luËn v¨n tèt nghiÖp
Rơ móc
Thiết bị chuyên
dùng
7
8
30% phí của xe tải ở mục 4
Tính bằng 120% so với xe cùng trọng tải
Nguồn theo quy tắc bảo hiểm xe cơ giới
Ngoài ra công ty còn ban hành thêm biểu phí và hạn mức trách
nhiệm áp dụng cho chủ xe tham gia là người nước ngoài.
Trong những năm qua mặc dù thị trường bảo hiểm Hà Nội nói riêng
và thị trường bảo hiểm cả nước nói chung có sự canh tranh gay gắt, thậm trí
là không lành mạnh có đến 5 công ty lớn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
này. Nhưng kết quả trong 7 năm triển khai cho thấy nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 đã giành được
những kết quả đáng mừng
1.1. Về số lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm
Ngày nay số lượng các phương tiện giao thông tăng lên rất nhanh do
vậy tỷ lệ xe tham gia bảo hiểm đều có xu hướng tăng dần từ năm 96 đến
năm 2001 cụ thể như sau :
Bảng 3 : Tình hình tham gia bảo hiểm tại PJICO
Tiêu chí
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Số xe thực tế lưu
hành( Chiếc)
- Ô tô
- Xe máy
4.595.223
5.484.470
5.692.035
6.132.567
6.647.703
7.611.620
386.947
4.208.274
434.574
5.049.896
468.910
5.223.125
521.683
5.610.884
565.504
6.082.198
601.520
7.010.100
Số xe tham gia
bảo hiểm (Chiếc)
- Ô tô
- Xe máy
23.491
43.486
49.292
54.862
79.439
125.577
14.796
14.668
24386
19100
27.548
21.744
32.265
22.587
46.719
32.720
73.839
51.738
0,51
0,792
0,865
0,894
1,19
1,65
3,82
0,21
5,61
3,378
5,87
0,416
6,16
0,402
8,26
0,537
12,27
0,738
Tỷ lệ tham gia
bảo hiểm (%)
- Ô tô
- Xe máy
Nguồn báo cáo hàng năm của PJICO
Qua số liệu ở bảng 3 ta tính được một số các chỉ tiêu như sau :
41
luËn v¨n tèt nghiÖp
Bảng 4 Một số các chỉ tiêu về tình tham gia bảo hiểm tại PJICO
Đơn vị %
Chỉ tiêu
1997
A, Đốivới xe thực tế lưu
hành
1, Tốc độ tăng
* Tốc độ tăng liên hoàn
19,35
- Ô tô
12,308
- Xe máy
19,99
* Tốc độ tăng so với định 19,35
gốc
- Ô tô
12,308
- Xe máy
19,99
2, Tốc độ phát triển
* Tốc độ phát triển liên 119,35
hoàn
- Ô tô
112,308
- Xe máy
119,99
* Tốc độ phát triển định gốc 119,35
- Ô tô
112,308
- Xe máy
119,99
B, Đối với số xe tham gia
bảo hiểm
1, Tốc độ tăng
* Tốc độ tăng liên hoàn
85,11
- Ô tô
64,81
- Xe máy
121,56
* Tốc độ tăng định gốc
85,11
- Ô tô
64,81
- Xe máy
121,56
2, Tốc độ phát triển
* Tốc độ phát triển liên 185,11
hoàn
- Ô tô
164,81
- Xe máy
221,77
* Tốc độ phát triển định gốc 185,11
- Ô tô
164,81
- Xe máy
121,56
1998
1999
2000
2001
3,784
7,9
3,43
23,86
7,74
11,29
7,42
33,45
8,4
8,36
8,4
44,66
14,5
6,368
15,25
65,64
21,18
24,11
34,82
33,33
46,14
44,53
55,45
66,57
103,78
107,74
108,4
114,5
107,9
103,43
123,868
121,18
124,11
111,29
107,42
133,45
134,82
133,33
108,36
108,4
144,66
146,14
144,53
106,368
115,25
165,64
155,45
166,57
13,35
12,96
13,84
109,83
86,18
152,19
11,3
17,12
3,87
133,54
118,06
161,96
44,79
44,8
44,86
238,167
215,75
279,49
58,07
58,05
58,12
434,5
339,04
500
113,35
111,3
144,79
158,07
112,96
113,84
209,83
186,18
252,19
117,12
103,87
233,54
218,54
261,96
144,8
144,86
338,1672
315,75
379,49
158,05
158,12
534,59
439,04
600
Nhìn vào bảng tính chỉ tiêu trên ta thấy số lượng xe cơ giới tham gia
lưu thông ngày càng tăng dần. Năm 2000 so với năm 1996 lượng xe cơ giới
tăng 65,64%, số xe tham gia bảo hiểm cũng tăng dần từ năm 1996 đến năm
2000 cụ thể như sau :
42
luËn v¨n tèt nghiÖp
- Năm 1996 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 0,51% tổng số xe lưu
hành
- Năm 1999 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 0,89% tổng số xe lưu
hành
- Năm 200 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 1,19% số xe lưu hành
- Năm 2001 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 1,65% số xe lưu hành
Về số tuyệt đối năm 1996 số xe tham gia bảo hiểm tại công ty là 23.414 xe.
