Việt Hà Nội. Loại hình nghiệp vụ này từ ngày triển khai cho
tới nay tại Bảo Việt Hà Nội hầu như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh khách sạn tham
gia. Còn đại đa số các cơ quan, doanh nghiệp chỉ tham gia bảo hiểm cháy và dừng
29
lại ở đó. Vì thế mà số đơn bảo hiểm đã cấp và số phí bảo hiểm thu được của nghiệp
vụ bảo hiểm này so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác còn rất khiêm tốn. Chúng ta
có thể thấy rõ thực trạng đó qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Kết quả khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy tại Bảo Việt Hà Nội thời gian 1998-2001
Đơn vị : triệu đồng
Doanh thu phí từ hợp
Số tiền bảo hiểm
nghiệp trong nước
Số
Năm
đơn
BH
Tăng giảm so
Tăng giảm so
với năm trước
cấp
đồng kí với doanh
Doanh thu phí
Tăng giảm so
với năm
Số
Số tiền
Số tuyệt
Tỉ lệ
đối
trước
tiền
Số
%
Số
tuyệt
đối
Tỉ lệ
tiền
với năm trước
Số
tuyệt
%
đối
Tỉ lệ
%
1998
30
266.000
_
_
399
_
_
_
_
_
1999
42
336.700
70.700
26,6
505
106
26,6
24
_
_
2000
51
433.300
96.600
28,7
650
145
28,7
38
14
58,3
2001
76
597.000
163.700
37,8
895
245
37,8
23
-15
-39,0
Tổng
199
1.633.000
_
_
2.449
_
_
85
_
_
Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội
Qua bảng trên, ta thấy số hợp đồng kí kết cũng như doanh thu phí từ nghiệp vụ này
quả là quá khiêm tốn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng kết quả đó cũng đưa ra
một dấu hiệu khả quan cho thấy đây là một nghiệp vụ tiềm năng phát triển trên thị
trường Việt Nam. Nếu như năm 1998, Bảo Việt Hà Nội mới chỉ nhận bảo hiểm cho
30 đơn vị thì đến năm 2001 số đơn vị tham gia bảo hiểm đã tăng lên hơn gấp đôi so
với con số đó, lên tới 76 đơn vị. Bên cạnh đó, số phí thu được cũng tăng từ 399 triệu
năm 1998 lên 895 triệu năm 2001 và số tiền bảo hiểm tăng từ 266 tỷ đồng năm
1998 đến năm 2001 là 597 tỷ đồng. Nguyên nhân của sự tăng này là do số lượng
30
các nhà đầu tư vốn vào Việt Nam ngày càng tăng, các nhà đầu tư đã quá quen với
tập quán tham gia bảo hiểm nên khi vào Việt Nam tiến hành hoạt động kinh doanh
họ rất mong muốn được bảo hiểm cho rủi ro gián đoạn kinh doanh khi chẳng may
tổn thất xảy ra, do đó trong khi tham gia bảo hiểm cháy họ đã yêu cầu Bảo Việt Hà
Nội bán kèm cho họ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Cũng phải nói rằng
con số tăng lên đó phụ thuộc chủ yếu vào nguyên nhân từ phía bên ngoài, còn thực
tế Bảo Việt Hà Nội cũng không hề chú ý đến công tác khai thác nghiệp vụ này lắm.
Chính vì vậy, Bảo Việt Hà Nội đã để ngỏ hoàn toàn thị trường các doanh nghiệp
trong nước. Sau khoảng chục năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy, số lượng hợp đồng khai thác được từ các doanh nghiệp trong nước
quá ư là ít ỏi. Năm 2000 có thể coi là năm đỉnh điểm về doanh thu phí từ các hợp
đồng kí với các doanh nghiệp trong nước, nhưng con số đó chỉ dừng ở 38 triệu
đồng, một con số không có ý nghĩa gì đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại
một công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt Hà Nội.
Vậy tại sao tại các nước phát triển, người dân lại có thói quen mua bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh và doanh thu của hoạt động này lại chiếm tỉ lệ cao trong hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài? Đơn cử
như "tại công ty bảo hiểm Berkshire Hathaway (Mỹ), tỉ trọng của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh chiếm tới hơn 9% trong số các nghiệp vụ bảo hiểm triển khai" [5,
65], tương đương với tỉ trọng của những nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn nhất
tại Bảo Việt Hà Nội hiện nay như bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm hoả
hoạn. Sở dĩ một nghiệp vụ bảo hiểm rất được coi trọng và có doanh thu cao ở các
quốc gia phát triển như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại gặp
khó khăn tại thị trường bảo hiểm Việt Nam như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong
đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan.
