Biến đổi khí hậu và thích ứng biến đổi khí hậu ở việt nam
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & QUẢN LÍ MÔI TRƯỜNG
BỘ MÔN MÔI TRƯỜNG HỌC CƠ BẢN
BÀI TIỂU LUẬN:
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ THÍCH
ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT
NAM
GVHD :
SVTH :
MSSV :
LỚP :
GS.TSKH LÊ HUY BÁ
ĐỖ THÁI HÀ
07702021
ĐH MÔI TRƯỜNG 3B
TP.HCM, Tháng 7 / 2009
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
A. MỞ ĐẦU
1.Đặt vấn đề:
Hiện nay chúng ta đang sống trong một thế giới mà môi trường có nhiều biến đổi:
khí hậu biến đổi, nhiệt độ trái đất tăng lên, mực nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt,
ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học…Biến đổi khí hậu gây nguy hại cho
tất cả mọi sinh vật sống trên toàn cầu. Vì thế, biến đổi khí hậu là một vấn đề hiện
đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu sắc. Chính vì thế, em đã chọn đề tài
“Biến đổi khí hậu và thích ứng biến đổi khí hậu ở Việt Nam” để tìm hiểu thêm về
vấn đề cần thiết này.
2. Mục đích, yêu cầu:
Tìm hiểu về biến đổi khí hậu và thích ứng biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Từ đó
đưa ra những giải pháp thích hợp cho việc chống biến đổi khí hậu và thích ứng biến
đổi khí hậu.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Biến đổi khí hậu và thích ứng biến đổi khí hâu.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện bài tiểu luận này, em đã phân tích ,chọn lọc, tổng hợp các nguồn tài
liệu tìm được.
-2-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
B. NỘI DUNG
1. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
1.1. Định nghĩa về khí hậu (climate):
Quan niệm của Alixop về khí hậu: khí hậu của môt nơi nào đó là chế độ thời
tiết đặc trưng về phương diện nhiều năm, được tạo nên bởi bức xạ mặt trời, dặc tính
của mặt đệm về hoàn lưu khí hậu.
Các nhân tố hình thành khí hậu: nhân tố bức xạ, cân bằng bức xạ mặt đất, cân
bằng bức xạ khí quyển, cân bằng bức xạ hệ mặt đất-khí quyển, cân bằng nhiệt Trái
Đất.
Thời tiết trung bình của một vùng riêng biệt nào đó, tồn tại trong khoảng thời
gian dài, thông thường 30 năm (theo WMO) bao gồm các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm,
lượng mưa, các hiện tượng xảy ra trong khí quyển và nhiều yếu tố thời tiết khác là
một trạng thái, gồm thống kê mô tả của hệ thống khí hậu.
Các yếu tố khí tượng: bức xạ mặt trời, lượng mây, khí áp (áp suất khí quyển),
tốc độ và hướng gió, nhiệt độ không khí, lượng nước rơi (lượng giáng thủy), bốc hơi
và độ ẩm không khí, hiện tượng thời tiết.
1.2. Khái niệm biến đổi khí hậu (climate change):
Hệ thống khí hậu Trái đất bao gồm khí quyển, lục địa, đại dương, băng quyển
và sinh quyển. Các quá trình khí hậu diễn ra trong sự tương tác liên tục của những
thành phần này. Quy mô thời gian của sự hồi tiếp ở mỗi thành phần khác nhau rất
nhiều. Nhiều quá trình hồi tiếp của các nhân tố vật lý, hóa học và sinh hóa có vài trò
tăng tường sự biến đổi khí hậu hoặc hạn chế sự biến đổi khí hậu. Công ước khung
của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu đã định nghĩa: “Biến đổi khí hậu là “những
ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là những biến đổi trong môi trường vật lý
hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng
phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt
động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con
người”.
-3-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Biến đổi khí hậu (BĐKH) trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí
quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các
nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Sự thay đổi về khí hậu gây ra trực tiếp hay gián
tiếp từ hoạt động của con người làm thay đổi cấu thành của khí quyển trái đất mà,
cùng với biến đổi khí hậu tự nhiên, đã được quan sát trong một thời kì nhất định”.
(UNFCCC).
Biến đổi khí hậu là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu
hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007)... )...”
Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời,
và có sự tác động từ các hoạt động của con người.
Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ
mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ
XX đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn
được gọi là sự ấm lên toàn cầu – Global warming) được coi là đồng nghĩa với
BĐKH hiện đại.)
1.3. Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu:
Biến đổi khí hậu toàn cầu là điều không thể tránh khỏi, dù chúng ta kiểm soát
mức phát thải khí nhà kính tốt đến đâu. Nguyên nhân là mức khí thải hiện có trong
khí quyển sẽ tiếp tục làm nhiệt độ và mực nước biển gia tăng trong thế kỷ tới.
Chuyên gia khí hậu Gerald Meehl và đồng nghiệp thuộc Trung tâm Nghiên
cứu Khí quyển quốc gia Mỹ (NCAR) cùng cộng sự đã sử dụng mô hình khí hậu trên
máy tính để dự đoán điều gì sẽ xảy ra nếu con người kiểm soát khí thải nhà kính ở
các mức khác nhau. Nghiên cứu trên có tính tới phản ứng chậm chạp của đại dương
đối với ấm hoá toàn cầu. Kết quả cho thấy viễn cảnh lạc quan nhất - tức lượng khí
thải nhà kính trong khí quyển được duy trì ở mức năm 2000 - đòi hỏi phải cắt giảm
mạnh mẽ lượng khí CO2 nhiều hơn so với mức trong Nghị định thư Kyoto. Ngay cả
trong trường hợp này, nhiệt độ toàn cầu vẫn sẽ tiếp tục tăng thêm 0,4–0,6 oC trong thế
kỷ XXI, ngang bằng với nhiệt độ gia tăng trong suốt thế kỷ XX.
Biến đổi khí hậu là một vấn đề hiện đang được các nước trên thế giới quan
tâm sâu sắc. Biến đổi khí hậu mà tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đang diễn ra.
-4-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Nhiệt độ trên thế giới đã tăng thêm khoảng 0,7 0C kể từ thời kỳ tiền công nghiệp và
hiện đang tăng với tốc độ ngày càng cao. Ngoài các nguyên nhân tự nhiên và tính
chất biến đổi phức tạp của các hệ thống khí hậu trên thế giới, hầu hết các nhà khoa
học về môi trường hàng đầu trên thế giới đều khẳng định: các loại khí nhà kính phát
thải vào khí quyển do các hoạt động của con người đã làm cho khí hậu toàn cầu nóng
lên.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là
CO2 và Metan CH2) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950 khi thế
giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều đó là sự tăng
cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng
và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia súc tạo ra nguồn tăng
Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn.. Kết luận của các nhà
nghiên cứu thuộc trường Đại học Berne - Thụy Sĩ công bố trên tạp chí khoa học
Nature ngày 15.5 cho biết nồng độ khí CO2 trong khí quyển hiện ở mức cao nhất
trong 800.000 năm qua. Vì vậy, nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất
được cho là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt
động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh
thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư
Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO 2, CH4,
N2O, HFCs, PFCs và SF6.
+ CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn
khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO 2 cũng sinh ra tử các
hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
+ CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ
thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
+ N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
+ HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là
sản phẩm phụ của quá trình sản uất HCFC-22.
+ PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
+ SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
-5-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
1.4. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống
của con người và các sinh vật trên Trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất
thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác
nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh
thái và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình
tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
Bằng chứng về sự nóng lên của hệ thống khí hậu được thể hiện ở sự gia tăng
nhiệt độ trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và
tăng mực nước biển trung bình trở nên phổ biến. 11 trong số 12 năm qua (19952006) được xếp vào những năm có nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng kỷ lục (từ năm
1850). Xu thế nhiệt độ tăng trong 100 năm (kể từ năm 1906 – 2005) là 0,74 0C
(0,560C đến 0,920C), lớn hơn xu thế được đưa ra trong báo cáo đánh giá lần thứ 3 của
IPCC là 0,60C (từ 0,40C đến 0,80C) (1901-2000). Sự gia tăng nhiệt độ đang trở nên
phổ biến trên toàn cầu và tăng nhiều hơn ở các khu vực vĩ độ cao ở phía bắc. Khu
vực đất liền nóng lên nhanh hơn các khu vực đại dương. Những thay đổi về nồng độ
khí nhà kính trong khí quyển, các sol khí, độ che phủ đất và bức xạ mặt trời đã làm
thay đổi cân bằng năng lượng của hệ thống khí hậu. Lượng khí thải nhà kính trên
toàn cầu do con người đã tăng khoảng 70% so với thời kỳ trước cách mạng công
nghiệp, trong khoảng thời gian từ 1970 đến 2004.
Những hiểm họa BĐKH đã, đang và sẽ xảy ra ở Việt Nam
-6-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Sự biến động của thời tiết nước ta không thể tách rời những thay đổi lớn
của khí hậu thời tiết toàn cầu. Chính sự biến đổi phức tạp của hệ thống khí hậu
thời tiết toàn cầu đã và đang làm tăng thêm tính cực đoan của khí hậu thời tiết
Việt Nam. Như chúng ta đã biết, Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong kỷ Đệ
tứ (băng hà Wurm 2) lạnh nhất cách đây khoảng 18.000 năm. Tại thời điểm đó: Biển
lùi xa về phía Đông. Đường bờ biển thời đó nằm trên thềm lục địa ở độ sâu 100- 120
m so với mực nước biển hiện tại. Toàn bộ vùng Vịnh Bắc Bộ và thềm Sunda (nối
liền Nam Bộ Việt Nam với Indonesia), vịnh Thái Lan còn là đất liền. Nhiệt độ trung
bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó thấp hơn so với ngày nay
khoảng 5-7°C. Băng bắt đầu tan và mực nước biển bắt đầu dâng lên từ khoảng
15.000 năm trước đây. Nhiệt độ Trái đất cũng như đường bờ biển đạt đến mức như
bây giờ vào khoảng 10.000 năm nay. Tuy nhiên, Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên và
băng tiếp tục tan, biển vẫn tiến lấn sâu hơn vào so với đường bờ hiện tại. Nhiều bằng
chứng thực vật ở Đông Nam Á cho thấy, nhiệt độ trung bình ấm hơn ngày nay chừng
2°C ở khoảng 8.000 năm cách nay, nhưng phải đến khoảng 6.000-5.000 năm cách
nay, băng mới ngừng tan và nước biển mới dừng ở độ cao 4-6 m so với mực nước
biển ngày nay (biển tiến Flanđri). Các nhà nghiên cứu khảo cổ Việt Nam đã phát
hiện nhiều bằng chứng về con người trong lịch sử đã chịu ảnh hưởng của các đợt
biển tiến do nhiệt độ Trái đất ấm lên đó. Do mực nước biển dâng cao hơn ngày nay
4-6 m, biển lấn sâu vào lục địa có chỗ tới hàng trăm km. Dấu tích đường bờ biển
đương thời xuất lộ ngay ở sát rìa Hà Nội, đến tận sát chân các dãy núi đá vôi thuộc
Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa và các tỉnh miền Trung. Những tài liệu nghiên cứu
chi tiết về địa chất học và khảo cổ học còn cho biết, từ đó đến nay, xu hướng chung
là biển lùi, song vẫn có một số chu kỳ tiến, lùi với biên độ dao động mực nước biển
trên dưới 2-3 m vào khoảng trước 3000 năm, sát trước và sau công nguyên và
khoảng 1000-1200 năm sau công nguyên đến nay. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng,
nếu chu kỳ biển tiến, lùi với biên độ thời gian khoảng 800-1000 năm thì hiện tại
chúng ta đang ở đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ
nhanh hơn nhiều hoặc có đột biến. Như vậy, mực nước biển dâng đang xảy ra nằm
trong chu trình chung của biến động, cộng thêm tác động nhanh do hiệu ứng nhà
-7-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
kính gây ra. Vậy chúng ta thấy gì và nghĩ gì về những hiểm họa này trước thực tế và
thực tiễn Việt Nam? Những biến động thời tiết bất thường gây thiệt hại lớn cho đời
sống dân cư và thiên tai cần được nghiên cứu, xem xét theo chiều hướng có sự báo
động toàn cầu về gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất và mực nước biển ngày càng dâng
cao: nhiệt độ khí quyển và thủy quyển tăng lên kéo theo những biến động khác
thường (hiện tượng El Nino) làm cho chế độ thời tiết gió mùa bị xáo động bất
thường; bão có xu hướng gia tăng về cường độ, bất thường về thời gian và hướng
dịch chuyển; thời tiết mùa đông nói chung ấm lên, mùa hè nóng thêm; xuất hiện bão
lũ và khô hạn bất thường. Hiện tượng ngập úng vùng đồng bằng châu thổ mở rộng
vào mùa mưa lũ, các dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn các vùng
dân cư tập trung ở 2 bờ trên nhiều khu vực từ Bắc chí Nam. Hiện tượng này cũng
đồng thời tạo cồn, bãi bồi, lấp dòng chảy các sông, nhánh sông ở vùng hạ du; ở
những sông đã xây dựng hệ thống đê kiên cố thì có hiện tượng bồi lấp ngay chính
dòng sông cũng như tuyến khống chế giữa hai bờ đê, tạo nên thế địa hình ngược;
những dòng sông nổi cao hơn cả đồng bằng hai bên sông. Vào mùa khô, hiện tượng
phổ biến là nước triều tác động ngày càng sâu về phía trung du, hiện tượng nhiễm
mặn ngày càng tiến sâu vào lục địa. Ở vùng ven biển, đã thấy rõ hiện tượng vùng
ngập triều cửa sông mở rộng hình phễu (hiện tượng estuary) trên những diện rộng,
nhất là ở hạ du các hệ thống sông nghèo phù sa. Rõ nhất là vùng hạ du hệ thống sông
Thái Bình - Bạch Đằng, ở vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống sông
Đồng Nai, ở vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Vào mùa
khô, các nhánh sông và dòng sông ở các khu vực này đã không thể đóng vai trò tiêu
thoát nước về phía biển, biến thành những dòng sông, kênh tù đọng với mức độ ô
nhiễm nhân tạo gây nguy hại cho đời sống của những vùng dân cư đông đảo (thuộc
diện này có thể kể đến cả vùng rộng lớn thuộc các lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy,
Châu Giang ở phía tây nam Hà Nội và các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Nam Định và Ninh
Bình).
Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km
với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là hiện
tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia
-8-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành
các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho
hoạt động vận tải ra vào các cảng biển, khiến cho những công trình nạo vét rất tốn
kém đều nhanh chóng bị vô hiệu hóa.
Biến đổi khí hậu tại Việt Nam (VN) ảnh hưởng lên đời sống của người dân
ngày càng rõ ràng. Nếu như năm 1990, TP.HCM chỉ có 10 điểm ngập thì đến năm
2003, số điểm ngập đã tăng lên 80 điểm và hiện là 100 điểm ngập.Th.s Hoàng Phi
Long, ĐH Bách Khoa dự tính, nếu mức thủy triều đỉnh chỉ cần tăng lên 50cm nữa thì
gần như 90% diện tích đất của TPHCM đều bị ngập. Khảo sát của Viện Khoa học
Khí tượng thủy văn và môi trường cho biết, tại Bến Tre, mực nước biển đã dâng lên
khoảng 20 cm so với cách đây 10 năm, hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày
càng nhiều. “Trước đây vùng này không hề có bão nhưng năm 2007 đã có bão...”.
Do biến đổi khí hậu, ô nhiễm mặn đã tăng lên khoảng 20% so với trước đó 10 năm.
Tại Thừa Thiên - Huế, thay đổi khí hậu còn đậm nét hơn, cường độ mưa tăng rõ rệt.
Từ năm 1952 đến 2005 đã có 32 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp và lũ lụt thường xuyên
hơn nửa đầu thế kỷ trước. Không những thế, mực nước biển và đỉnh lũ lần sau luôn
cao hơn lần trước. Chỉ riêng năm 1999, mực nước biển tháng 11 đã lên đến mức cao
nhất so với trước đây. “Thay đổi khí hậu làm gia tăng thiên tai ở nhiều vùng miền
của VN. Điều này được thể hiện rõ qua hiện tượng bão lụt xảy ra liên tiếp tại khu
vực duyên hải miền Trung VN những năm gần đây” - ông Christophe Bahuet, Phó
đại diện Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại VN, khẳng định. Báo
cáo phát triển con người 2007/2008 của ông Christophe Bahuet cảnh báo rằng nếu
nhiệt độ tăng lên từ 30C-40C, các quốc đảo nhỏ và các nước đang phát triển sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Khi mực nước biển dâng lên khoảng 1 m, VN sẽ có khoảng 22
triệu người bị mất nhà cửa; vùng trũng Ai Cập có khoảng 6 triệu người mất nhà cửa
và 4.500 km2 đất ngập lụt; ở Bangladesh có khoảng 18% diện tích đất ngập úng, tác
động tới 11% dân số... Tuy nhiên, ông Christophe Bahuet cũng cho rằng không chỉ
những nước đang phát triển ảnh hưởng mà những nước đã phát triển cũng không
tránh khỏi thảm họa biến đổi khí hậu. Trước mắt, băng tan sẽ đe dọa hơn 40% dân số
toàn thế giới. Mặt khác, biến đổi khí hậu sẽ làm cho năng suất nông nghiệp giảm,
-9-
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
thời tiết cực đoan tăng, thiếu nước ngọt trầm trọng trên toàn thế giới, hệ sinh thái tan
vỡ và bệnh tật gia tăng... Những nước như VN, Bangladesh, Ai Cập... sẽ bị ảnh
hưởng nhiều nhất. Nguy cơ bão lụt, thiên tai sẽ làm cho những nước này rất khó
khăn để phát triển kinh tế, đẩy lùi đói nghèo. Theo dự báo của Văn phòng quản lý
điều tra tài nguyên biển và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), ở Việt Nam
mực nước biển sẽ dâng cao từ 3 đến 15 cm năm 2010 và từ 15 đến 90 cm vào năm
2070; các vùng ảnh hưởng gồm có Cà Mau, Kiên Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Thanh
Hóa, Nam Định, Thái Bình. Cũng theo dự báo này, nếu mực nước biển dâng cao 1
mét thì 23% dân số sẽ thiếu đất.
Bảng 1: Các vụ thiên tai lớn gần đây ở Việt Nam & các tác động
Thiên tai
Số gười chết, Tác động chính
mất
tích/ (số liệu do CCFSC cung cấp chính tổn thất
thương tật
Các trận lũ 89, 0 / 82
ở
Ước tính
(triệu
thức)
USD)
84,265 căn nhà bị đổ và 30
-
Đồng
ngập
bằng Sông
-
1,313 lớp học bị thiệt hại
Hồng, 1996
-
57,900 ha lúa bị ngập
-
11,675 ha đất nông nghiệp
bị thiệt hại
-
806 ha ao tôm/cá bị ngập
tràn
-
178 tấn cá và tôm bị thiệt
hại
Bão Linda 778, 2123 /
-
ở Cà Mau, 1232
1997
312,456 căn nhà bị đổ và 450
phá huỷ
-
7,151 trường bị phá huỷ
-
348 bệnh viên và trung
tâm y tế bị ngập và phá huỷ
-
323,050 ha ruộng lúa bị
- 10 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
thiệt hại
-
57,751 ha đất nông nghiệp
bị ngập và phá huỷ
-
136,334 ha đầm cá bị ngập
-
7,753 tàu thuyền bị phá
huỷ
Các đợt hạn
hán
-
1997,
1998
Các trận lụt 721, 35 / 476
ở miền Trung
-
miền Trung
năm 1999
tổn thất nặng nề cây trồng Không có
số liệu
Hơn 1 triệu căn nhà bị hư 300
hại
-
5,915 lớp học bị phá huỷ
-
701 bệnh viện và trung
tâm y tế bị ngập và phá huỷ
-
67,354 ha ruộng lúa bị
ngập
-
98,109 ha đất nông nghiệp
bị thiệt hại
-
41,508 ha đầm cá tôm bị
ngập
-
1,335 tấn cá tôm bị phá
huỷ
Các trận lũ 481, 1 / 6
-
2,232 tàu thuyền bị chìm
895,499 căn nhà bị hư hại
sông
ở
-
12,909 lớp học bị huỷ hoại
đồng bằng
-
379 bệnh viện và trung
Sông
Cửu
Long, 2000
tâm y tế bị ngập và phá huỷ
-
401,342 ha ruộng lúa bị
ngập và thiệt hại
- 11 -
250
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
-
85,234 ha đất nông nghiệp
bị thiệt hại
-
16,215 ha đầm nuôi cá tôm
bị ngập
-
2,484 tấn cá tôm bị phá
huỷ
Các trận lũ 393, 1 / 0
-
345,238 căn nhà bị hư hại
sông
ở
-
5,315 lớp học bị huỷ hoại
đồng bằng
-
20,690 ha ruộng lúa bị
Sông
Cửu
100
ngập và thiệt hại
Long, 2001
-
1,872 ha đất nông nghiệp
bị thiệt hại
-
4,580 ha đầm nuôi cá tôm
bị ngập
-
969 tấn cá tôm bị phá huỷ
113,431 căn nhà bị hư hại
ở
-
3,922 lớp học bị huỷ hoại
miền
Bắc
-
2,227,627 ha ruộng lúa bị
và
Bắc
Cơn
Damrey
bão 10, 0 / 11
200
ngập và thiệt hại
Trung Bộ,
-
2005
55,216 ha đất nông nghiệp
bị thiệt hại
-
21,193 ha đầm nuôi cá tôm
bị ngập
-
1,300 tấn cá tôm bị phá
huỷ
Bão
Chanchu ở
19, 249 / 1
-
Thuyền đánh cá bị chìm ở 2
Biển Đông
miền
Trung,
2006
- 12 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Bão
72, 4 / 532
-
Xangsane ở
349,348 căn nhà bị đổ và 650
ngập
miền
-
5,236 lớp học bị huỷ hoại
Trung,
-
21,548 ha ruộng lúa bị
2006
ngập và thiệt hại
-
3,974 ha đầm nuôi cá tôm
bị ngập
-
494 tấn cá tôm bị phá huỷ
-
951 tàu thuyền bị chìm
1.5. Tác động, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (climate change effects):
1.5.1. Tác động lên hệ sinh thái đất :
Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng lớn đến nhiều đồng bằng, đặc biệt là ĐBSH và
ĐBSCL. Với mực nước biển dâng tăng 90cm, có khả năng: 0,5 triệu ha ruộng ở
ĐBSH và 1,5 – 2,0 triệu ha ở châu thổ sông Mê Kông bị ngập; 2,2 – 2,5 triệu ha diện
tích đất bị nhiễm mặn; 250.000 ha rừng ngập mặn bị mất hoàn toàn, trong khi
100.000 ha đất nông nghiệp và thủy sản phải chuyển sang trồng rừng ngập mặn.
Trong thời gian gần đây, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do sức ép dân số, đô
thị hóa, công nghiệp hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng. Hiện tượng xói mòn, rửa
trôi, hoang mạc hóa và do ô nhiễm công nghiệp ngày càng gia tăng.
BĐKH còn gây ảnh hưởng đến các hệ sinh vật trong hệ sinh thái đất, làm
giảm sự đa dạng sinh học, gây cho một số loài sinh vật không có khả năng thích ứng
kịp thời là nguyên nhân của sự tuyệt chủng và biến mất của các loài sinh vật quý
hiếm.
1.5.2. Tác động lên hệ sinh thái nước:
Hệ thống thuỷ văn rất nhạy cảm trước những biến đổi của khí hậu và sự tương
tác qua lại giữa khí nhà kính và hệ thống thuỷ văn rất phức tạp. Sự tích tụ của các khí
nhà kính làm tăng sự bức xạ trên bề mặt trái đất. Điều này dẫn đến sự thay đổi nhiệt
độ, lượng mưa và lượng nước bốc hơi. Nhiệt độ tăng cao sẽ đẩy nhanh chu kì thuỷ
văn, điều này liên quan mật thiết đến lượng hơi nước, độ ẩm của đất và sự thẩm thấu.
- 13 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Đồng thời, lượng CO2 gia tăng sẽ làm tăng lượng mưa toàn cầu. Lượng mưa thay đổi
ảnh hưởng tới lượng nước trong đất, sông, hồ, liên quan đến nguồn nước phục vụ đời
sống và sản xuất. Việc sử dụng đất đai cũng có ảnh hưởng lớn đối với lượng nước
bốc hơi. Những thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, thời điểm mưa và những thay đổi
về hình thái trong chu trình nước: mưa –tuyết – nước bốc hơi – tuyết tan… đều dẫn
đến sự thay đổi cơ chế ẩm trong đất, lượng nước ngầm và các dòng chảy. Điều đó
dẫn đến sự gia tăng hạn hán, lũ lụt ở các vùng khác nhau trên thế giới.