Năm 2000 số xe tham gia bảo hiểm là 79439 xe tăng 46,66% so với năm
1996
Tuy nhiên nhìn vào tỷ trọng số xe cơ giới tham gia bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại công ty còn rất nhỏ
bé so với số lượng xe thực tế lưu hành. Mặc dù trên thực tế số lượng xe
máy tham gia giao thông gấp 12 lần xe ô tô đó là điều nghịch lý, chứng tỏ
công ty chưa chú tâm khai thác nghiệp vụ này đối với xe máy. So với bảo
việt thì số lượng xe máy tham gia nghiệp vụ này lại cao hơn rất nhiều so
với ô tô. Điều này cũng dễ hiểu bởi bảo việt là công ty triển khai nghiệp vụ
này là sớm nhất, họ đã giành được thị phần lớn, hơn nữa họ lại có một hệ
thống, mạng lưới kinh doanh trong cả nước. Ngoài ra bảo việt còn phối hợp
với các cơ quan đăng kiểm, đăng kí xe để bắt buộc các chủ phương tiện
phải mua bảo hiểm khi đăng ký xe.
Đối với PJICO là một công ty mới thành lập, nhưng đã sớm khẳng
định mình trên thị trường bảo hiểm. Những nghiệp vụ mà công ty triển khai
đã và đang đóng góp không nhỏ vào thành quả chung của công ty. Trong
đó nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ 3 đang có mức tăng trưởng khá và ổn định. Tuy vậy công ty chưa thực
sự khai thác được tiềm năng của thị trường này.
* Đối với ô tô
Số lượng ô tô từ năm 1996 đến năm 2001 tăng xấp xỉ 9,3% một năm.
Năm 1996 cả nước có 386.946 xe thì đến năm 2001 có 601.520 xe. Trong
43
luËn v¨n tèt nghiÖp
đó số xe được bảo hiểm trong cả nước năm 1996 là 86.998 xe, trong khi
tham gia tại PJICO là 14.796 xe chiếm gần 6% số lượng xe tham gia bảo
hiểm trong toàn quốc.
Số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm năm 1999 là 167.625 xe trong
khi số xe tham gia tại công ty là 32265 xe chiếm gần 19,24% số lượng xe
tham gia bảo hiểm trên toàn quốc. Năm 2000 số xe ô tô tham gia bảo hiểm
trên cả nước là 199.630 xe trong đó tham gia tại PJICO là 46719 xe chiếm
gần 23,4% số lượng xe tham gia bảo hiểm trong toàn quốc.Tỷ lệ ô tô được
bảo hiểm bình quân ở giai đoạn này mới chỉ đạt gần 35% tổng số xe các
loại. Điều đó chứng tỏ số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm tại công ty có xu
hướng tăng nhanh, thị phần của công ty ngày càng được củng cố và không
ngừng mở rộng
* Đối với xe máy
Số lượng xe máy lưu hành trên toàn quốc từ năm 1996 đến năm 2001
tăng bình quân 12,575% một năm. Năm 2001 số lượng xe máy tăng
66,57% so với năm 1996. Về số tuyệt đối năm 1996 trên cả nước có
4.208.247 xe thì đến năm 2001 số xe lưu hành đã là 7.010.100 xe. Năm
1996 số xe máy tham gia bảo hiểm là 900.000 chiếc chiếm 21,386%. Năm
2001 thì chỉ có 1.121.616 chiếc được bảo hiểm chiếm 10,6% tổng số xe lưu
hành đó là điều nghịch lý bởi cũng trong khoảng thời gian này số lượng xe
máy tăng lên 66,57% so với năm 1996. Trong khi đó số xe máy tham gia
tại công ty năm 1996 là 8.622 chiếc chiếm chưa đầy 1% so với lượng xe
bảo hiểm trong toàn quốc. Đến năm 2001 thì số xe tham gia bảo hiểm tại
công ty là 51.738 chiếc gấp 6 lần số xe tham gia bảo hiểm năm 1996. Tỷ lệ
xe máy được tham gia bảo hiểm bình quân cả nước trong giai đoạn 96 đến
2001 mới chỉ đạt 10,6% tổng số xe lưu hành, tỷ lệ xe máy tham gia bảo
hiểm lại thấp dần qua các năm :
44
luËn v¨n tèt nghiÖp
Cụ thể năm 1996 tỷ lệ xe máy tham gia bảo hiểm là 21,368%, năm
1997 là 16,6%, năm 2000 chỉ còn 10,6%. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do
số lượng xe tham gia bảo hiểm tăng nhẹ trong khi số xe tham gia lưu thông
lại tăng rất nhanh qua các năm.