Về phía nguyên nhân khách quan thì chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng bảo hiểm nói
chung là một ngành rất mới tại Việt Nam so với những ngành tài chính khác. Người
dân Việt Nam hầu hết đều chưa hiểu về bảo hiểm và chưa nhận thức rõ tầm quan
trọng của việc tham gia bảo hiểm, vì vậy việc khai thác bảo hiểm gián đoạn kinh
31
doanh lại càng khó khăn hơn do đặc điểm của nó là phụ thuộc vào loại bảo hiểm
khác, cụ thể ở đây là bảo hiểm hoả hoạn. Thêm vào đó, tài liệu hướng dẫn tham
khảo về hoạt động bảo hiểm này hầu như không có tại Việt Nam, nếu có thì may ra
là những tài liệu nước ngoài chưa được dịch ra, vì vậy ngay cả những cán bộ bảo
hiểm lâu năm trong ngành bảo hiểm nước nhà cũng cảm thấy lúng túng khi phải tiếp
xúc với nghiệp vụ này. Vì vậy, việc triển khai nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác,
do đó chắc chắn không thể tránh được những khó khăn nhất định trong quá trình
thực hiện hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả vì bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh mang những đặc điểm riêng mà các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống không
hề có.
Về phía nguyên nhân chủ quan, trước hết phải kể đến nguyên nhân về trình độ hạn
chế của nhiều cán bộ công nhân viên trong ngành bảo hiểm, đặc biệt là cán bộ khai
thác hầu hết đều không được qua đào tạo một cách có bài bản về bảo hiểm và làm
việc dựa trên kinh nghiệm là chính, đã dẫn đến tình trạng giải thích sai các điều
khoản bảo hiểm cho khách hàng. Điều đó tất yếu gây ra những khó khăn không thể
lường trước trong việc thực hiện bất cứ một khâu tiếp theo nào của hoạt động bảo
hiểm khi chẳng may tổn thất xảy ra, dẫn đến việc làm mất lòng tin của khách hàng
đối với công ty bảo hiểm, tạo cảm giác "bị lừa" đối với người tham gia bảo hiểm.
Như vậy, chính những người cán bộ bảo hiểm đã là những người tạo ra ấn tượng
đầu tiên cho những con người còn chưa hiểu biết gì về bảo hiểm rằng người bảo
hiểm là "kẻ lừa đảo". Hơn nữa, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung
và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng là nghiệp vụ mang
tính trừu tượng cao, khó triển khai vì mắc phải nhiều khó khăn trong công tác tính
số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường,... Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm này
không được coi ngang hàng với nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, nên chưa có sự tuyên
truyền hay quảng cáo gì hết, nhân viên bảo hiểm cũng không chủ động tiếp cận
khách hàng để giới thiệu sản phẩm,... Nói cách khác, hầu như khâu khai thác của
nghiệp vụ bảo hiểm này không hề hoạt động. Vì thế làm cho bảo hiểm gián đoạn
32
kinh doanh sau cháy trở nên quá xa lạ đối với các chủ thể kinh doanh trong nền kinh
tế. Phần lớn các doanh nghiệp chưa có hiểu biết gì về loại hình nghiệp vụ này, do
vậy họ không tham gia. Đa số các đơn cấp được là do các doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài, những doanh nghiệp này đã có thói quen sử dụng dịch vụ bảo hiểm này
tại nước họ, tự yêu cầu mua thêm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau khi đã mua
bảo hiểm cháy.
Tuy vậy, dù vấp phải những khó khăn như vừa đề cập, qua số liệu trên chúng ta
cũng không thể phủ nhận được rằng qua các năm triển khai, bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh cũng có sự tăng trưởng về số đơn vị tham gia và doanh thu phí. Điều đó
thể hiện rằng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đang dần thu hút được nhiều khách
hàng hơn. Đó mới là những con số bước đầu và chắc chắn đây là một nghiệp vụ
giàu tiềm năng cho công ty khai thác trong tương lai. Hơn thế nữa, vì nghiệp vụ bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy còn chưa được chú trọng tại thị trường bảo
hiểm Việt Nam, nhiều công ty bảo hiểm trong nước không chú ý đến loại bảo hiểm
này nên Bảo Việt Hà Nội cũng có được thuận lợi về yếu tố cạnh tranh khi triển khai
nghiệp vụ. Thêm vào đó, như đã đề cập ở trên, hầu hết các hợp đồng kí được là do
khách hàng tự tìm đến, yêu cầu bảo hiểm hoặc thông qua môi giới, điều đó chứng tỏ
Bảo Việt Hà Nội là công ty có uy tín lớn trên thị trường bảo hiểm hiện nay, đồng
thời cũng có những chính sách hợp lý đối với các tổ chức trung gian.