Khí hậu ấm dần lên là một sự thực rõ ràng không còn gì để nghi ngờ, bằng
chứng là các nhà khoa học đã giám sát và đo thực tế nhiệt độ trong không khí cũng
như ở đại dương và kết quả là con số đang gia tăng, băng tuyết đang tan chảy và mực
nước biển đang dâng cao. Trong vòng 12 năm trở lại đây thì có tới 11 năm được coi
là nóng kỉ lục trong suốt quá trình 150 năm qua. Nghiên cứu về lượng mưa đã được
tiến hành trên nhiều khu vực từ năm 1990 đến 2005, cho thấy có 2 hiện tượng liên
quan đến kiểu mưa. Thứ nhất, mức độ mưa nặng hạt xuất hiện nhiều ở đất liền, đi
kèm với hiện tượng nóng lên và hơi nước nhiều trong không khí. Thứ hai là hiện
tượng khô nóng đi kèm với hiện tượng nhiệt độ tăng cao và giảm lượng mưa, góp
phần gây hạn hán. Hạn hán thường xuyên làm tăng nhiệt độ bề mặt đại dương và
lượng băng tuyết tan chảy. Các yếu tố làm thay đổi chu kì và hệ thống thuỷ văn bao
gồm: kiểu mưa, lượng mưa, sự phân bổ lượng mưa; mức độ băng tuyết tan chảy; hơi
nước trong không khí, độ ẩm của đất và lượng nước chảy. Những thay đổi này có
liên quan mật thiết đến sự ấm lên của khí hậu. Tuy nhiên, những yếu tố này lại thể
hiện sự biến đổi tự nhiên qua thời gian, điều này khó có thể nhận ra nếu không có
thời gian dài theo dõi. Sự lưu thông khí quyển trên diện rộng như ENSO, NAO và
PNA cũng ảnh hưởng tới sự biến đổi này. Mặc dù lưu lượng dòng chảy ở các vùng là
khác nhau nhưng trên quy mô toàn cầu tổng lượng nước không đổi. thì mực nước
chảy thay đổi có mức độ cố kết chặt chẽ. Một nghiên cứu cho biết nhiệt độ cứ tăng
10C thì lưu lượng dòng chảy trên toàn cầu tăng 4%.
Theo kết quả của Ban soạn thảo chương trình Quốc gia & Biến đổi khí hậu
của Việt Nam thì đến mốc 2070 có thể xảy ra những biến đổi ở khu vực Đông Nam
Á, trong đó có Việt Nam như sau: Mức nước biển có thể dâng lên 30 – 90cm, tác
- 14 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
động đến nguồn nước và thủy lợi, dòng chảy sẽ giảm rõ rệt. Do biến đổi khí hậu,
nguồn nước sạch sẽ trở nên khan hiếm. Cuối thế kỷ 21, mực nước sông Hồng giảm
13-19%, sông Mekong giảm 16-24%. Dòng chảy mùa cạn ở sông Hồng giảm 13 15% và của sông Mê Kông giảm 16 – 24%. Cường độ mưa sẽ tăng lên 10 – 25%, vì
vậy lưu lượng đỉnh lũ trên sông Hồng tăng 12 – 15%, sông Mê Kông tăng 15 – 19%
và trên các sông lớn ở miền Trung mức gia tăng cũng tương tự.
Do mực nước biển tăng, hoạt động của thủy triều và của sóng cũng sẽ tăng, vì
vậy mức độ ô nhiễm ở các vùng thấp cũng sẽ nặng hơn. Hiện tượng sạt lở bờ biển
trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất
liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong
nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi
của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích
bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các
cảng biển, khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô
hiệu hóa.
Thành phần hoá học trong nước biển đang biến động và chịu ảnh hưởng ngày
càng lớn của BĐKH. Sự thay đổi khí hậu trong suốt 13 triệu năm qua đã làm biến
đổi mạnh mẽ thành phần hoá học của nước biển. Điều này có thể dẫn tới nhiều hậu
quả lâu dài đối với hệ sinh thái biển.Khi lượng CO2 tăng lên và những xu thế khí hậu
thay đổi, thành phần hoá học của các con sông cũng thay đổi và sẽ làm ảnh hưởng
đến môi trường đại dương. Sự thay đổi này kèm theo sự phát triển của các tầng băng
ở Nam cực trong cùng khoảng thời gian này. Khí hậu khi đó trở nên lạnh hơn, các
tầng băng mở rộng ra, mực nước biển hạ và thời tiết thay đổi trên đất liền.” Điều này
làm thay đổi dòng chảy của đại dương, cũng như lượng và chất của dòng chảy từ
sông ra biển.
- 15 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Hình 1: Biến đổi của mực nước biển trong khu vực Đông Nam Á
Động lực biển vùng ven bờ và cửa sông, sóng vỡ khi tiếp cận bờ sẽ tác động
mạnh hơn lên đường bờ, bãi triều. Bờ biển bị xâm thực và cơ sở hạ tầng ven biển bị
đe dọa lớn hơn. Ở các đồng bằng ven biển, độ ngập sâu hơn, thời gian ngập kéo dài
hơn. Xâm nhập mặn sẽ vào sâu hơn, nguồn nước ngọt khan hiếm hơn. Chế độ thủy
văn, thủy lực trên từng địa bàn và trên cả đồng bằng sẽ có những thay đổi, khiến cho
động thái bồi xói bờ sông, cù lao, cồn bãi, bồi lắng phù sa trên hệ thống sông chính
và vùng cửa sông cũng thay đổi.
Đối với Việt Nam: Với mực nước biển dâng, sự không ổn định của địa mạo
còn đến từ phía Biển Đông nghĩa là đến từ hai phía của dãi đất hẹp miền Trung.
Những năm gần đây, tình hình bờ biển bị xâm thực xảy ra nhiều hơn. Khác với hậu
quả của các cơn bão hay lũ quét thường xảy ra vào mùa mưa bão hàng năm, sự đe
dọa của biển dâng lên hạ tầng cơ sở dọc bờ biển theo mùa, theo kỳ triều và thường
xuyên hơn. Đồng bằng sông Cửu Long trước đây rất ít hứng chịu bão. Thế nhưng
trong một thập kỷ, năm 1997 đã chịu cơn bảo Linda và năm 2006 đã bị đuôi bão
Durion quét qua. Nhiều nghiên cứu gần đây tìm mối tương quan giữa việc bão ở Tây
Thái Bình Dương có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn sau tháng 10 dương lích và
- 16 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
đi về hướng đường xích đạo, với nhiệt độ nước biển trên bề mặt tăng, kết quả của
dòng hải lưu bị thay đổi bởi biến đổi khí hậu toàn cầu
1.5.3. Tác động của biến đổi khí hậu lên thực vật, động vật:
Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài
không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có
vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp.
Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng
của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân
tích các vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không
xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra
trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ
có sự tuyệt chủng hàng loạt. Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các
rừng lãnh nguyên và rừng phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng
Hồ Lớn - rừng St. Lawrence và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà
trước đây . Những sự chuyển dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có
thể được coi là sự biểu hiện của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu. Lửa là
một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với các
khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm thực
vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn nguyên
nhân do khí hậu .
Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu
đối với các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự
đoán của quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa
chất trước đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh
trưởng chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng
rừng phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên
toàn cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo
trộn do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và
sương giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt
độ trung bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học.
- 17 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô
nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra
những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này,
không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và
khó đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn
nhất ở phạm vi rộng đối với đa dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với
đa dạng sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit,
hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến.
Biến đổi khí hậu có thể gây ra một số tác động lớn. Cho đến nay, theo ước
tính, khoảng từ 20%-30% loài có nguy cơ tuyệt chủng nếu nhiệt độ trung bình toàn
cầu tăng khoảng 30C (tương ứng từ năm 1980-1999). Khi nhiệt độ toàn cầu tăng hơn
3,50C, dự báo mô hình cho thấy trên toàn cầu sẽ có từ 40%-70% loài tuyệt chủng.
Peter Raven, chủ tịch Vườn bách thảo Missouri (Mỹ), khẳng định rằng các loài trên
trái đất đang biến mất với tốc độ rất nhanh do mất môi trường sống, biến đổi khí hậu
và sự bành trướng của nhiều loài ngoại lai. Tuyên bố của ông được đưa ra trong Hội
nghị quốc tế về sinh học bảo tồn lần thứ 23. “Hiện hàng nghìn loài động vật và thực
vật tuyệt chủng mỗi năm. Chẳng bao lâu nữa số loài biến mất sẽ tăng lên hơn 10.000.
Phần lớn số đó sẽ biến mất trước con người biết tới sự tồn tại của chúng", Raven
phát biểu. Ví dụ: Kích thước cơ thể một giống cừu hoang ở Scotland giảm dần theo
thời gian do tình trạng ấm lên toàn cầu do các nhà khoa học của Đại học Imperial
(Anh)nghiên cứu. Nhóm chuyên gia nghiên cứu những con cừu Soay trên đảo Hirta,
quần đảo St Kilda lần đầu tiên vào năm 1985. Kể từ đó tới nay kích thước trung bình
của cừu giảm 5%. Chiều dài chân và trọng lượng cơ thể chúng giảm dần. Tim
Coulson, trưởng nhóm nghiên cứu, cho rằng đảo là nơi lý tưởng để nghiên cứu các
thay đổi về mặt thể chất của động vật, bởi chúng bị cô lập với thế giới bên ngoài bởi
nước. “Người ta có thể ví đảo như phòng thí nghiệm thiên nhiên – nơi chỉ có cừu và
thực vật”, Coulson nhận xét. Trong suốt 2 thập kỷ qua, nhóm của Coulson thu thập
dữ liệu chi tiết về cừu Soay trên đảo Hirta để đánh giá tác động của mọi nhân tố đối
với sự thay đổi kích thước của chúng. Họ sử dụng một công thức có tên “phương
trình Price”. Công thức này được nhà sinh học tiến hóa George Price lập ra để dự
- 18 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
đoán những thay đổi về thể chất (như kích thước cơ thể) của động vật qua các thế hệ.
Phương trình Price cho thấy, môi trường có ảnh hưởng lớn hơn áp lực tiến hóa đối
với sự biến đổi thể chất của cừu Soay. “Trong quá khứ, chỉ có những con cừu to,
khỏe, không mắc bệnh tật mới có thể sống sót qua mùa đông lạnh giá trên đảo Hirta.
Nhưng do tình trạng ấm lên của địa cầu mà mùa đông ngày càng trở nên bớt lạnh.
Nhờ đó mà cỏ mọc quanh năm trên đảo khiến thức ăn trở nên dồi dào. Cuộc sống
của cừu trở nên dễ chịu đến nỗi ngay cả những con bé, yếu, chậm chạp và mắc bệnh
cũng có thể sống qua mùa đông. Dần dần những con bé chiếm tỷ lệ lớn trong các
đàn”,Coulson giải thích. Coulson và cộng sự cũng nhận thấy cừu ít tuổi có xu hướng
sinh ra những đứa con có kích thước nhỏ hơn thế hệ trước. Nhóm nghiên cứu tin
rằng kích thước của cừu Soay sẽ tiếp tục giảm trong tương lai, vì trái đất vẫn tiếp tục
ấm lên.
1.5.4. Tác đông của biến đổi khí hậu lên khí hậu, thời tiết:
Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có
những ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng
minh là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo
nguyên của Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô
hạn của những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do
những biến đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những
chứng cứ ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật,
động vật ở các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ.
Vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lớn nhất của Trái đất là Bắc cực và Nam
cực, hai nơi này nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Sau đó đến các vùng núi cao như
Himalaya, Tây Tạng... Theo nghiên cứu những vùng lạnh nhất có nhiệt độ tăng lên
nhanh nhất.
Còn tại Việt Nam, nhiệt độ sẽ tăng từ 0,3 - 0,5 độ C đến năm 2010, từ 1- 2
độ C vào năm 2020, từ 1,5 - 2 độ C vào năm 2070. Những khu vực có nhiệt độ tăng
cao nhất là Tây Bắc và Việt Bắc. Khí hậu nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa hằng
năm. Mùa đông ở các tỉnh phía Bắc sẽ ấm dần lên dẫn tới thay đổi đặc tính trong
nhịp sinh học của con người. Tần số xuất hiện các cơn bão, nước dâng do bão, gió
- 19 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
mạnh, mưa lớn đe dọa đời sống của người dân trên nhiều vùng nhất là vùng ven
biển, vùng núi. Nhiệt độ trung bình và nhiệt độ cao nhất (cả mùa đông và mùa hè) sẽ
tăng. Mùa lạnh sẽ đến muộn hơn và kết thúc sớm hơn. Thời gian nhiệt độ cao đến
mức có hại có thể dài hơn. Tần suất hạn hán, mưa lớn đều tăng lên. Sương muối sẽ ít
đi, thời gian thịnh hành mưa phùn sẽ giảm, thời tiết khô nóng sẽ tăng lên trong nhiều
vùng, tần suất lốc tố cũng sẽ tăng. Miền Bắc dễ bị tổn thương hơn trước hoạt động
của bão và cường độ bão chắc chắn sẽ tăng, làm cho vận tốc gió đỉnh tăng hơn và
mưa có cường độ lớn hơn (CCFSC 2001; IPCC 2007). Các vùng ven biển sẽ phải
hứng chịu các cơn bão có cường độ lớn hơn, đe doạ nhiều hơn tính mạng người dân,
sinh kế, cơ sở hạ tầng và sản xuất nông nghiệp. Các cộng đồng vùng cao chắc chắn
sẽ phải đối mặt với các nguy cơ lũ quét và trượt đất ngày càng tăng do mưa lớn gây
ra. Ước tính có tới 80-90% dân số Việt Nam có khả năng bị các trận bão ảnh hưởng
trực tiếp (CCFSC 2001).