Từ khi có nghị định 115/1997/CP về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 thì số xe tham gia bảo
hiểm tại công ty có xu hướng tăng trong khi số xe tham gia bảo hiểm trong
cả nước lại có xu hướng giảm chứng tỏ việc khai thác ở công ty đã giành
được những thành tích đáng khích lệ.
Tuy nhiên trong khâu khai thác còn rất nhiều mặt hạn chế cần sớm
được khắc phục. Những hạn chế này xuất phát từ rất nhiều những nguyên
nhân khác nhau :
Xét trên giác độ chủ quan ( về phía công ty )
-
Hầu hết cán bộ công nhân viên công ty có trình độ cao (trên
95% có trình đại học trở nên) tuy nhiên do chưa có nhiều kinh nghiệm, đặc
biệt là khâu khai thác do đó hiệu quả khai thác là chưa cao. Mặc dù có
nhiều nhân viên có trình độ đại học nhưng số nhân viên được đào tạo
chuyên sâu về bảo hiểm là còn nhiều hạn chế.
-
Do công ty chưa biết tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các
ngành, các cấp có liên quan trong việc tạo điều kiên thuận lợi để khai thác
hết tiềm năng bảo hiểm
-
Do sự cạnh tranh gay gắt khiến cho các công ty hạ phí xuống
mức tuỳ ý đã làm cho công ty bị động, nên việc cạnh tranh thu hút khách
hàng gặp nhiều khó khăn
-
Công tác tuyên truyền còn nhiều hạn chế, do vậy người dân
chưa thấy được lợi ích và nghĩa vụ khi tham gia bảo hiểm
45
luËn v¨n tèt nghiÖp
-
Các mức phí mà công ty áp dụng chưa linh hoạt, chưa phù hợp
với khả năng tài chính của công ty và người tham gia bảo hiểm
* Về phía cơ quan hữu quan :
-
Đứng về phía người tham gia bảo hiểm : Do các chủ xe và lái
xe chưa nhận thức đúng, đầy đủ về ý nghĩa tác dụng của bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, tâm lý của một số
người còn cho rằng khi có tai nạn xảy ra thì họ khó có thể đòi ngay được
tiền bồi thường do thủ tục bồi thường còn chậm chạp, mất thời gian. Vì vậy
họ coi việc tham gia nghiệp vụ này chỉ vì tính bắt buộc, do vậy các chủ
phương tiện xe cơ giới chưa có thái độ tự giác tự nguyện tham gia
-
Do sự lỏng lẻo của cơ quan chức năng đặc biệt là lực lượng
cảnh sát giao thông chưa kiểm tra sát sao và chặt chẽ các giấy tờ cần thiết
khi lưu hành xe, Đặc biệt là giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1.2. Về doanh thu phí bảo hiểm
Mặc dù thị trường bảo hiểm luôn có sự cạnh tranh gay gắt thậm trí là
sự cạnh tranh không lành mạnh, nhưng công tác khai thác của nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3 ở công ty vẫn đạt được
những kết quả khả quan.Tỷ trọng doanh thu phí nghiệp vụ so với tổng
doanh thu toàn công ty có xu hướng giảm nhưng về số tuyết đối thì doanh
thu nghiệp vụ có xu hướng tăng qua các năm cụ thể :
Bảng 5 : Bảng tỷ trọng doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Năm
Doanh thu nghiệp
vụ (triệu đồng)
Doanh thu bảo
hiểm gốc toàn
công ty