2.3.2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Mục đích của bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc bồi thường, ổn định tài chính cho
người tham gia bảo hiểm mà còn nhằm hạn chế các thiệt hại cũng như hậu quả của
chúng. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất không những giúp cho công ty bảo hiểm
tránh khỏi những vụ bồi thường cho các tổn thất gây ra bởi những rủi ro có thể hạn
chế được xác suất xảy ra mà còn là một phương cách hữu hiệu để người dân biết
đến bảo hiểm.
Tại Bảo Việt Hà Nội, trên cơ sở số phí thu được hàng năm, công ty tiến hành trích
mức chi đề phòng hạn chế tổn thất. Khoản chi này sẽ được chi vào các mục đích
33
như tuyên truyền, hỗ trợ kinh phí, hội nghị khách hàng,... Do bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh sau cháy chỉ được coi là nghiệp vụ mở rộng phạm vi bảo hiểm của bảo
hiểm cháy, tổn thất chỉ xảy ra khi có rủi ro cháy xảy ra, vì vậy số chi cho công tác
đề phòng và hạn chế tổn thất được tính bổ sung cho số chi đề phòng hạn chế tổn
thất của nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Tuy nhiên, số chi này vẫn được bóc tách ra vào
cuối mỗi kỳ nhằm phục vụ cho công tác đánh giá kết quả kinh doanh của từng
nghiệp vụ. Cụ thể nghiệp vụ này đã đóng góp vào công tác chi đề phòng, hạn chế
tổn thất như sau:
Bảng 3: Tình hình chi đề phòng, hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội thời kỳ 1998 - 2001.
Năm
Tổng
Tỉ lệ %
chi
so với
(tr.đ)
phí thu
Chi hỗ trợ kinh phí
Chi tuyên truyền
Chi hội nghị
Mức chi
Tỷ lệ %/
Mức chi
Tỷ lệ %/
Mức chi
Tỷ lệ %/
(tr.đ)
Tổng chi
(tr.đ)
Tổng chi
(tr.đ)
Tổng chi
1998
19,95
5,0
5,985
30,0
11,970
60,0
1,995
10,0
1999
21,21
4,2
6,363
30,0
12,726
60,0
2,121
10,0
2000
29,25
4,5
8,483
29,0
16,907
57,8
3,860
13,2
2001
35,80
4,0
10,350
28,9
20,725
57,9
4,725
13,2
Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội
Như vậy, hàng năm Bảo Việt Hà Nội đã chi ra một khoản tiền nhất định cho công
tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Trong các khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất thì
khoản chi hỗ trợ kinh phí là khoản chi lớn nhất, chiếm khoảng 60% trong tổng chi.
Khoản chi này gồm chi mua các phương tiện cần thiết tối thiểu như bình chữa cháy,
còi báo động và chi cho công tác luyện tập của đội chữa cháy bán chuyên nghiệp
của cơ quan và doanh nghiệp, chi thiết lập các biển báo cấm lửa,... Điều đó cho thấy
công ty đã rất quan tâm đến việc phối hợp cùng các doanh nghiệp trong công tác
phòng cháy chữa cháy, không những hướng dẫn cho họ cách phòng cháy, chỉ cho
34
họ những nơi có độ rủi ro cao mà công ty còn hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp
để công tác phòng cháy được tiến hành tốt hơn nhằm hạn chế tới mức tối thiểu các
rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới công việc kinh doanh.