1.5.5. Tác động của biến đổi khí hậu lên con người và hoạt động sống của
con người:
Cảnh báo của các chuyên gia rằng: sự nóng lên của Trái đất sẽ là mối đe dọa
lớn nhất về mặt y tế đối với loài người trong thế kỷ 21. Thay đổi khí hậu là đang mối
quan tâm của tất cả mọi người. Tuyệt đại đa số các chuyên gia, 95%, thậm chí 99%
đều nhất trí cho rằng Trái đất đang bị nóng lên.”, Kirby Donnelly, giám đốc Trung
tâm Y tế nông thôn Texas nói “Chỉ còn lại chuyện cần bàn là những vấn đề gì sẽ
xuất hiện và làm thế nào để đối phó với chúng”. Bản báo cáo dựa trên dự báo của các
chuyên gia là đến cuối thế kỷ này Trái đất sẽ nóng lên từ 2 đến 6 độ C, và lấy theo
dự báo lạc quan là 4 độ. Với sự tăng nhiệt độ như vậy, những vấn đề y tế sau đây có
thể xảy ra:
- Những bệnh như sốt xuất huyết và sốt rét trước đây quan niệm là bệnh ở xứ
nhiệt đới sẽ chuyển lên phía bắc và trở thành phổ biến do nhiệt độ tăng.
- Những đợt nắng nóng sẽ làm chết nhiều người hơn ở nhiều vùng hơn trên
thế giới (đợt nắng nóng năm 2003 đã làm chết trên 70.000 ở Châu Âu).
- Năng suất mùa màng sẽ giảm, dẫ tới mất an ninh lương thực. 800 triệu
người phải lên giường ngủ với cái bụng lép kẹp.
- 20 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
- Nước khan hiếm dẫn tới bệnh viêm loét dạ dày và suy dinh dưỡng tăng gấp
bội.
- Những thiên tai như lũ lụt rút nhanh do sự thay đổi bản đồ mưa và tan băng
sẽ ngăn cản việc tiêu thoát nước đến bệnh tiêu chảy và nhiều bệnh tật khác.
- Nhiều người ở thành phố sẽ lâm vào cảnh thiếu nhà ở, xuất hiện các khu nhà
ổ chuột, những bất công về phúc lợi y tế, đặc biệt nguy hiểm khi có thiên tai, dịch
bệnh.
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm có khoảng 150.000 người tử
vong do biến đổi khí hậu liên quan đến các bệnh như sốt rét, tiêu chảy..., đáng chú ý
một nửa trong số này tập trung ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Hàng trăm trẻ nhỏ chết vì thời tiết lạnh giá bất thường ở Peru(14/07/2009).
Đã có gần 250 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong do khí hậu cực kỳ lạnh giá trong mùa
đông năm nay ở Peru. Hàng năm, vào thời điểm khắc nghiệt nhất của mùa đông, đều
có trẻ em Peru chết vì bị viêm phổi và các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp khác, đặc
biệt là ở miền Nam gần khu vực dãy núi Andes. Tuy nhiên, nhiệt độ lạnh giá bất
thường năm nay đến sớm hơn thường lệ gần 3 tháng (bắt đầu từ tháng 3 thay vì
tháng 6 như hàng năm), mà theo các chuyên gia, nguyên nhân xuất phát từ sự biến
đổi khí hậu. Khí hậu lạnh buốt với tuyết rơi, mưa đá, nhiệt độ giảm đột ngột và gió
giật mạnh, đã làm trẻ em tử vong nhiều hơn so với mọi năm. Dù mới chỉ qua được
một nửa mùa đông, nhưng cho đến nay đã có 246 em bé dưới 5 tuổi chết vì lạnh,
trong đó 1/3 số ca tử vong xảy ra ở Puno thuộc khu vực Đông Nam Peru giáp biên
giới với Bolivia, nơi có địa hình cao hơn mực nước biển.
Dưới góc độ chính trị - an ninh, biến đổi khí hậu được xếp vào dạng vấn đề an
ninh "phi truyền thống" và được xem như là một trong những thách thức lớn nhất đối
với môi trường an ninh - phát triển toàn cầu trong những năm tới, thậm chí là trong
cả thế kỷ XXI. Nhiều đánh giá cho rằng, tác động của biến đổi khí hậu đối hòa bình
và an ninh của thế giới là rất lớn, khó lường, lâu dài, có thể còn nghiêm trọng hơn cả
chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Tầm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu là mang tính toàn
cầu và các chiến lược, biện pháp mang tính quốc gia đơn lẻ, kể cả của các nước phát
triển nhất, không thể đối phó một cách hiệu quả đối với thách thức này. Các nước
- 21 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
ven biển ở một số khu vực, bao gồm cả một số nước Đông Nam Á, có thể là nơi phải
chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của các hiện tượng biến đổi khí hậu (nước biển dâng,
thiên tai, thời tiết diễn biến bất thường...). Biến đổi khí hậu có thể gây ra những thảm
họa toàn cầu về thiên nhiên - môi trường, đe dọa mạng sống hàng triệu người, làm
bùng nổ các làn sóng di cư, thậm chí đe dọa sự tồn tại của nhiều quốc gia ở vị trí
thấp so với mực nước biển. Tình trạng ấm lên của địa cầu đang buộc hàng trăm triệu
người rời bỏ nơi sinh sống của họ. Nếu tình hình đó tiếp diễn, chúng ta sẽ phải chứng
kiến những cuộc di cư lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Thiên tai sẽ đẩy nhiều người
sống ở vùng nông thôn tới thành thị. Một báo cáo của Tổ chức Di cư quốc tế (IOM)
dự đoán khoảng 200 triệu người sẽ bỏ nhà cửa vì các nguyên nhân liên quan tới môi
trường (có thể phải rời khỏi những khu vực duyên hải do nước biển dâng, bão lụt
hoặc nước ngọt bị nhiễm mặn). Từ nay tới năm 2050. Trong trường hợp xấu nhất,
con số đó có thể lên tới 700 triệu. Nếu những điều này xảy ra, cơ cấu địa-chính trị
cũng như không gian chiến lược ở một số khu vực trên thế giới có thể có sự thay đổi
lớn; sự bố trí quốc phòng - an ninh cũng có thể có những sự xáo trộn không nhỏ.
Biến đổi khí hậu có thể làm gia tăng sự khan hiếm và làm thay đổi quá trình phân bổ
các nguồn tài nguyên thiết yếu và có tầm chiến lược quan trọng như nước, đất trồng
trọt..., làm trầm trọng thêm các thách thức an ninh phi truyền thống khác đang nóng
bỏng hiện nay như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, khoảng cách giàunghèo..., từ đó làm gia tăng nguy cơ bất ổn định, xung đột, khủng bố, làm sâu sắc
thêm các mâu thuẫn chính trị-xã hội ở nhiều nơi trên thế giới. Dự báo đến năm 2025,
khoảng 5 tỷ người có thể sẽ sống trong những khu vực có nguy cơ căng thẳng, xung
đột liên quan đến sự khan hiếm nước và lương thực. Cạnh tranh ảnh hưởng giữa các
nước về chi phối, kiểm soát các nguồn tài nguyên thiết yếu của thế giới có chiều
hướng gay gắt hơn có thể dẫn tới đối đầu về quân sự liên quan đến việc phân bố lại
các nguồn lực của thế giới.
Các nhà khoa học của CARE International và Đại học Columbia (Mỹ) phỏng
vấn hơn 2.000 người di cư tại 23 quốc gia về nguyên nhân khiến họ rời bỏ nơi sinh
sống. Kết quả cho thấy những vấn đề liên quan tới môi trường đang gây nên sự dịch
chuyển dân cư. 192 nước đang đàm phán để đạt được một thỏa thuận về tình trạng
- 22 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
ấm lên toàn cầu. Viễn cảnh đen tối về hiện tượng di cư lớn nhất trong lịch sử nhân
loại do thiên tai và ô nhiễm môi trường có thể được đưa vào thỏa thuận này. Văn bản
dự thảo kêu gọi các nước chuẩn bị kế hoạch để thích nghi với những đợt di cư ồ ạt
do thay đổi khí hậu gây nên. Theo IOM, những người sống trên vùng châu thổ của
các con sông lớn trên thế giới có thể hứng chịu nhiều hậu quả do tình trạng tan băng.
Cư dân sống gần sa mạc sẽ đối mặt với tình trạng khô hạn ngày càng tăng, trong khi
những người sống trên các hòn đảo có thể mất đất vì mực nước biển tăng. Các nhà
nghiên cứu không đánh giá những cuộc xung đột liên quan tới biến đổi khí hậu. Song
họ nhấn mạnh rằng, một trong những nhân tố gây nên cuộc chiến tại khu vực Darfur
của Sudan là tranh chấp nguồn nước và đồng cỏ. Mối quan ngại về nguy cơ bùng
phát xung đột liên quan tới nước đang tăng lên từng ngày tại nhiều nơi trên thế giới.
Báo cáo của IOM dự đoán 40 quốc đảo có thể biến mất (một phần hoặc hoàn toàn)
nếu mực nước biển tăng thêm 2 mét. Maldives – được tạo nên bởi 1.200 đảo trên Ấn
Độ Dương, đã lên kế hoạch bỏ một số đảo và xây dựng hệ thống đê đập trên những
dảo còn lại. Ngoài ra, đảo quốc này còn tính tới khả năng đưa toàn bộ 300.000 dân
tới nước khác. Hiện tượng tan băng ở dãy Himalaya có thể dẫn tới tình trạng lũ lụt
thường xuyên ở sông Hằng, sông Mekong, sông Dương Tử và sông Hoàng Hà. 4
sông này cung cấp nước cho 1,4 tỷ người (gần 1/4 dân số toàn cầu) tại Ấn Độ, Đông
Nam Á và Trung Quốc. Sau lũ lụt sẽ là hạn hán do không còn băng để cấp nước cho
các dòng sông. Tại Mexico và Trung Mỹ, hạn hán và bão lớn đã gây nên những cuộc
di cư lớn kể từ thập niên 80. Tình hình ở đây sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những thập
kỷ tới. “Các thảm họa thiên nhiên chỉ gây nên tình trạng di cư ngắn hạn, nghĩa là
người dân chỉ bỏ nhà cửa trong một thời gian nhất định. Phần lớn hoạt động di cư sẽ
diễn ra trong ranh giới quốc gia, từ vùng nông thôn tới các thành phố”, Charles
Ehrhart, một nhà nghiên cứu của CARE International, nhận định.
Một kiểu tị nạn mới bắt đầu xuất hiện và có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ: tị
nạn môi trường. Vào khoảng năm 2050 sẽ có khoảng 200 triệu người tị nạn loại này.
Họ không lánh nạn bởi cảnh bạo lực, hoặc những vụ hành quyết mà vì cảnh màn trời
chiếu đất mỗi khi ngập lụt. Họ là những người nghèo nhất thế giới phải rời bỏ quê
hương vì những thay đổi khí hậu toàn cầu. Được biết thông qua những người tị nạn
- 23 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
khí hậu, tổ chức nhân đạo CARE cảnh báo rằng những gì đạt được trong cuộc đấu
tranh chống nghèo khổ sẽ trở nên vô nghĩa nếu không kết hợp với việc trợ giúp cho
những cuộc di dân bắt buộc vì tai họa trái đất nóng lên. Vào năm 2050, sẽ có 200
triệu người phải rời bỏ chỗ ở. Mọi thành tựu chống nghèo đói sẽ trở thành vô nghĩa.
Charles Ehrhart, điều phối viên về biến đổi khí hậu đã giúp tác giả của bản báo cáo
của CARE trình bày tại hội nghị ở Bonn, CHLB Đức tháng 6/2009 vừa qua. Tham
dự hội nghị này có đại biểu của 184 quốc gia nhằm chuẩn bị một bản hiệp định về
biến đổi khí hậu sẽ mang ra bàn thảo tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc
vào tháng chạp năm nay tại Copenhagen, Đan Mạch. Hội nghị thượng đỉnh này sẽ
đưa ra một nghị quyết mới để đối phó với hiện tượng nóng lên của trái đất sau Nghị
định thư Kyoto, với mục tiêu đi đến thoả thuận cắt giảm khí thải nhà kính giữa các
nước công nghiệp phát triển cho đến năm 2012. Sự biến đổi khí hậu sẽ làm những
điều kiện sống vốn đã đầy căng thẳng và khó nhọc của những người tị nạn khí hậu,
đặc biệt là những người dân nghèo nhất trở nên vô cùng tồi tệ. Điều trước tiên đối
với họ là phải dựng lên được một nơi ở tạm gọi là thích nghi với khí hậu. Nghĩa vụ
đạo lý bắt buộc các nước đang phát triển đề ra các chính sách kịp thời trước tình hình
thay đổi khí hậu toàn cầu. Tị nạn tại các vùng đất mới ở vùng sâu và xa hơn là
chuyện vô cùng tốn kém. Nếu không có tiền và nguồn lực, những người tị nạn khí
hậu buộc phải di chuyển từ nông thôn ra thành thị, tập trung ngày càng đông ở các
thành thị vốn đã quá chật hẹp và lộn xộn. Tất cả những tình hình đó sẽ tạo sức ép lên
chính quyền và có thể gây ra mất ổn định chính trị. Koko Warner, Giám đốc Viện
Môi trường và An ninh nhân loại thuộc ĐH Liên Hợp Quốc, một trong các tác giả
chính của bản báo cáo cho rằng, một thách thức lớn là phải nắm bắt được thật chính
xác diễn biến của hiện tượng biến đổi khí hậu, động thái của việc di dân và chuyển
dời vùng sinh sống của con người liên quan đến biến đổi khí hậu.“Tư duy mới và
cách tiếp cận thực tế rất cần thiết để sẵn sàng đón nhận và đối phó kịp thời với các
tình huống mà những cuộc di dân do khí hậu đặt ra đối với an ninh và phúc lợi của
con người”, Warner nói. Đối với các chuyên gia về phát triển (xã hội) như Ehrhart,
biến đổi khí hậu là một kẻ thù đáng sợ nhất, phải có chiến lược đối phó. Không ai
muốn nhìn thấy những hy vọng của những người nghèo nhất thành vô vọng.