(Triệu đồng)
46
Tỷ trọng doanh
thu bảo hiểm
trách nhiệm dân
sự (%)
luËn v¨n tèt nghiÖp
1996
1997
1998
1999
2000
2001
4232
5355
6058
6795
9732
15604
52230
80279
96353
97276
123655
146538
8,1
6,67
6,287
6,985
7,87
10,648
Nguồn phòng quản lý nghiệp vụ
Trong bảng 4 ta thấy tốc độ tăng xe máy tham gia bảo hiểm là nhanh
hơn số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm. Cụ thể tốc độ tăng về số xe máy
tham gia bảo hiểm năm 2001 so với năm 1996 là 500% trong khi ô tô tỷ lệ
này là 339,04%
Tuy nhiên do mức phí bảo hiểm bình quân một xe máy là thấp hơn
rất nhiều lần so với phí bảo hiểm bình quân của một đầu xe ô tô. Các chủ
xe máy tham gia bảo hiểm phần lớn là tham gia do tính bắt buộc nên không
tham gia với mức trách nhiệm cao. Trong khi các chủ xe ô tô tham gia với
mức trách nhiệm cao và có tính tự nguyện bởi họ ý thức được sự nguy
hiểm khi điều khiển xe ô tô, họ ý thức được trách nhiệm của mình. Do vậy
nguồn phí thu được từ ô tô đem lại nhiều hơn :
Bảng 6 : Doanh thu phí theo cơ cấu xe tham gia bảo hiểm
Doanh
thu phí
1996
1997
1998
1999
2000
2001
- Ô tô
3895,28
4926,6
5573,36
6238,8
9054,6
13899,4
- Xe máy
338,72
428,4
484,64
556,93
667,488
1704,56
4234
5355
6058
6795
9732
15604
(triệu đồng)
Tổng cộng
Nguồn phòng kế toán công ty PJICO
Tổng doanh thu phí nghiệp vụ tăng nên hàng năm, năm sao cao hơn
năm trước và luôn vượt mức kế hoạch đề ra :
47
luËn v¨n tèt nghiÖp
Bảng 7 : Tình hình thực hiện kế hoạch thu phí nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Số phí bảo hiểm kế
hoạch (triệu đồng)
3535
4137
4639
6067
8896
12238
Phí thực thu
(Triệu đồng)
4234
5355
6058
6795
9732
15604
Tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch ( đơn vị %)
119,8
128,32
130,6
112
109,4
127,5
Nguồn phòng quản lý nghiệp vụ
Nhìn vào bảng 7 ta thấy :
Năm 1996 công ty thu được 4234 triệu đồng đạt 119,8% kế hoạch
vượt kế hoạch 699 triệu đồng
- Năm 1997 công ty thu được 5355 triệu đồng đạt 128,32% vượt kế hoạch
-
Năm 1998 là năm vượt kế hoạch cao nhất đạt 130,6% kế hoạch
-
Năm 2000 công ty thu được 9732 triệu đồng đạt 109,4% kế hoạch,
vượt kế hoạch 836 triệu đồng
Nhìn chung công tác khai thác đã giành được nhiều kết quả khả
quan, số phí thu được và số lượng xe tham gia bảo hiểm tại công ty ngày
một tăng thế nhưng so với số lượng xe thực tế lưu hành thì tỷ lệ này là quá
nhỏ (năm 2001 là 1,65%). Do vậy tiềm năng về khả năng phát triển nghiệp
vụ này là rất khả quan. Công ty cần tích cực trú trọng vào khâu khai thác,
48
luËn v¨n tèt nghiÖp
tích cực nâng cao chất lượng nghiệp vụ và không ngừng tuyên truyền giáo
dục nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ phương tiện cơ giới.
Điều đó góp phần không nhỏ làm tăng doanh thu cho công ty và giúp ổn
định cuộc sống cho người bị hại.