Một khoản chi khác cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đề phòng hạn chế
tổn thất là chi tuyên truyền, quảng cáo. Việc chi tuyên truyền đề phòng, hạn chế tổn
thất cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy trong từng kỳ được tính bằng cách
tách chi phí tuyên truyền theo tỉ lệ chi tuyên truyền cho bảo hiểm cháy và gián đoạn
kinh doanh sau cháy. Sở dĩ có cách tính như vậy vì khi tuyên truyền, quảng cáo,
Bảo Việt không bao giờ tách riêng việc tuyên truyền, quảng cáo cho bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sau cháy ra khỏi bảo hiểm cháy do thực chất thì hai nghiệp vụ bảo
hiểm này có cùng rủi ro được bảo hiểm. Trong thời gian khoảng hai năm trở lại đây,
chúng ta cũng nhận thấy rằng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Bảo
Việt Hà Nội nói riêng và Tổng công ty bảo hiểm nói chung đã có nhiều chương
trình đề cập tới những tổn thất mang tính hậu quả có thể phát sinh trong cuộc sống
thường ngày nếu con người không biết tự bảo vệ lấy chính mình bằng những hành
động cụ thể nhằm ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, hàng năm công ty vẫn
cùng các công ty bảo hiểm khác như Vinare, Muniche,... hoặc cùng các công ty bảo
hiểm trong Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam đồng tổ chức các hội nghị, thông qua
đó tiến hành tìm hiểu, phân tích, đánh giá và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn để đề ra
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả nhất.
Tóm lại, rõ ràng công ty có chú trọng tới công tác đề phòng và hạn chế tổn thất đối
với nghiệp vụ bảo hiểm cháy cũng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Theo tỷ lệ chi đề phòng, hạn chế tổn thất tối đa tính trên phí bảo hiểm giữ lại của
từng nghiệp vụ bảo hiểm ban hành kèm theo thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày
28/8/2001 của Bộ Tài chính qui định tỉ lệ chi đề phòng hạn chế tổn thất của bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh là 5% trên tổng phí bảo hiểm giữ lại của nghiệp vụ này.
Trên thực tế thì số chi đề phòng, hạn chế tổn thất cho nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà
Nội qua các năm chủ yếu thấp hơn 5%. Như vậy, Bảo Việt Hà Nội đã giảm được
chi phí trong công tác đề phòng, hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, để có thể đánh giá
35
được kết quả của công tác này, chúng ta phải xem xem công tác đề phòng, hạn chế
tổn thất có mang lại kết quả là làm giảm tình hình xảy ra rủi ro hay không, cụ thể là
thông qua số liệu về các vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội.
2.3.3. Công tác giám định và bồi thường
Mục đích của hoạt động bảo hiểm là bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời và
công bằng cho người được bảo hiểm khi không may họ gặp phải rủi ro. Công tác
bồi thường được thực hiện hiệu quả chính là một biện pháp tốt nhất để tạo ra sự tín
nhiệm cũng như niềm tin của khách hàng đối với công ty bảo hiểm. Khi công tác
này được chú trọng thực hiện tất sẽ gây ra tiếng vang lớn, uy tín của công ty sẽ
được nâng cao và khi đó khách hàng sẽ trở thành người quảng cáo có hiệu quả nhất
cho công ty. Để tiến hành công tác bồi thường đủ, chính xác, công ty bảo hiểm phải
dựa chủ yếu vào kết quả thu được từ công tác giám định tổn thất. Chính vì vậy, đối
với Bảo Việt Hà Nội, công tác giám định và bồi thường được đánh giá là một dịch
vụ sau bán hàng hết sức quan trọng.
Trong thời gian qua, trên địa bàn Hà Nội cũng đã xảy ra nhiều vụ cháy và gây thiệt
hại không nhỏ cho các tổ chức, cá nhân liên quan và hậu quả là dẫn đến nhiều thiệt
hại ảnh hưởng tới quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp bị cháy. chúng ta có
thể đơn cử một số vụ sau:
-
Vụ cháy ở công ty liên doanh sản xuất xà phòng Lever Haso với thiệt hại
khoảng1,5 tỷ đồng (năm 1998)
-
Vụ cháy ở Công ty TNHH Transfield Việt nam với thiệt hại hơn 2 tỷ đồng
(năm 1999)
-
Vụ cháy ở Công ty may Hải Sơn với thiệt hại là 7,5 tỷ đồng (năm 2000)
-
Vụ cháy ở Công ty Muraya Việt Nam với thiệt hại là 6,25 tỷ đồng (năm
2000)
-
Vụ cháy ở Công ty TNHH Thịnh Khang với trị giá 6,2 tỷ đồng (năm 2000)
36
Tuy nhiên, các vụ cháy xảy ra hầu hết đều ở các đơn vị kinh doanh có chăng thì mới
tham gia bảo hiểm cháy, và chưa tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Công
tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội mới
trải nghiệm qua tổn thất gây ra bởi một số vụ cháy ước tính thiệt hại khoảng vài
trăm triệu đồng/vụ, nhưng không vì thế mà công tác giám định không gặp phải khó
khăn. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh có đặc điểm riêng là sau khi tổn thất xảy ra
người ta chưa thể xác định được ngay thiệt hại thực tế mà phải chờ một thời gian
nhất định (giai đoạn bồi thường) người bảo hiểm mới có thể tính được thiệt hại
thuộc trách nhiệm bồi thường. Do đó, việc hoàn tất hồ sơ giám định nhiều khi kéo
dài hàng năm gây không ít trở ngại cho cán bộ Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, khó
khăn đó là khó khăn mang tính khách quan do đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh. Thực tế, không thể phủ nhận rằng cán bộ Bảo Việt Hà Nội đã
có nhiều cố gắng trong việc hoàn thành các biên bản giám định khách quan, vô tư,
trung thực nhằm chi trả bồi thường đúng cho khách hàng.
