Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại thị trấn kiến giang - lệ ...

Tài liệu Đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại thị trấn kiến giang - lệ thuỷ - quảng bình

.PDF
63
307
62

Mô tả:

Đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại thị trấn Kiến Giang - Lệ Thuỷ - Quảng Bình
MỞ ĐẦU Ngày nay, cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, đời sống người dân không ngừng nâng cao thì vấn đề môi trường luôn là điểm nổi bật và cần phải quan tâm của tất cả các nước trên thế giới. Rác thải là một phần tất yếu của cuộc sống, không một hoạt động nào trong sinh hoạt hằng ngày không sinh ra rác. Xã hội ngày càng phát triển thì số lượng rác thải ra ngày càng nhiều và dần trở thành mối đe dọa thực sự với đời sống con người. Ở Việt Nam, nền kinh tế đang trên đà phát triển đời sống của người dân càng được nâng cao, lượng rác thải phát sinh càng nhiều. Bên cạnh đó thì hệ thống quản lý thu gom chất thải rắn chưa thực sự có hiệu quả gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở nhiều nơi. Hiện nay, chỉ ở các trung tâm lớn như ở thành phố, thị xã mới có công ty môi trường đô thị có chức năng thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt, còn tại các vùng nông thôn hầu như chưa có biện pháp thu gom và xử lý rác thải hữu hiệu. Thị trấn Kiến Giang là một trong những vùng phát triển nhất của huyện Lệ Thuỷ. Trong những năm qua nền kinh tế ở đây phát triển sôi động nhiều nhà máy xí nghiệp, cơ sở hạ tầng mọc lên, kinh tế phát triển kéo theo hàng loạt vấn đề về môi trường, lượng chất thải phát sinh ngày càng nhiều. Trong khi đó biện pháp quản lý chất thải tại địa phương chưa được quan tâm đúng mức, nguồn kinh phí đầu tư cho công tác thu gom và xử lý rác thải chưa cao, cán bộ môi trường giám sát thu gom và quản lý rác thải sinh hoạt chưa làm việc đúng năng lực. Vì vậy tìm kiếm giải pháp để quản lý chất thải rắn tại địa phương đạt hiệu quả đang được các cơ quan chức năng quan tâm. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó chúng tôi tiến hành chọn đề tài: “ Đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại thị trấn Kiến Giang - Lệ Thuỷ - Quảng Bình và đề xuất biện pháp quản lý ”, nhằm tìm ra hướng xử lý tốt cho vấn đề rác sinh hoạt trên địa bàn huyện. CHƯƠNG 1 Trang 1 Trang TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN LỆ THỦY - QUẢNG BÌNH 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên 1.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên [1,9] Lệ Thủy là một huyện nằm ở phía nam tỉnh Quảng Bình, có vị trí địa lý như sau: phía nam giáp huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị, phía bắc giáp huyện Quảng Ninh phía tây giáp tỉnh Khammouan của Lào, phía đông giáp Biển Đông. Vị trí địa lý và cấu trúc địa hình được thể hiện ở hình 1.1: Hình 1.1. Vị trí địa lý huyện Lệ Thủy Với địa hình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông, 85% tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển. Trang 2 Trang Lệ Thủy mang đặc trưng của khí hậu vùng Bắc trung bộ được thẻ hiện như sau: Do huyện Lệ Thủy nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11. Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24 oC - 25oC. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8. 1.1.1.2.. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên [1,9] Tài nguyên nước: Có các công trình đại thủy nông, trung nông và một loạt hồ chứa nhỏ khác với dung tích hàng trăm triệu m 3 nước, phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên rừng : Lệ Thủy có 94.231 ha rừng chiếm 66,63% diện tích tự nhiên rừng có nhiều gỗ quý và hàng ngàn ha thông nhựa cung cấp nguyên liệu quý cho công nghiệp chế biến. Tài nguyên khoáng sản: huyện Lệ Thủy có đá vôi để phát triển công nghiệp và vật liệu xây dựng, có suối nước nóng Bang khai thác chế biến làm nước giải khát , có trữ lượng lớn cát trắng dùng để sản xuất thủy tinh cao cấp. Ngoài còn có vàng, chì kẽm,... Tài nguyên biển : Lệ Thủy có đường bờ biển dài 30km với Ngư trường rộng, có nguồn lợi hải sản phong phú. Ven biển có bãi cát sạch đẹp có thể xây dựng các khu nghỉ mát, bãi tắm,... Nhìn chung Lệ Thủy có điều kiện tự nhiên, tài nguyên tương đối thuận lợi cho việc phát triển một nền kinh tế tổng hợp đa dạng, bền vững gồm có: công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn như: khí hậu khắc nghiệt bởi thường xuyên có bão, lụt vào mùa mưa và nắng hạn, gió Tây nam vào mùa khô. 1.