. CÔNG TÁC ĐỀ PHÒNG VÀ HẠN CHẾ TỔN THẤT
Trong những năm qua tình hình tai nạn giao thông đường bộ ngày
càng có diến biến phức tạp, số vụ tai nạn xảy ra ngày càng tăng và tính
nghiêm trọng của nó cũng cao hơn. Với phương châm “phòng bệnh hơn
chữa bệnh” công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc phòng chống tai nạn giao thông xảy ra ở nước ta. Đề
phòng và hạn chế tổn thất đó là một khâu không thể thiếu được trong quá
trình kinh doanh của bất kì một công ty bảo hiểm nào. Bởi vì thực chất của
hoạt động bảo hiểm là chuyển giao rủi ro cho nhà bảo hiểm, theo đó người
tham gia bảo hiểm đồng ý trả cho người bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí
bảo hiểm và người bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người tham gia. Do vậy
công ty bảo hiểm rất quan tâm đến việc quản lý rủi ro tổn thất thông qua đề
phòng và hạn chế tổn thất. Đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ là trách
nhiệm mà còn là quyền lợi của công ty bảo hiểm
Nếu thực hiện tốt khâu này thì số vụ tổn thất sẽ giảm đi và công ty
bảo hiểm sẽ giảm số tiền bồi thường cho các đối tượng tham gia bảo hiểm
góp phần làm tăng lợi nhuận cho công ty. Mặt khác công tác đề phòng và
hạn chế tổn thất còn đem lai sự an toàn, sự bình yên và một tâm lý thoải
mái cho mọi người trong cuộc sống và trong hoạt động sản suất kinh doanh
Bởi vậy ngay từ khi triển khai nghiệp vụ này công ty bảo hiểm
PJICO luôn quan tâm chú ý coi trọng công tác đề phòng và hạn chế tổn
thất.
49
luËn v¨n tèt nghiÖp
-
Công ty đã cùng các ngành giao thông xây dựng hàng loạt
đường lánh nạn và các đường rào chắn ở một số các đoạn đường nguy hiểm
như đèo Măng Găng, đèo Hải Vân, đèo Gió, đèo Ngoạn Mục
-
Công ty cũng tiến hành phối hợp với các cơ quan, ngành chức
năng như sở giao thông công chính, phòng cảnh sát giao thông thực hiện
tuyên truyền trên địa bàn về luật an toàn giao thông nhằm nâng cao sự hiểu
biết và ý thức chấp hành luật lệ giao thông của nhân đân và các chủ phương
tiện cơ giới
-
Đối với ngành đường sắt công ty tiến hành lắp các lưới chống
gạch đá và lắp các barie để tránh các nơi có đường bộ giao với đường sắt,
công ty cũng lắp đặt các pa nô- áp phích, biển báo góp phần nhắc nhở lái xe
và mọi người đề phòng tránh những tai nạn đáng tiếc xảy ra
-
Công ty cũng yêu cầu các chủ xe thực hiện công tác đề phòng
và hạn chế tổn thất như thường xuyên kiểm định tu dưỡng bảo dưỡng xe,
đảm bảo an toàn kỹ thuật khi vận hành xe
-
Khi tai nạn xảy ra thì các chủ phương tiện phải có trách nhiệm
hạn chế tối thiểu thiệt hại cho tài sản và đưa người bị thương đến cơ sở y tế
nơi gần nhất. Hàng năm công ty luôn trích 3% kinh phí để thực hiện công
tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Để thấy rõ tình hình chi đề phòng và hạn chế tổn thất của PJICO ta
có bảng sau đây
50
luËn v¨n tèt nghiÖp
51
luËn v¨n tèt nghiÖp
Nhìn vào bảng 8 ta thấy số tiền chi đề phòng và chế tổn thất tăng qua
các năm :
- Năm 1996 chi đề phòng và hạn chế tổn thất là 95,265 triệu đồng
- Năm 1999 chi đề phòng và hạn chế tổn thất 147,45 triệu đồng
- Năm 2000 chi đề phòng và hạn chế tổn thất 219,9 triệu đồng
Năm 2001 số tiền tăng nên là 336,3 triệu đồng tăng gấp 2,8 lần so với năm
1996. Trong đó tuyên truyền quảng cáo chiếm tỷ trọng lớn. Năm 1996 chi
cho tuyên truyền quảng cáo chiếm tới 40,64% tổng chi. Năm 2000 chiếm
tới 42,62% tổng chi. Sang năm 2001 chi cho tuyên truyền quảng cáo tại
công ty vẫn có xu hướng tăng
Tỷ lệ chi cho hỗ trợ và khen thưởng chiếm một phần lớn. Năm1996
chiếm tới 29,12% tổng chi, năm 2001 thì tỷ lệ này giảm xuống còn 25,82%.
Tổng chi đề phòng và hạn chế tổn thất cũng tăng nhanh qua các năm qua
các năm:
-
Năm 1998 so với năm 1996 tăng 84,94%
-
Năm 1999 so với năm 1998 giảm 17,8%
-
Năm 2000 so với năm 1999 tăng 49,15%
-
Năm 2001 so với năm 2000 tăng 52,9%
Qua đây ta thấy được rằng trong giai đoạn đầu công ty chi nhiều cho
công tác tuyên truyền quảng cáo. Sở dĩ như vậy là do trong giai đoạn này
công ty mới gia nhập thị trường bảo hiểm công ty cần tạo được hình ảnh
cho mình, tạo uy tín và khắc sâu trong ý thức của khách hàng.