Để phân tích tình hình bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội đối với nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh sau cháy, chúng ta hãy cùng xem xét bảng số liệu sau:
Bảng 4: Thực tế bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 -2001.
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Số tiền bồi
Số tiền bồi thường
Doanh thu
Tỉ lệ bồi
thường (vụ)
(1)
Số vụ bồi
thường
bình quân/ vụ
phí bảo hiểm
thường (%)
(2)
(3)
(4) = (3) : (2)
(5)
(6) = (3) : (5)
1998
_
_
_
399
_
1999
1
10,20
10,20
505
2,0
2000
2
425,00
212,50
650
68,5
2001
2
76,44
38,22
895
8,5
37
Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội
Qua bảng trên, rõ ràng số vụ bồi thường của nghiệp vụ này còn quá ít để có thể đưa
ra một kết luận chính xác. Trước năm 1999, thực tế Bảo Việt Hà Nội chưa hề bồi
thường cho bất cứ vụ tổn thất nào. Và cho tới năm 1999 thì Bảo Việt Hà Nội cũng
mới chỉ bồi thường cho 1 vụ với số tiền bồi thường là 10,2 triệu đồng, với tỉ lệ bồi
thường 2%, một tỉ lệ quá nhỏ so với tỉ lệ bồi thường trung bình của các nghiệp vụ
bảo hiểm. Việc không phải bồi thường cho một vụ nào trong những năm trước và
bồi thường quá ít trong năm 1999 tuy có ưu điểm là không phát sinh trách nhiệm
bồi thường của Bảo Việt Hà Nội, tăng lợi nhuận cho công ty nhưng cũng gây cho
Bảo Việt Hà Nội khó khăn trong việc nâng cao uy tín đối với khách hàng, khách
hàng chưa thực sự nhìn thấy tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Thêm
vào đó, cán bộ Bảo Việt Hà Nội cũng không có cơ hội tích luỹ kiến thức thực tế để
hoàn thiện công tác triển khai nghiệp vụ. Trong ba năm trở lại đây, Bảo Việt đã phải
đối mặt với một số vụ bồi thường, trong đó có 2 vụ bồi thường lớn vào năm 2000.