- 24 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
1.5.6. Tác động của biến đổi khí hậu lên nông nghiệp:
Ehrhart phối viên về biến đổi khí hậu đã giúp tác giả của bản báo cáo
của CARE trình bày tại hội nghị ở Bonn, CHLB Đức tháng 6/2009 vừa qua,
phát biểu tại hội nghị rằng, trong vài thập kỷ tới, những người dân có cuộc sống
phụ thuộc vào sinh thái bị đe doạ nghiêm trọng. Họ buộc phải thực hiện những
cuộc di cư lớn để sống còn. Ví dụ ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam,
nước biển có thể dâng lên tới 2 mét, hàng triệu hecta đất nông nghiệp sẽ bị nhấn
chìm, chỉ còn lại một nửa so với trước.
Trong thiên tai nói chung và biến đổi khí hậu toàn cầu, biến đổi khí hậu ở Việt
Nam nói riêng có ảnh hưởng nhiều đến ngành nông nghiệp và những người nghèo
bởi hai lẽ: một là dân số làm nông nghiệp của nước ta chiếm 75 - 80%, hai là ngành
nông nghiệp chịu rủi ro của thiên tai lớn. Do vậy biến đổi khí hậu tác động đến cả
hai ngành nông nghiệp và các nhà sản xuất nông nghiệp. Còn đối với người nghèo
thì đúng rồi bởi vì các cơ sở vật chất của họ yếu kém nên bị ảnh hưởng khi bão, lũ
thiên tai xảy ra. Biến đổi khí hậu chắc chắn có tác động đáng kể đến nghề cá và nuôi
trồng thuỷ sản của Việt Nam, chiếm 3.9% GDP năm 2005 (GSO 2006). Số lượng cá
nhiệt đới có giá trị thương phẩm thấp (trừ cá ngừ) sẽ tăng và số lượng cá á nhiệt đới
có giá trị thương phẩm cao hơn sẽ giảm đi. Các rạn san hô chắc sẽ không tái sinh
được và cá sống trong các sinh cảnh này sẽ biến mất. Hơn nữa, suy giảm mạnh thực
vật phù du sẽ dấn đến tình trạng di cư cá và giảm mạnh khối lượng lớn cá. Kết quả
là, năng lực sản xuất kinh tế của biển Việt Nam theo đánh giá, sẽ bị suy giảm ít nhất
1/3. Do mực nước biển dâng cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản buộc phải di dời và
xâm mặn, diện tích rừng ngập mặn giảm sẽ làm mất nơi cư trú của các sinh vật nước
ngọt. Tuy nhiên, cường độ mưa tăng có thể tạm thời giảm nồng độ muối trong nước
biển, ảnh hưởng xấu đến một số loài như nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống ở các vùng
nước ven biển (MoNRE 2003).
1.5.7. Tác động của biến đổi khí hậu lên kinh tế:
Một công trình nghiên cứu gần đây về các tác động tiềm tàng của mực nước
biển dâng cao đối với 84 nước đang phát triển ven biển cho thấy, nếu mực nước biển
dâng cao 1 mét sẽ ảnh hưởng khoảng 5% diện tích đất của Việt Nam và 11% dân số
- 25 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
cả nước, tác động đến 7% nông nghiệp và giảm GDP đến 10% khoảng 40 ngàn km²
đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập hàng năm. Những dự báo về các kịch bản
mực nước biển dâng cao 3 đến 5 mét đối với Việt Nam được mô tả là ‘thảm hoạ tiềm
tàng”.
1.6. Dự đoán diễn biến của biến đổi khí hâu (kịch bản BĐKH):
Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo
BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng 2/2008, được
trình bày tóm tắt dưới đây.
Bảng 2. Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm
1990)
Năm
Nhiệt độ tăng thêm(0C)
Mực nước biển tăng thêm (cm)
2010
0,3-0,5
9
2050
1,1-1,8
33
2100
1,5-2,5
45
Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 . Chú ý rằng số liệu trên chưa tính đến tính ì
của khí hậu và đặc điểm sụt hạ địa chất địa phương
Bảng 3.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so với
năm 1990)
Năm
Tây
Đông
Đồng
Bắc
Nam
Tây
Nam
Bắc
Bắc
bằng
Trung
Trung
nguyên
Bộ
Bộ
1,68
3,88
Bộ
1,13
2,77
1,01
2,39
1,21
2,80
BB
2050
1,41
1,66
1,44
2100
3,49
4,38
3,71
Nguồn:Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 .
Bảng 4. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990
Kịch bản / năm
A1F1
A2
A1B
B2
2050
13,7
12,5
13,3
12,8
2100
39,7
33,1
31,5
28,8
- 26 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
A1T
12,7
27,9
B1
13,4
26,9
Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 chú ý số liệu chưa tính đến biên độ sụt hạ
địa chất địa phương
Theo kịch bản dâng cao mực nước biển Việt Nam (bảng 2), đến 2050 nước
biển sẽ dâng cao thêm 33 cm, theo quy luật động lực sóng, chiều rộng bãi biển cát bị
xói lở sẽ là 330mm- 3300mm, có nghĩa là một phần lớn dải đất thấp ven bờ phía
Đông của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu - nơi tập trung cơ sở hạ tầng du lịch và nghề nuôi
trồng và chế biến thủy sản, nơi cư trú của hàng vạn hộ gia đình sẽ bị sóng phá hủy.
Tính trung bình của các kịch bản thì đến cuối thế kỷ 21 nhiệt đô có khả năng tăng
thêm 2,80C, mực nước biển dâng cao thêm 37cm chưa tính đến sự tan băng mà chỉ
tính đến sự dãn nở nước đại dương.IPCC cũng dự báo rằng cuối thế kỷ 21 mực nước
biển có thể tăng thêm tối đa 81 cm. Tuy nhiên các nhà khoa học Anh cho rằng con số
đó chưa phản ánh đúng, nước biển cuối thế kỷ 21 có thể tăng thêm đến 163 cm- tức
là gấp đôi số liệu dự báo của IPCC.
Kịch bản BĐKH 04/2009:“đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có
thể tăng khoảng 3oC và mực nước biển có thể dâng 100 cm so với hiện nay. Các
vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do nước biển dâng cao là vùng ĐBSH và vùng
ĐBSCL”.
Cuối tháng 4, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra báo cáo kết quả
nghiên cứu tác động của sự biến đổi khí hậu lên các nước khu vực Đông Nam Á.
Theo đó, Việt Nam là một trong bốn nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất cùng
Indonesia, Philippines, Thái Lan.
Xu thế chung của BĐKH ở Việt Nam:
Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam. Nhiệt độ ở
các vùng ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa. Đến cuối thế kỷ 21
nhiệt độ có thể tăng thêm từ 4 oC đến 4,5oC theo kịch bản cao nhất và 2,0 đến 2,2 oC
theo kịch bản thấp nhất. Biên độ dâng cao mực nước biển ở nước ta là khá lớn theo
tất cả các kịch bản, măc dù vậy vẫn chỉ là tương đương hoặc thấp hơn chút ít so với
dự báo của IPCC năm 2007.
- 27 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino, làm giảm đến 20-25% lượng mưa ở khu
vực miền Trung-Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài mà thậm
chí còn gây khô hạn thời đoạn ngay trong thời gian El Nino. Tác động này ở Nam
Trung Bộ lớn hơn Bắc Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên lớn hơn Nam Tây Nguyên
Với nguy cơ nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đối với các
cộng đồng ven biển là không thể tránh khỏi. Còn theo đánh giá của Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP, 2007), Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu
thế giới dễ bị tổn thương nhất trước sự biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng
1m, Việt Nam sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản
lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc nội (GDP). Nước biển dâng 3-5m đồng
nghĩa với một thảm họa có thể xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam phải xây dựng kịch bản
thích ứng và đối phó chi tiết vấn đề khí hậu và nước biển dâng, để từ đó đưa ra các
chính sách, chương trình hành động đúng, bởi biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản
là vấn đề của từng ngành, mà liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác.
Việt Nam đang nóng lên khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình nước ta tăng
khoảng 0,7°C; mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. BĐKH đã và đang tác động
mạnh mẽ đến nước ta mà điển hình là làm cho các thiên tai, đặc biệt bão lũ, ngập lụt,
hạn hán ngày càng khốc liệt hơn. Tại TPHCM và Cần Thơ, số liệu đo đạc cho thấy
nhiệt độ đang tăng lên: từ năm 1960 đến 2005 tăng khoảng 0,02 0C; từ năm 1991 đến
2005 tăng lên khoảng 0,0330C. Riêng tại TP Vũng Tàu, từ năm 1960 đến nay đã tăng
lên 20C. Điều đó không chỉ thể hiện sự ấm lên về nhiệt độ mà sẽ kéo theo nhiều thứ
như nước biển dâng, hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai bão, lụt, hạn hán tăng
nhanh... Theo đà tăng nhiệt độ trên toàn thế giới, từ năm 1920 đến nay nhiệt độ tại
VN cũng tăng lên từ 0,20C đến 10C nhưng tăng nhanh chủ yếu là từ năm 1980 đến
nay. Dự tính tới năm 2100, mực nước biển sẽ tăng lên tới 1m, nhiệt độ tăng khoảng
3°C. Phó Chủ tịch TP.HCM cho biết thêm, nhiệt độ TP.HCM những năm qua tăng
2°C.
Đến những năm 2050, lượng nước ngọt có thể sử dụng được ở Trung Á, Nam
Á, Đông Á và Đông Nam Á, đặc biệt tại các lưu vực sông lớn sẽ giảm. Vùng ven
biển, nhất là các vùng châu thổ rộng lớn đông dân ở Nam Á, Đông Á và Đông Nam
- 28 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Á sẽ chịu rủi ro nhiều nhất, do lũ từ sông, biển. Biến đổi khí hậu kết hợp đô thị hoá,
công nghiệp hoá và phát triển kinh tế nhanh chóng gây áp lực tới tài nguyên thiên
nhiên và môi trường. Sự hoành hành của dịch bệnh và tỷ lệ tử vong do tiêu chảy, chủ
yếu liên quan đến lũ lụt và hạn hán sẽ gia tăng ở Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á
do những thay đổi trong chu trình thuỷ văn
Bảng5: Hệ thống phân loại các tai biến thiên nhiên liên quan đến khí hậu
theo vùng của Việt Nam
Vùng địa lý
Miền Bắc
Vùng tai biến
Các tai biến thiên tai chính
Vúng cao phía Lũ quét, trượt đất, động đất
Bắc
Đồng bằng Sông Lũ sông khí có gió mùa, bão, nước
Miền Trung
Hồng
dâng cao do bão vùng ven biển
Các tỉnh duyên Bão, nước dâng cao do bão, lũ quét,
Miền Nam
hải miền Trung
hạn hán, xâm mặn
Tây Nguyên
Lũ quét, trượt đất
Đồng bằng Sông Lũ sông, bão, triều cường và nước
Cửu Long
dâng cao do bão, xâm mặn
(Nguồn: CCFSC)
Trên thực tế, sinh kế của hàng chục triệu người Việt Nam đang bị đe dọa với
những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Vấn đề này và những hệ quả của nó đang
khiến cho cuộc sống người nghèo và những người cận nghèo Việt Nam ở vùng núi,
vùng biển, vùng đồng bằng bị đe dọa. Lượng mưa thất thường và luôn biến đổi.
Nhiệt độ tăng cao hơn, tình hình thời tiến khốc liệt hơn. Tần suất và cường độ của
những đợt bão lũ, triều cường tăng đột biến. Các dịch bệnh xuất hiện và lan tràn...