PJICO luôn nhận thức được vai trò công tác đề phòng và hạn chế
thất thế nhưng hiệu quả của công tác nay chưa cao, điều này thể hiện tuy số
52
luËn v¨n tèt nghiÖp
vụ tai nạn đã giảm nhưng mức độ thiệt hại của mỗi vụ lại có xu hướng tăng
nên
Sở dĩ như vậy là do cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông lạc hậu lại bị
xuống cấp nghiêm trọng, ít sửa chữa, mật độ của các phương tiện tham gia
giao thông ngày càng tăng do vậy dẫn đến tỷ lệ tai nạn giao thông có xu
hướng tăng lên. Mặt khác do doanh thu phí nghiệp vụ là nhỏ, chi phí dành
cho đề phòng hạn chế tổn thất lại chỉ chiếm 3% doanh thu thì lại càng ít ỏi
hơn do vậy hiệu quả của công tác này còn nhiều hạn chế
Công ty cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa, cần nghiên cứu sao cho
việc thực hiện công tác này có hiệu quả, giảm thiểu được những thiệt hại,
đẩm bảo an toàn cho các phương tiện giao thông cơ giới, người thứ 3 và
cộng đồng
3. CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH - BỒI THƯỜNG
3.1 Công tác giám định
Công tác giám định là một khâu trung gian giữa khâu khai thác và
khâu bồi thường
Nó có tác dụng giúp cho việc tính toán bồi thường được chính xác và
kịp thời.
Những thiệt hại về người và tài sản và mức độ lỗi của các bên là rất
phức tạp đòi hỏi có sự chính xác. Khi có sự thông báo tai nạn xảy ra các
giám định viên của công ty phải kịp thời tới ngay hiện trường để thu thập
các chứng cứ có liên quan đến vụ tai nạn và phối hợp với cảnh sát giao
thông để xác định nguyên nhân gây ra tai nạn.
Đồng thời cán bộ giám định đánh giá mức dộ thiệt hại và mức độ lỗi
của các bên. Tuy nhiên công việc này rất là phức tạp vì nó liên quan đến lợi
ích của nhiều bên, đặc biệt là bên thứ 3, việc xác định căn cứ vào luật dân
53
luËn v¨n tèt nghiÖp
sự và luật lệ an toàn giao thông. Do vậy đòi hỏi cán bộ giám định phải có
chuyên môn sâu về nghiệp vụ, phải am hiểu luật dân sự và luật an toàn giao
thông, hiểu biết về thông tin giá cả thị trường, am hiểu về kỹ thuật
Kiến thức này sẽ giúp cho việc giám định một cách chính xác, tránh
tình trạng giám định sai làm tổn hại đến uy tín của công ty và mất đi quyền
lợi khách hàng. Ngoài ra để tránh trường hợp trục lợi bảo hiểm ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của công ty. Các giám định viên ngoài trình dộ
chyên môn phải có tư cách đạo đức tốt, tận tụy với khách hàng. Góp phần
nâng cao uy tín với khách hàng và thu hút nhiều khách hàng mua nhiều sản
phẩm bảo hiểm của công ty
Để tạo điều kiện cho công tác giám định thì công ty đã không ngừng
đầu tư trang thiết bị hiện đại như : máy ảnh, thước, phương tiện liên lạc,
phương tiện đi lại…
Ngoài ra công ty cũng đã phối hợp với các cơ quan chức năng,
phòng cảnh sát giao thông cùng phân định lỗi mỗi khi có thiệt hai xảy ra,
tạo nên sự phối hợp chặt chẽ và khách quan trong khâu giám định tạo lòng
tin cho khách hàng giúp cho quá trình bồi thường nhanh gọn tiết kiệm, tạo
tâm lý thoả mái, tin cậy lẫn nhau
Năm 1996 xảy ra 617 vụ tai nạn thuộc trách nhiệm của công ty.
Công ty đã tiến hành giám định 602 vụ và chuyển hồ sơ cho phòng bồi
thường để giải quyết còn 15 vụ chưa rõ ràng thì chuyển sang năm sau.