Tuy nhiên, do khả năng tài chính lớn mạnh của Bảo Việt Hà Nội cùng với việc phối
kết hợp sức mạnh của nhiều nghiệp vụ lại với nhau nên việc bồi thường nói chung
không có gì khó khăn về tài chính. Hơn nữa, các cán bộ bảo hiểm đã và đang cố
gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu bồi thường thoả đáng cho khách hàng, tạo
sự an tâm cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội. Cụ thể, đối
với nghiệp vụ này, Bảo Việt Hà Nội đã bồi thường thành công cho một số vụ lớn và
phức tạp như bồi thường cho B-Broun (năm 2000), Melia hotel (năm 2001).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, không thể phủ nhận một thực tế rằng Bảo Việt
Hà Nội cũng đã vấp phải những vướng mắc trong công tác bồi thường. Ví dụ như
với vụ bồi thường cho Hà Nội Club năm 2001, việc Bảo Việt Hà Nội chỉ chấp nhận
bồi thường phần mất lợi nhuận do gián đoạn kinh doanh và phần chi phí gia tăng
hợp lý sau khi đã trừ đi mức khấu trừ hai ngày, và không chấp nhận bồi thường
phần chi phí làm ngoài giờ của nhân viên trong công ty nhằm mục đích rút ngắn
thời gian gián đoạn kinh doanh đã gây ra bất đồng lớn giữa khách hàng và công ty
bảo hiểm. Về phần khách hàng, họ nghĩ rằng họ hoàn toàn có quyền đòi công ty bảo
38
hiểm bồi thường cho chi phí họ bỏ ra để đưa công ty trở về hoạt động kinh doanh
bình thường như trước khi tổn thất xảy ra. Về phía công ty thì nhân viên không giải
thích cho khách hàng lý do vì sao lại từ chối bồi thường, do đó đã gây mối nghi ngờ
cho khách hàng. Xét cho cùng thì nguyên do chính của thực trạng này là do tính
phức tạp trong quá trình tính số tiền bồi thường. Trong khi tất cả các vụ bồi thường
đều cho các đối tác nước ngoài, những người đã quá quen thuộc và có kiến thức sâu
về loại hình bảo hiểm này, thì những người cán bộ bảo hiểm lại cảm thấy bị động
khi tiếp xúc với loại hình bảo hiểm mà chính họ đang triển khai. Điều đáng nói là số
cán bộ bảo hiểm biết lợi nhuận gộp là gì, tỉ lệ lợi nhuận gộp là gì hay số tiền bồi
thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở nào tại Bảo Việt
Hà Nội không nhiều, vì vậy khi gặp trường hợp phải bồi thường, tất cả trông chờ
vào số ít người am hiểu nghiệp vụ làm cho công tác bồi thường bị chậm lại, tạo sự
bực tức cho khách hàng. Hơn nữa, khi tiếp xúc với khách hàng là đối tác nước
ngoài, hầu hết cán bộ của Bảo Việt Hà Nội không đủ trình độ ngoại ngữ để giải
thích với khách hàng, mà những người phiên dịch thì không đủ kiến thức về bảo
hiểm để truyền đạt lại những gì cần truyền đạt, do vậy dẫn đến việc khách hàng hiểu
nhầm và mất lòng tin vào Bảo Việt Hà Nội.
2.3.4. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
Như chúng ta biết, kết quả kinh doanh được xác định bằng chênh lệch giữa tổng các
khoản thu và tổng các khoản chi. Đối với một doanh nghiệp bảo hiểm, muốn nâng
cao hiệu quả kinh doanh thì cùng với việc phải tăng cường tổng thu còn phải chú ý
đến các khoản chi sao cho việc chi phải hết sức tiết kiệm, chi đúng mục đích và theo
đúng chế độ qui định của Bộ Tài Chính. Trong hoạt động bảo hiểm tại Bảo Việt Hà
Nội hiện nay, khoản thu chủ yếu vẫn là thu từ phí bảo hiểm, hoạt động đầu tư còn
hạn chế nên thu từ hoạt động đầu tư hầu như không có. Do đó, các khoản thu có thể
thấy được rất dễ dàng thông qua doanh thu phí, còn việc tập hợp các khoản chi có
vẻ phức tạp hơn. Bảng số liệu sau là một minh chứng giúp chúng ta thấy rõ hơn về
thực tế chi cho nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội trong
giai đoạn 1998 -2001.
39
Bảng 5:
Tình hình chi kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn
1998 - 2001.
Đơn vị : triệu đồng
Chi bồi thường
Năm
Chi hoa hồng
Tổng
chi
Chi đề phòng,
Chi dự phòng
hạn chế tổn thất
nghiệp vụ
Chi quản lý
Chi khác
Mức
Tỷ lệ
Mức
Tỷ lệ
Mức
Tỷ lệ
Mức
Tỷ lệ
Mức
Tỷ lệ
Mức
Tỉ lệ
chi
%
chi
%
chi
%
chi
%
chi
%
chi
%
_
47,88
30,8
19,95
12,8
35,5
22,8
39,9
25,7
12,27
7,9
1998
155,5
_
1999
207,3
10,2
4,9
60,60
29,2
21,21
10,2
50,2
24,2
50,0
24,1
15,09
7,4
2000
684,9
425,0
62,1
78,00
11,4
29,25
4,3
63,5
9,3
62,0
9,0
27,15
3,9
2001
411,0
76,4
18,6
89,50
21,8
35,80
8,7
87,9
21,4
87,8
21,3
33,60
8,2
40
- Xem thêm -