Tình trạng thiếu hụt nước tăng cao. Diện tích rừng ngập mặn cũng bị tác động. Phân
bố rừng nguyên sinh, thứ sinh có thể dịch chuyển. Nguy cơ tuyệt chủng các loài
động thực vật gia tăng. Nguy cơ cháy rừng, phát tán dịch bệnh ngày càng hiển hiện.
Nguồn thủy, hải sản bị phân tán.
Riêng việc nước biển dâng cao có thể khiến 22 triệu người Việt Nam mất nhà.
Một phần lớn diện tích của đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long có thể bị ngập
lụt do nước biển dâng, các chuyên gia cảnh báo. Theo tính toán, năm 2070 các loại
- 29 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
cây trồng Việt Nam có thể sẽ lên tới độ cao 550 mét và hướng lên phía bắc 100 - 200
km so với hiện tại. Các loài cây á nhiệt đới suy giảm... Sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp sẽ buộc phải điều chỉnh.
2. THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
2.1. Giới thiệu chung về thích ứng biến đối khí hậu:
Biến đổi khí hậu là một điều cực kỳ nguy hiểm đe doạ đến vấn đề tồn tại của
con người. Theo dự báo của các nhà khoa học, thủ đô BangKok (Thái Lan) trong
vòng hai mươi năm nữa sẽ bị ngập và hiện Thái Lan không đủ thời gian để chuyển
thủ đô sang nơi khác. Còn đối với Việt Nam, Đồng bằng sống Cửu Long cũng là một
trong những nơi rất "nhạy cảm" của vấn đề biến đổi khí hậu. Hay, vấn đề triều cường
của TP. HCM, bão lũ miền Trung còn nan giải hơn rất nhiều khi tính đến yếu tố liên
quan bởi hiện tượng biến đổi khí hậu. Đối với sự đe dọa của biến đổi khí hậu thì đây
là nguy cơ chung cho đời sống nhân loại. Trong việc giải quyết vấn đề này, tất cả
mọi người trên Trái đất sẽ không có ai thắng và cũng không có ai thua. Trước sự đe
dọa ấy, mọi người đều giống nhau về mặt số phận. Hiện tượng biến đổi khí hậu
đang diễn ra, còn mức độ nghiêm trọng đến đâu là do con người quyết định và con
người có đầy đủ, có công nghệ, có tiền chỉ còn thiếu quyết tâm về mặt chính trị của
tất cả các quốc gia để giải quyết vấn đề này.
2.2. Nội dung thích ứng biến đổi khí hậu:
2.2.1. Những biện pháp khắc phục tình trạng biến đổi khí hậu: Có hai vấn
đề cần đặt ra. Đó là làm giảm tác động biến đổi khí hậu và thứ hai là thích ứng với
biến đổi khí hậu.
Để làm giảm tốc độ của biến đổi khí hậu có liên quan đến nhiều lĩnh vực như
nền kinh tế chúng ta phải làm. Hiện nay tất cả các nước trên thế giới đang sử dụng
nguồn nhiên liệu có nguồn gốc hóa thạch như dầu lửa, than đá... Cần phải sử dụng
nhiên liệu hóa thạch một cách hợp lý để giảm khí thải nhà kính. Chúng ta cần phải
tiết kiệm năng lượng, sử dụng các hình thực năng lượng khác như nhiên liệu sinh
học, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử... thay thế các nhiên
liệu dùng nhiên liệu hoá thạch như than đá, dầu lửa. Có rất nhiều các biện pháp liên
ngành và đòi hỏi các chính sách phù hợp với từng nước và từng địa phương với mục
- 30 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
tiêu tối đa. Mặt khác, chúng ta phải làm sao có những biện pháp đối phó thích nghi
sống cùng biến đối khí hậu và tránh thiệt hại tối đa, chính sách, truyền thông các
biện pháp ứng phó. Khi chúng ta đắp đê biển chúng ta trồng rừng ngập mặn ở phía
ngoài để bảo vệ. Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng cường
các biện pháp nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và
huy động sự tham gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện
pháp khuyến khích các nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng
trưởng kinh tế.
2.2.2. Thích ứng biến đổi khí hậu trong nông nghiệp:
Thích ứng phản ứng lại gồm: quản lý sạt lở, duy trì đất màu mỡ, xây dựng đập
thuỷ lợi, chương trình giáo dục mở rộng đối với việc quản lý và bảo vệ nguồn đất và
nước, thay đổi việc sử dụng và áp dụng phân bón, thay đổi thời gian trồng trọt
và thu hoạch, chuyển đổi loại cây trồng. Thích ứng truớc kỳ hạn gồm: nghiên
cứu và phát triển các vấn đề trong nông nghiệp; quản lý đất và nước; có các
biện pháp về chính sách khuyến khích trợ cấp về thuế; cơ chế thị trường, đa
dạng hoá và tăng cường về lươong thực cũng như vụ mùa; phát triển vụ mùa có
khả năng chịu hạn, mặn, côn trùng, sâu bọ; phát triển hệ thống cảnh báo sớm
cho các sự kiện cưc đại; các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu.
Trong nông nghiệp và lâm nghiệp sử dụng nhiều phân bón hữu cơ để tránh
phát thải khí metan rất nhiều. Đôi khi những thay đổi tưởng như tầm thường lại có
thể giúp được người dân đối phó được với tai họa tiềm tàng. Chẳng hạn tại các vùng
thường xuyên ngập lụt, tổ chức CARE đã dạy cho người dân chuyển từ nuôi gà sang
nuôi vịt ví dụ: phụ nữ Bangladesh chuyển từ nuôi gà sang nuôi vịt. (Trích báo cáo
của CARE, tổ chức nhân đạo chống nghèo khổ lớn nhất thế giới trình bày tại hội
nghị chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh LHQ về biến đổi khí hậu sẽ họp vào tháng
12/2009). Tại những vùng khác lại cần chuyển đổi cả các giống cây trồng, từ những
cây lương thực chỉ trồng trên cạn sẽ được thay thế bằng những cây trồng chịu nước
hoặc ngược lại. Với các biện pháp ấy, dù khí hậu thay đổi thất thường, lụt hoặc hạn,
người ta sẽ không bị mất trắng cả một vụ thu hoạch.
- 31 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Biến đổi khi hậu là mối đe dọa thực sự đối với sự phát triển kinh tế xã hội
đang tiếp tục diễn ra ở Việt Nam. Lượng mưa ngày càng thất thường và luôn biến
đổi, nhiệt độ cao hơn, tình hình thời tiết ngày càng khốc liệt hơn, như bão, hạn hán
và lượng mưa lớn gây ngập lụt và mực nước biển dâng cao, tất cả chắc chắn sẽ có
những tác động đáng kể đến các ngành và các vùng, và các nhóm thu nhập và nhất là
an sinh của dân nghèo nông thôn. Mối đe dọa về biến đổi khí hậu bắt đầu được ghi
nhận, nhưng thông tin và nhận thức vẫn còn ở mức thấp. Mặc dù Việt Nam có nhiều
chính sách và chiến lược phát triển liên quan, nhưng Việt Nam chưa có chiến lược
toàn diện thích ứng với biến đổi khí hậu Quốc Gia và địa phương. Xây dựng năng
lực quốc gia và địa phương là rất cấp thiết để đảm bảo các biện pháp đối phó về
chính sách là thích đáng và hữu hiệu. Cần phải có điều phối rất tốt giữa các Bộ
Ngành và tăng cường hợp tác với các cơ quan quốc tế và các tổ chức NGO quốc tế
để có thể giải quyết biến đổi khí hậu một cách có lồng ghép với các nỗ lực lâu dài và
phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo. Hết sức quan trọng là chính những người
gặp rủi ro biến đổi khí hậu nhiều nhất. Người nghèo nông thôn sống ở các tỉnh bị ảnh
hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu rất hạn chế về thông tin hoặc hỗ trợ tài chính
và kỹ thuật để thích ứng với thế giới của họ đang biến đổi, mặc dầu đã đạt được một
số thành công tại địa phương. Kinh nghiệm trực tiếp đối mặt với những tác động của
biến dổi khí hậu cần được lồng ghép với các biện pháp ứng phó trong tương lai và
các giải pháp đề ra, cần được xây dựng dựa vào những thực tiễn thích ứng của địa
phương nếu thích hợp. Người nghèo “gặp rủi ro” cũng cần phải trở thành những
người tham gia chủ yếu trong quy hoạch và thực hiện các biện pháp thích ứng biến
đổi khí hậu, nhất là ở những nơi các biện pháp đó đòi hỏi phải di dời hoặc từ bỏ đáng
kể các phương thức sinh kế hiện có.
2.2.3. Những chương trình nhằm thích ứng biến đổi khí hậu:
22/3/1985,21 quốc gia ký hiệp ước bảo vệ ozone (hiệp ước Vienna).
22/9/1987, 24 quốc gia ký nghị định thư Montreal
11/1979 “Hiệp ước Geneve về ô nhiễm không khí xuyên biên giới tầm xa”
được ký giữa Uỷ ban khinh tế EU và của Liên hiệp quốc (ECE)
- 32 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Nhân ngày Sở hữu trí tuệ thế giới (26/04/2009), Tổng Giám đốc Tổ chức Sở
hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) đã gửi Thông điệp tới toàn thế giới với chủ đề "Sáng tạo
xanh". Thông điệp chỉ rõ: Hoạt động của con người gây ra mối hiểm họa thì chính
hoạt động của con người cũng có thể tìm ra giải pháp khắc phục. Vì vậy, “Sáng tạo
xanh” – việc phát triển và phổ biến công nghệ nhằm đối phó với sự biến đổi khí hậu
là chìa khóa để ngăn chặn việc khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên của trái đất.
Cuộc chạy đua đang diễn ra nhằm tạo ra các nguồn năng lượng thay thế dễ tiếp cận
như khai thác sức gió và thủy triều, sử dụng năng lượng mặt trời và năng lượng địa
nhiệt dưới lòng đất. Nhiều giống cây trồng mới có khả năng chịu hạn hán và lũ lụt
đang được tạo ra. Các vật liệu mới thân thiện với môi trường sẽ giúp chúng ta xây
dựng một thế giới bền vững hơn. Trong quá trình phát triển công nghệ qua nhiều
thập kỷ, con người đã và đang xâm hại đến hành tinh mà chúng ta đang sống. Gây ô
nhiễm tràn lan và mức tiêu thụ các nguồn tài nguyên khoáng sản, sinh vật trên thế
giới tăng nhanh đã gây sức ép chưa từng thấy đối với môi trường. Biến đổi khí hậu là
một trong những hiểm họa lớn nhất mà xã hội từng phải đối mặt như các lớp băng hà
đang dần biến mất, quá trình sa mạc hóa ngày càng gia tăng...Chỉ tính riêng ở châu
Phi đến năm 2020, sẽ có khoảng 75 đến 250 triệu người phải đối mặt với tình trạng
thiếu nước ngày càng trầm trọng. Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới nhấn mạnh: Phần
đóng góp của một hệ thống sở hữu trí tuệ cân bằng vào việc khuyến khích sáng tạo,
phổ biến và ứng dụng các công nghệ sạch; quảng bá kiểu dáng xanh nhằm tạo ra các
sản phẩm thân thiện với môi trường ngay khi còn là ý tưởng cho đến khi đưa ra thị
trường; tạo dựng thương hiệu xanh nhằm giúp người tiêu dùng có đủ thông tin để lựa
chọn và đem lại lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Sức sáng tạo của con người
là niềm hi vọng lớn nhất để chúng ta khôi phục sự cân bằng mong manh giữa bản
thân chúng ta và môi trường sống của mình. Đó chính là tài sản giá trị nhất trong
việc tìm ra các giải pháp nhằm đối phó với thách thức toàn cầu này, cho phép chúng
ta chuyển từ các công nghệ cacbon, công nghệ xám của quá khứ sang công nghệ
cacbon trung tính, sáng tạo xanh của tương lai.
Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) mới đây cho biết Quỹ
MacArthur đã đồng ý tài trợ 2 triệu USD để IUCN phối hợp với Quỹ quốc tế về Bảo
- 33 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
vệ thiên nhiên (WWF) phát triển một mạng lưới nhằm hỗ trợ khả năng thích ứng của
một số hệ sinh thái và cộng đồng dân cư dễ bị tổn thương nhất trước ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu. Mạng lưới có tên Liên kết các hệ sinh thái và lợi ích kinh tế
(ELAN), ban đầu sẽ tập trung vào các quốc gia đang phát triển, nơi mà ảnh hưởng
của biển đối khí hậu thường khắc nghiệt hơn và khả năng chống đỡ thường hạn chế
hơn so với các nước đã phát triển. Phương pháp tiếp cận của mạng lưới là tập trung
và linh hoạt để phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. ELAN sẽ là cầu nối giữa
các nhà nghiên cứu với các nhà quản lý tài nguyên, các nhà hoạch định chính sách ở
địa phương và khu vực để đảm bảo các phương pháp quản lý dựa trên hệ sinh thái
được thừa hưởng những thành quả khoa học và thực tiễn mới nhất. Đặc điểm chủ
đạo của ELAN là có khả năng liên kết nhiều mạng lưới quản lý hệ sinh thái và các
biện pháp thích ứng, đồng thời đóng vai trò là một diễn đàn chia sẻ thông tin toàn
cầu. Phương pháp tiếp cận phi tập trung này sẽ giúp thúc đẩy những nỗ lực thích ứng
với biến đổi khí hậu mà hàng loạt các tổ chức và thể chế đang tiến hành. “Quy mô và
tính cấp bách của biến đổi khí hậu đòi hỏi cần có sự hợp tác và những sáng kiến
quốc tế nhằm hỗ trợ con người và các sinh vật khác thích ứng với hành tinh đang
thay đổi” - Jonathan Fanton, Chủ tịch của Quỹ MacArthur phát biểu - “Giảm nhẹ là
một biện pháp cần thiết song không đủ. Chúng ta không thể chủ quan mà cho rằng
việc thích ứng chỉ là “sự nhân nhượng” hoặc quá lo lắng rằng thích ứng sẽ giảm
động cơ để tìm ra những nguyên nhân sâu xa của biến đổi khí hậu. Mạng lưới mới
mẻ và sáng tạo này sẽ nuôi dưỡng những ngành khoa học đang phát triển phục vụ
cho việc thích ứng, giúp đỡ việc trau dồi kiến thức và thúc đẩy sự ra đời và triển khai
những ý tưởng mới.” Để đảm bảo nguồn tài trợ ổn định cho các dự án thích ứng biến
đổi khí hậu, ELAN sẽ kêu gọi và tiếp nhận sự hỗ trợ của các thể chế tài chính đa
phương lớn, bao gồm cả quỹ thích ứng biến đổi khí hậu thuộc khuôn khổ Hiệp định
khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc. Ý tưởng về ELAN đã được phát triển
thông qua sự hợp tác giữa WWF và IUCN. Quỹ MacArthur sẽ giúp 2 tổ chức này
mở rộng số lượng của các tổ chức tham gia và thiết lập ELAN như là một mạng lưới
hiệu quả để đối phó với thách thức thích ứng với biến đổi khí hậu.
Các chương trình ở Việt Nam:
- 34 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Chương trình trồng rừng là một trong những chương trình được ưu tiên trong
"Chiến lược Quốc gia của Việt Nam về Phòng chống và Giảm nhẹ thiên tai đến năm
2020" vừa được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 172/2007/ QĐ - TTg ngày
16/11/2007. Nội dung của chương trình: Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên
tai; đảm bảo quy hoạch phát triển, quy chuẩn xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với
tiêu chuẩn phòng chống và giảm nhẹ thiên tai; đảm bảo 100% cán bộ làm công tác
giảm nhẹ thiên tai được tập huấn nâng cao năng lực; 70% số dân các xã, phường
vùng thường xuyên bị thiên tai được phổ biến kiến thức về phòng chống thiên tai;
hoàn thành việc di dời, sắp xếp và ổn định đời sống nhân dân vùng thường xuyên
xảy ra thiên tai theo quy hoạch được duyệt; phối hợp chặt chẽ với lực lượng tìm
kiếm cứu nạn để chủ động đối phó; đảm bảo an toàn hệ thống đê điều từ Hà Tĩnh trở
ra; nâng cao khả năng, mức chống lũ của đê miền trung, Tây Nguyên và Nam Bộ,
củng cố nâng cấp đê biển; đảm bảo an toàn các hồ chứa; hoàn thành 100% việc xây
dựng khu neo đậu tàu thuyền; hoàn thành hệ thống tin liên lạc. Về công tác chỉ đạo:
Nguyên tắc chỉ đạo phòng chống và giảm nhẹ thiên tai phải được thực hiện đồng bộ,
theo giai đoạn và có trọng điểm. Quán triệt phương châm "4 tại chỗ", chủ động
phòng tránh, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và hiệu quả. Đầu tư cho công
tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai là yếu tố quan trọng để phát triển bền vững..."
Trong những năm vừa qua, hậu quả phá rừng ở một số nơi đã rất rõ, ví dụ như
cùng một lượng mưa nhưng nếu phá rừng lũ quét sẽ về gây thiệt hại và ảnh hưởng
đến cuộc sống nhiều hơn. Nhưng mấy năm gần gây thông qua chương trình 5 triệu
ha rừng nhiều nơi đã nâng cao được rừng che phủ và phòng hộ rất tốt. Một trường
hợp thấy rõ là Thừa Thiên - Huế trong đợt lũ vừa qua, lượng mưa tới 3.000 ml nhưng
không bị lũ quét tàn phá.
Ngày 2-12-2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định
158/2008/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo đó, các nguyên tắc cơ bản của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu là:
- Ứng phó trên nguyên tắc phát triển bền vững, đảm bảo tính hệ thống, tổng
hợp, ngành, vùng, bình đẳng về giới, xóa đói, giảm nghèo.
- 35 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
- Các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu được tiến hành có trọng tâm,
trọng điểm; ứng phó với những tác động cấp bách trước mắt và những tác động tiềm
tàng lâu dài. Đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu là yếu tố quan trọng đảm bảo
phát triển bền vững, ứng phó hôm nay sẽ giảm được thiệt hại trong tương lai.
- Ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, của
toàn xã hội.
-Các nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu phải được thể hiện trong các
chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, các địa
phương, được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật và được quán triệt
trong tổ chức thực hiện.
- Triển khai ứng phó với biến đổi khí hậu theo nguyên tắc “trách nhiệm chung
nhưng có phân biệt” được xác định trong Công ước Khung của Liên hiệp quốc về
biến đổi khí hậu.
Hội chữ thập đỏ Việt Nam với sự hỗ trợ của hội chữ thập đỏ Hà Lan (NRC)
đã thực hiện dự án biến đổi khí hậu ở 5 tỉnh ven biển từ năm 2003 đến 2005. Dự án
này đã xây dựng các tư liệu về các tác động và thích ứng biển đổi khí hậu, giúp đánh
giá các khả năng dễ bị tổn thương và năng lực của 30 trong tổng số các Xã dễ bị tổn
thương nhất và đồng thời nâng cao nhận thức, xây dựng năng lực của người dân địa
phương. Dự án còn đào tạo các nhân viên của hội chữ thập đỏ Việt Nam và các tình
nguyện viên ở các cấp khác nhau và nâng cao nhận thức cho các nhà ra quyết định.
Hội chữ thập đỏ Việt Nam và hội chữ thập đỏ Hà Lan còn hỗ trợ đưa vào thực hiện
dự án tái trồng rừng và thích ứng với biến đổi khí hậu ở Tỉnh Quảng Bình để ổn định
các đùn cát ven biển bằng trồng cây phi lao và hổ trợ sinh kế của người nghèo. Tổ
chức phát triển của Hà Lan (SNV) cùng hội chữ thập đỏ Việt Nam đang khảo sát
thêm công trình khác ở Quảng Bình với nguồn tài trợ thông qua cơ chế phát triển
sạch.
Những nổ lực khác để thích ứng với biến đổi khí hậu gồm có diễn đàn cải
thiện công tác quản lý nguồn tài nguyên nước có cân nhắc đến khả năng biến đổi
thời tiết gia tăng do CPWC đăng cai và công trình xây dựng các cách thức hữu hiệu
hổ trợ nông dân ở tỉnh Quảng Trị sử dụng thông tin khí hậu theo mùa (do ADPC
- 36 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
thực hiện). Một nghiên cứu đang được triển khai để tìm cách hợp lý hóa các vấn đề
liên quan đến tính dễ tổn thương và thích ứng biến đổi khí hậu với phát triển kinh tế
xã hội, các dự án ứng phó và giảm thiểu hạn hán và các biện pháp thích ứng với
những tác động của biến đổi khí hậu đối với các hệ thống nước và lưu lượng sông
trong lưu vực sông Hương (do IMH và NCAP thực hiện). Dự án lưu vực sông
Hương bao gồm việc nghiên cứu các nhu cầu và sự hổ trợ khả dĩ các sinh kế cho các
cộng đồng nghề cá dễ bị tổn thương, kể cả việc đa dạng hóa sinh kế thông qua các
chương trình đào tạo và cung cấp tín dụng quy mô nhỏ và cải thiện các quyền và quy
định đánh bắt cá và phục hồi rừng ngập mặn.(Trap 2006).
Cả tổ chức Oxfam Anh lẫn chương trình hỗ trợ nhỏ không hoàn lại từ quỹ
môi trường toàn cầu (GEF) của UNDP- Việt Nam hỗ trợ các sinh kế ở Ninh Thuận,
một trong số các tỉnh nghèo nhất ven biển Nam Trung Bộ Việt Nam. Ninh Thuận bị
ảnh hưởng hạn hán nặng hơn nhiều các nơi khác và còn bị ảnh hưởng bão và lũ lụt .
Các dự án nhỏ dựa vào cộng đồng đã đạt được một số thành công, như cải thiện công
tác quản lý đất đai đang đối mặt với quá trình gia tăng hoang mạc hóa do hạn hán.
Nhận thức về việc thích ứng biến đổi khí hậu do chính quyền địa phương đã được
nâng cao và chính quyền địa phương đã phân bổ kinh phí cho một số hoạt động.
Chính quyền địa phương còn xây dựng các kế hoạch khác để giảm thiểu các tác động
của hạn hán bằng cách mở rộng các công trình tưới nước như xây dựng giếng sâu,
giếng hở và các biện pháp thích ứng dài hạn khác như lập bản đồ các vùng dễ tổn
thương trước tai biến, tập huấn cho nông dân những phương thức quản lý nước tốt
hơn và nâng cao năng suất cây trồng; đưa vào áp dụng giống cao sản, lớn nhanh và
chịu nhiệt độ cao; các công trình tưới nước quy mô nhỏ được mở rộng; hổ trợ tín
dụng nhỏ cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ của phụ nữ được xem như một biện
pháp đa dạng hóa ngoài nông nghiệp và tập huấn về nuôi giống tôm mới chịu nhiệt
độ cao. Nghiên cứu gần đây ở Ninh Thuận cho thấy các cộng đồng thực sự thích ứng
với biến đổi khí hậu ra sao, ví dụ bằng cách sử dụng các giống hạt chịu hạn hơn và
thay đổi thời vụ gieo trồng để xử lý các hiệu ứng của hạn hán. Các cộng đồng còn
đưa vào áp dụng các phương thức chăn nuôi gia súc bằng cách thay đổi con giống và
tìm kiếm các nguồn thức ăn chịu hạn (đại học KYOTO 2007). Tuy nhiên, một số
- 37 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
cộng đồng người thiểu số nghèo (ví dụ nhóm người Chăm) bị các đợt hạn hán gần
đây và lũ ảnh hưởng nghiêm trọng (như cuối năm 2005). Các giải pháp lựa chọn
thích ứng với biến đổi khí hậu được định hình bằng các quyền của người dân được
khai thác và sự dụng các tài nguyên và việc phân bổ không công bằng các quyền và
cơ hội về tài nguyên vẫn là rào cản chủ yếu đối với việc thích ứng với biến đổi khí
hậu của người nghèo. Cần phải tăng mạnh đầu tư để hỗ trợ sinh kế của họ và các
nguồn tài nguyên thiên nhiên mà họ sống phụ thuộc, nhất là khi phải đối mặt với
những rủi ro của biến đổi khí hậu đang gia tăng. Tuy vậy, có những quan tâm của
các quốc gia có thể làm tăng thêm áp lực đối với đất đai và nguồn nước địa phương,
ví dụ các kế hoạch dài hạn phát triển điện hạt nhân, trong đó đã quy hoạch nhà máy
điện hạt nhận tại tỉnh Ninh Thuận.
Tính dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu gắn liền với nghèo đói và vì vậy,
biện pháp thích ứng lâu dài tốt nhất đối với người dễ bị tổn thương nhất là giảm
nghèo bằng tất cả các hình thức. Các biện pháp cấp bách để tăng thu nhập và tăng
cường sức dẻo dai của sinh kế là khuyến khích “dàn mỏng” rủi ro bằng cách đa dạng
hóa thu nhập; tôn trọng các quyền quản lý tài sản chung; và nâng cao an ninh tập thể,
ví dụ bằng tạo ra khả năng thực hiện những đánh giá về tính dễ tổn thương và năng
lực địa phương và tăng cường khả năng sẵn sàng ứng phó thiên tai, bao gồm các hệ
thống cảnh báo sớm và các biện pháp giảm thiểu có đê điều và trồng rừng.
Khái niệm biến đổi khí hậu, các tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu và
nhu cầu thích ứng vẫn chưa được hiểu đúng ở Việt Nam, trừ cộng đồng nhỏ các
chuyên gia và các cán bộ phát triển, một số cơ quan quản lý nhà nước liên quan và
một số địa phương (đã được thụ hưởng từ các dự án liên quan đến biến đổi khí hậu).