Năm1997 công ty đã giám định 655 vụ còn 21 vụ chuyển sang năm sau
Năm 2001 công ty đã tiến hành giám định 527 vụ còn 25 vụ chuyển
sang 2001
Như vậy số vụ tai nạn được giám định trong năm chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng số các vụ tai nạn phát sinh thuộc trách nhiệm. Điều đó thể hiện
54
luËn v¨n tèt nghiÖp
những nỗ lực của cán bộ công nhân viên toàn công ty nói chung và của bộ
phận giám định nói riêng
Tuy nhiên cũng phải nói nên một thực tế khó khăn gây trở ngại lớn
đến công tác giám định của công ty, làm ảnh hưởng xấu đến khâu bồi
thường
Thứ nhất:
Do công ty mới bước vào thị truờng bảo hiểm được 7 năm do vậy
kinh nghiệm còn nhiều hạn chế hơn nữa cán bộ công nhân viên giám định
tại công ty chưa được đào tạo chính quy về công tác này, những hiểu biết
về xe cơ giới còn hời hợt không chuyên sâu
Do đó thường xuyên gặp phải những lúng túng và những vướng mắc
trong quá trình giám định. Đặc biệt là những vụ tai nạn có tính nghiêm
trọng và phức tạp, có nhiều chi tiết bỏ qua mà từ đó có thể bị trục lợi hoặc
trốn tránh trách nhiệm bồi thường của chủ xe
Thứ hai:
Do địa bàn tham gia bảo hiểm cũng như xe cơ giới là rất rộng, mà
công ty chưa có chi nhánh ở hầu hết các tỉnh do vậy sẽ gây khó khăn trong
việc giám định trực tiếp tại hiện trường
Thứ ba:
Do số nhân viên giám định trình độ còn hạn chế, số lượng thì ít. Hầu
hết hồ sơ biên bản giám định phải dựa trên hồ sơ của công an, bệnh viện và
các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đây là một nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến việc giám định thiếu chính xác, không đánh giá đúng tổn thất thực
tế là bao nhiêu, gây phát sinh tiêu cực trong khâu bồi thường
55
luËn v¨n tèt nghiÖp
Hầu hết các vụ tai nạn xảy ra việc xác định lỗi là rất khó, thường là
do sự thương lượng giữa các bên tham gia, chỉ khoảng gần 5% số vụ phải
đưa ra xét xử. Khi tai nạn xảy ra thì mọi hồ sơ lại do công an trực tiếp quản
lý và lắm giữ, sự phối hợp giữa công ty và cơ quan công an còn lỏng lẻo.
Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới công tác giám định. Để hoàn thiện công
tác giám định công ty đã và đang tăng cường đội ngũ cán bộ công nhân
viên giám định cả về số lượng và chất lượng nhằm giám định một cách
nhanh chóng,chính xác, kịp thời tạo uy tín của PJICO trên thị trường bảo
hiểm Việt Nam
3.2. Công tác bồi thường
Giải quyết bồi thường là một khâu rất quan trọng, đây là một công
việc cuối cùng của một hợp đồng bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Cùng với khâu giám định nó ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, kết quả, hiệu
quả kinh doanh của công ty. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì công tác bồi thường chính là
lúc nghiệp vụ này thể hiện rõ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của nó.
Nhận thức được tầm quan trọng này công ty bảo hiểm PJICO đã rất
quan tâm chú trọng đến công tác giải quyết bồi thường. Trong quá trình
tiếp nhận hồ sơ bồi thường từ khách hàng thì cán bộ công nhân viên luôn
hướng dẫn khách hàng hoàn tất thủ tục hồ sơ theo đúng quy định với tinh
thần, thái độ tận tình. Nhân viên công ty ấn định rõ ngày trả tiền bồi
thường, chủ động liên lạc qua điện thoại nhằm hạn chế việc đi lại gây phiền
hà cho khách hàng. Mỗi năm xác suất xảy ra tai nạn là khác nhau, với mức
độ khác nhau nên công tác bồi thường ở PJICO hàng năm cũng khác nhau.
Để có một cái nhìn thực sự bao quát và một nhận xét chính xác hơn,
khách quan hơn về công tác bồi thường tại công ty chúng ta sẽ xem xét
phân tích số liệu ở bảng sau đây:
56
luËn v¨n tèt nghiÖp
57
luËn v¨n tèt nghiÖp
58
luËn v¨n tèt nghiÖp
Qua bảng trên ta thấy số vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm trách
nhiệm dân sự và số tiền bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân
sự đối với người thứ 3 tại công ty có sự biến động qua các năm.
Năm 1996 xảy ra 617 vụ chiếm 2,62% tổng số xe tham gia bảo hiểm
Năm 1997 số vụ tai nạn là 676 vụ chiếm 1,55% trong đó chủ yếu là ô
tô với 466 xe chiếm 68,93% số vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm. Bước
sang năm 1998 và 1999 tình hình giao thông có những chuyển biến tích cực
số vụ tai nạn có xu hướng giảm.
Năm 1998 xảy ra 617 vụ chiếm 1,25% tổng số xe tham gia bảo hiểm.
Năm 1999 số vụ tai nạn giảm chỉ còn 574 vụ. Đến năm 2001 là 552
vụ. Điều này cho thấy số vụ tai nạn có xu hướng giảm điều đó là do trong
vài năm trở lại đây công tác đề phòng và hạn chế tổn thất đã bắt đầu phát
huy hiệu quả, các chủ xe đã ý thức được phần nào trách nhiệm nghề nghiệp
của mình do đó đã hạn chế được số vụ tai nạn xảy ra.
Mặc dù số lượng các vụ tai nạn giao thông có xu hướng giảm xuống
nhưng tổng số tiền bồi thường và số tiền bồi thường bình quân một vụ lại
có xu hướng tăng nhanh.
Năm 1996 tổng số tiền bồi thường là 3,0188 tỷ đồng, số tiền bồi
thường bình quân một vụ là 5,014 triệu đồng. Năm 1998 số tiền bồi thường
là 4,325 tỷ đồng, số tiền bồi thường bình quân một vụ là 6,659 triệu đồng.
Năm 1999 số tiền bồi thường lên đến 4,599 tỷ đồng. Mặc dù số vụ tai nạn
đã giảm đáng kể nhưng do mức độ tổn thất cuả các vụ tai nạn lại có xu
hướng tăng thêm làm cho số tiền bồi thường bình quân một vụ năm 1999
tăng lên 8,24 triệu đồng. Bước sang năm 2001 số tiền bồi thường bình quân
một vụ là 19,373 triệu đồng tăng 2,35 lần so với năm 1999.
59
luËn v¨n tèt nghiÖp
Qua số liệu cũng cho ta thấy số tiền bồi thuờng bình quân một vụ của
xe ô tô cao hơn rất nhiều lần đối với xe máy. Trong các năm từ 1998 đến
2001 số tiền bồi thường xe ô tô luôn gấp từ 8,3 đến 59,47 lần so với xe
máy. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi vì mức độ thiệt hại do xe ô tô gây ra
luôn cao hơn rất nhiều so với xe máy, xác suất tai nạn ô tô xảy ra cao hơn
xe máy và số xe ô tô tham ra bảo hiểm tại công ty nhiều hơn so với xe máy.
Quý I năm 2001 xảy ra rất nhiều các vụ tai nạn giao thông nghiêm
trọng, tỷ lệ tai nạn giao thông tăng trên 130,3%. Đây là một thách thức lớn
cho ngành bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng.
Công ty cần phải chú trọng đến công tác đề phòng và hạn chế tổn
thất, đặc biệt chú ý đến công tác tổ chức tuyên tryền giáo dục ý thức chấp
hành luật lệ giao thông và nghị định 36 CP của thủ tướng chính phủ.
Tỷ lệ được giải quyết bồi thường tại PJICO là khá cao. Năm 1996 tỷ
lệ giải quyết bồi thường là 97,57%, năm 1998 tỷ lệ này là 98,92%, sang
năm 2000 và 2001 tỷ lệ này lần lượt là 96,5% và 95,63%. Điều đó chứng tỏ
công ty rất quan tâm đến giải quyết bồi thường cho người tham gia bảo
hiểm điều này đã được khẳng định trên các phương tiện thông tin đại chúng
khi PJICO được công nhận là một doanh nghiệp bảo hiểm có chữ tín trong
ngành giao thông vận tải. Tuy vậy trong năm vẫn còn những vụ tồn đọng
sang năm mới giải quyết chứng tỏ công tác bồi thường vẫn còn một số
những điểm yếu nhất định cần sớm được khắc phục như:
-
Hồ sơ yêu cầu bồi thuờng của chủ xe không đầy đủ, thiếu cơ
sở pháp lý(dấu, xác nhận của cơ quan chức năng) đã làm kéo dài thời gian
bồi thường, nhiều khi các chủ xe không hiểu rõ đã đổ lỗi cho công ty gây
nhiều phiền hà, rắc rối.
60
- Xem thêm -