Để cải thiện tình hình này đòi hỏi phải tăng cường công tác truyền thông và nghiên
cứu toàn diện về các tác động của biến đổi khí hậu đối với nên kinh tế của Việt Nam
và các mục tiêu phát triển chủ yếu, nhất là giảm nghèo. Tuy nhiên, chúng ta còn biết
rất ít về những tác động tiềm tàng về mặt kinh tế và xã hội của mực nước biển dâng
cao đối với các khu vực định cư và nông nghiệp chẳng hạn hoặc những biến đổi về
các điều kiện khí hậu có thể dẫn đến những số lượng lớn “những người tị nạn khí
hậu”. Cần phải nghiên cứu tìm ra các biện pháp và các chiến lược thích ứng dài hạn
- 38 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
và hữu hiệu nhất để đảm bảo hạnh phúc cho con người và tiếp tục tăng trưởng kinh
tế và giảm nghèo.
Ngày 03/06, Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường (Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam) đã tổ chức hội thảo "Nâng cao vai trò cộng đồng trong
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững" tại Đồ Sơn, Hải Phòng. Các đại biểu tham
dự đã nghe 3 báo cáo về phản biện xã hội môi trường trong bối cảnh biến đổi khí
hậu, một số điều cần biết về biến đổi khí hậu và dự thảo Khung Nghị định về sự
tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường.Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang và
sẽ làm thay đổi môi trường toàn cầu nhưng không đồng đêu ở các vùng khác nhau,
trong đó Việt Nam được dự đoán là một trong những nước sẽ chịu hậu quả nặng nề
nhất với khoảng 1/6 diện tích đất đai và 1/3 dân số bị ảnh hưởng. Bởi vậy, vai trò của
cộng đồng trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững rất quan trọng. Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam giới
thiệu dự thảo khung Nghị định sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường.
Theo đó, Nghị định này thể chế hóa các quy định về nguyên tắc đã trong Hiến pháp,
Luật, đạo luật chuyên ngành, tăng cường mạnh mẽ vai trò của cộng đồng trong bảo
vệ môi trường ở nước ta. Nội dung chính gồm 5 nhóm các quy định: quy định chung,
quy định về thông tin môi trường cho cộng đồng, về nội dung tham gia của cộng
đồng, tiếp cận tư pháp, nâng cao năng lực cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường.
Cộng đồng được Nhà nước đảm bảo các quyền khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện đòi bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra thông qua tổ chức đại diện, được hỗ
trợ cung cấp các bằng chứng theo yêu cầu khi thực hiện quyền đòi bồi thường thiệt
hại. Các hành vi về gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, xâm phạm quyền, lợi
ích của Nhà nước, cộng đồng dân cư, tổ chức, gia đình và cá nhân thì cộng đồng có
quyền tố cáo. Phản biện xã hội (PBXH) nhằm làm cho các chủ trương, chính sách,
chương trình hay dự án ngày càng hoàn thiện trong thực tiễn, đáp ứng nhu cầu xã
hội, tạo nên sự đồng thuận nhằm phục vụ tốt hơn những vấn đề quốc kế, dân sinh.
Trong bối cảnh BĐKH, việc phản biện xã hội cần chú ý là BĐKH là quá trình trường
diễn nên những nhận định về tác động cụ thể tại một địa điểm cụ thể thường khó
thuyết phục. Đây cũng là điểm mà các dự án, chương trình được PBXH khó chấp
- 39 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
nhận để thay đổi. Cách tốt nhất là xem xét khả năng gây hại cho các hệ sinh thái vốn
có chức năng bảo vệ ở những vùng nhạy cảm với BĐKH mà pháp luật đã quy định
như rừng ngập mặn, rừng phòng hộ, không gian xanh của đô thị, vùng đất thấp ven
biển... hoặc những quá trình tai biến nhãn tiền như xói lở bờ biển làm mất đất, nhiễm
mặn đang gia tăng... Theo PGS.TS Vũ Đình Hòe, phản biện xã hội là lĩnh vực mới,
hết sức cần thiết của xã hội dân sự vào các chủ trương, chính sách, chương trình,
hoặc dự án nhằm phục vụ tốt hơn những vấn đề quốc kế dân sinh. Hội Bảo vệ Thiên
nhiên và Môi trường Việt Nam là tổ chức đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ giao
cho chức năng phản biện xã hội (2002), tập trung vào lĩnh vực Bảo vệ thiên nhiên và
môi trường. Đến nay Hội đã tiến hành các phản biện xã hội đối với dự án Tam Đảo
2; bô xít Tây Nguyên và vụ việc Vedan gây ô nhiễm nghiêm trọng trên sông Thị Vải.
Cũng theo GS Vũ Đình Hòe muốn thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội, cần một
đội ngũ chuyên gia giỏi, tâm huyết, thực hiện các bước thu thập dữ liệu khoa học,
đặc biệt là các chứng cứ khoa học và pháp luật, thì những ý kiến phản biện mới có
ích đối với vấn đề xã hội, chính quyền quan tâm. Phương pháp PBXH đòi hỏi BĐKH
được xem như bối cảnh để tư duy hơn là chứng cứ để phản biện. Nguyên tắc chung
của PBXH về tài nguyên, môi trường là tuân thủ luật pháp, có cơ sở khoa học, tư duy
hệ thống, phù hợp văn hóa, hội thảo, xây dựng Văn kiện PBXH về tài nguyên, môi
trường và truyền thông. Văn kiện PBXH chỉ nói về những vấn đề quan trọng nhất, có
cơ sở khoa học chặt chẽ, tầm ảnh hưởng lớn và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ tính
hợp pháp của dự án PBXH, những vấn đề môi trường trọng yếu chưa được tính đến
hay tính đủ của dự án bao gồm môi trường tự nhiên, xã hội - nhân văn, trong đó chú
ý sức khỏe con người, an ninh môi trường và tác động tiêu cực đến kinh tế. PBXH
chỉ thành công khi có sự tham gia tích cực của xã hội dân sự. Cuối cùng, thay mặt
nhóm soạn thảo, Thạc sĩ Nguyễn Hưng Thịnh trình bày dự thảo Khung Nghị định
“Sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ Môi trường”. Theo đó, Nghị định được
xây dựng nhằm xác định cơ sở pháp lý bảo đảm thông tin môi trường; sự tham gia
của cộng đồng vào các hoạt động môi trường; bình đẳng pháp luật trong tiếp cận môi
trường; nâng cao năng lực cộng đồng về bảo vệ môi trường. Cộng đồng sẽ được
tham gia vào việc xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật; được tuyền truyền, đào tạo,
- 40 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
tập huấn, nâng cao năng lực và nhận thức; được khen thưởng khi có thành tích xuất
sắc trong bảo vệ môi trường. Đồng thời được tiếp nhận định kỳ thông tin báo cáo
hiện trạng môi trường quốc gia, địa phương, các báo cáo chuyền để về môi trường;
danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trương nghiêm trọng, các khu vực môi trường
bị ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng, khu cực có nguy cơ xảy ra sự cố môi trường;
danh sách, thông tin về các nguồn thải, các loại chất thải có nguy cơ gây hại đến sức
khỏe con người và môi trường; danh mục sinh vật ngoại lai xâm lấn, sinh vật biến
đổi gen; kết quả quan trắc các thành phần môi trường. Bên cạnh đó, cộng đồng được
tiếp nhận các thông tin không định kỳ về các hoạt động chất thải, công nghệ xử lý,
thông số tiêu chuẩn về chất thải, các giải pháp bảo vệ môi trường trong quá trình lập
báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án; thông tin về các loại chất thải, khối
lượng chất thải rắn, lưu lượng nước thải, kết quả quan trắc các thông số môi trường
của cơ sở trong quá trình hoạt động...
Một mặt quan trọng nữa là việc giáo dục ý thức cộng đồng về việc bảo vệ môi
trường nhằm thích ứng biến đổi khí hậu. Đối với mỗi cá nhân chúng ta phải có ý
thức trong việc bảo vệ môi trường. Bao gồm giữ gìn môi trường, sử dụng giao thông
tốt nhất như đi nhiều người một xe, dùng bóng đèn tiết kiệm, ra khỏi phòng tắt điện
ngay, tắt máy tính khi không dùng. Mỗi cá nhân phải nhận thức rằng năng lượng và
sự bảo vệ môi trường là hết sức quan trọng sẽ làm cho thế giới tốt hơn.
- 41 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
C. KẾT LUẬN
Biến đổi khí hậu là một điều cực kỳ nguy hiểm đe doạ đến vấn đề tồn tại của
con người cũng như tất cả các loài sinh vật sống trên Trái Đất. Biến đổi khí hậu gây
nguy hiểm do nó làm cho Trái đất nóng lên, nước biển dâng lên. Trái đất có 7 tỷ
người và hiện giờ, có đến hơn một nửa số người này sống ở vùng duyên hải của Trái
đất trong phạm vi 100 km trở lại vùng bờ biển. khi nước biển dâng lên làm ảnh
hưởng đến cuộc sống của hàng tỷ người. Chính vì vậy, mỗi cá nhân cũng như các tổ
chức, các quốc gia trên toàn thế giới cần nhận thức rõ về biến đổi khí hậu và thích
ứng biến đổi khí hậu nhằm đưa ra những biện pháp thích hợp để ứng phó cũng như
bảo vệ môi trường sống. Biến đổi khí hậu không phải là việc riêng của một cá nhân
hay tổ chức nào mà là việc chung của cả nhân loại. Vì vậy, tất cả mọi người đều cần
chung tay góp sức. Các quốc gia, các tổ chức cần đưa ra những chương trình, biện
pháp phù hợp cho từng khu vực. Mỗi cá nhân cần có ý thức thực hiện tốt việc giữ gìn
vệ sinh chung, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, tham gia tích cực những
chương trình vì môi trường…Thực hiện những việc trên là điều cần thiết đối với việc
phòng tránh và thích ứng biến đổi khí hậu toàn cầu.
- 42 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bá –1996 - Môi trường khí hậu thay đổi mối hiểm hoạ toàn cầu –
NXB TP. Hồ Chí Minh
2. Lê Văn Khoa – 2001 – Khoa học môi trường – NXB Bộ Giáo Dục và Đào
Tạo
3. http://www.monre.gov.vn
4. http://www.laodong.com.vn
5. http://hanoitv.vn
6. http://www.tiasang.com.vn
7. http://www.thoitiet.net
8. http://www.thiennhiennet.vn
9. http://www.sggp.org.vn
10. http://www.vnmedia.vn
11. http://www.vnexpress.net
12. http://www.vietbao.vn
13. http://www.vietnamnet.vn
14. http://www.yeumoitruong.com Tạp ch Tạp sdddcccwwwwwchí Tia Sáng –
- 43 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề......................................................................................Trang 1
2. Mục đích, yêu cầu..........................................................................Trang 1
3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................Trang 1
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................Trang 1
B. NỘI DUNG
1. Biến đổi khí hậu.............................................................................Trang 2
1.1. Định nghĩa về khí hậu.................................................................Trang 2
1.2. Khái niệm biến đổi khí hậu.........................................................Trang 2
1.3. Nguyên nhân biến đổi khí hậu.....................................................Trang 3
1.4. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu..............................................Trang 5
1.5. Tác động, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu................................Trang 11
1.5.1. Tác động của biến đổi khí hậu lên hệ sinh thái đất.................Trang 11
1.5.2. Tác động của biến đổi khí hậu lên hệ sinh thái nước..............Trang 12
1.5.3. Tác động của biến đổi khí hậu lên thực vật, động vật.............Trang 15
1.5.4. Tác động của biến đổi khí hậu lên khí hậu, thời tiết...............Trang 17
1.5.5. Tác động của biến đổi khí hậu lên con người và hoạt động sống của con
người...............................................................................................Trang 18
- 44 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
1.5.6. Tác động của biến đổi khí hậu lên nông nghiệp.....................Trang 23
1.5.7. Tác động của biến đổi khí hậu lên kinh tế..............................Trang 23
1.6. Dự đoán diễn biến của biến đổi khí hậu ..................................Trang 23
2. Thích ứng biến đổi khí hậu.........................................................Trang 28
2.1. Giới thiệu chung về thích ứng biến đổi khí hậu .......................Trang 28
2.2. Nội dung thích ứng biến đổi khí hậu .......................................Trang 28
2.2.1. Những biện pháp khắc phục tình trạng biến đổi khí hậu ......Trang 29
2.2.2. Thích ứng biến đổi khí hậu trong nông nghiệp .....................Trang 29
2.2.3. Những chương trình nhằm thích ứng biến đổi khí hậu ........Trang 31
C. KẾT LUẬN ..............................................................................Trang 41
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................Trang 42
- 45 -
Tiểu luận : Môi trường học cơ bản
Sáng - tiasang.com.vn Tạp chí Tia Sáng - tiasang.com.vn
- 46 -
- Xem thêm -