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội huyện Lệ Thủy 1.1.2.1. Dân số [10] Trang 3 Trang Hiện nay huyện Lệ Thủy có 28 xã với tổng dân số thống kê được năm 2008 là 149.626 người, lao động năm 2008 là 78.785 người chiếm 52,80% dân số toàn huyện. Kết quả điều tra dân số ở một số xã huyện Lệ Thủy được thể hiện ở bảng 1.1 Bảng 1.1. Dân số một số xã ở huyện Lệ Thủy Tên đơn vị Năm 2007 Năm 2008 (Xã, thị Tổng số Số nhân Tổng số Số nhân trấn) hộ khẩu hộ khẩu 1491 6359 1498 6474 An Thủy 2325 10778 2335 11057 Liên Thủy 2078 9497 2078 9546 Xuân Thủy 1350 6112 1352 6139 Lộc Thủy 1083 5048 1083 5085 Kiến Giang ( Nguồn: Phòng dân số huyện Lệ Thủy) Qua bảng 1.1 về dân số ở một số xã ở huyện Lệ Thủy chúng tôi nhân thấy: các xã ở huyện Lệ Thủy có dân số khác nhau, xã có dân số cao nhất là xã An Thủy với 11057 người ở năm 2008 và chiếm dân số thấp nhất là ở xã Lộc Thủy với 5085 người. Qua các năm dân số ở các xã đều tăng thể hiện ở thị trấn Kiến Giang năm 2007 với 6359 người đến năm 2008 thì tăng lên 6474 người. Trong khi đó ở xã An Thủy năm 2007 dân số là 10778 và đến năm 2008 tăng lên 11057 người. 1.1.2.2. Hiện trạng phát triển kinh tế [9] Trang 4 Trang - Về tăng trưởng kinh tế: Giá trị sản xuất của huyện Lệ Thủy – Quảng Bình tăng bình quân hàng năm 8,35%, trong đó giá trị ngành nông nghiệp tăng 6,1%, ngàng công nghiệp xây dựng tăng 17%, thương mại và dịch vụ tăng 16,8%. Cơ cấu kinh tế đã có sự dịch chuyển đúng hướng. Ngành nông nghiệp giảm từ 54,95% năm 200 xuống còn 45,30% năm 2005, ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng từ 45,05% năm 2000 lên 54,7% năm 2005. - Về thực trạng kinh tế: Nông nghiệp: tổng sản lượng lương thực năm 2000 là 63.523 tấn, đến 2005 là 80.188 tấn. Lương thực bình quân đầu người năm 2000 là 454 kg đến năm 2005 là 550 kg. Giá trị xuất khẩu theo hiện hành năm 2000 là 209.91 triệu đồng đến năm 2005 là 366.588 triêu đồng. Lâm nghiệp: ba năm qua đã trồng được 2.588 ha trên một triệu cây phâ tán, khai thác 350 tấn nhựa thông. Thủy sản: tổng sản lượng thủy sản năm 2000 là 1.640 tấn, đến năm 2005 là 2.507 tấn. Khu vực kinh tế công nghiệp: tổng giá trị sản xuất của toàn huyện năm 2000 là 24.944 triệu đồng, đến năm 2005 là 73.910 triệu đồng. Năm 2005 có 2.337 cơ sở sản xuất công nghiệp - Về cơ sở vật chất kỹ thuật Giao thông: Lệ Thủy có đường giao thông khá thuận lợi với quốc lộ 1A dài 33km. Đường Hồ Chí Minh cả hai nhánh đông và tây dài 83km, đường sắt dài 34km, có tỉnh lộ 10, 16 dài 73km, đường liên xã dài 147km, đường biển đường sông khá thuận lợi cho việc giao lưu đi lại của nhân dân và vận chuyển hàng hóa. Nhìn chung giao thông thủy bộ trong thế liên hoàn khép kín. Trang 5 Trang Thủy lợi: hiện nay có 3 công trình thủy nông là An Mã, Cẩm Ly, Thanh Sơn, 95 trạm bơm điện và 34 hồ đập nhỏ đảm bảo tưới tiêu cho 4500 - 5000 ha mỗi vụ chiếm 82%diện tích toàn lúa huyện. 1.1.2.3. Giáo dục và đào tạo [9] Hiện tại có 29 trường mẫu giáo, 34 trường tiểu học, 24 trường trung học cơ sở , 6 trường trung học phổ thông. Toàn huyện có 100% xã được công nhận xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, 32% cơ sở được công nhận phổ cập trung học cơ sở, 615 trường tiểu học đạt tiêu chuẩn quốc gia. 1.1.2.4. Y tế [12] Với một bệnh viện gồm 140 giường bệnh, 28 trạm y tế với 118 giường bệnh. Số lượng cán bộ y tế trên địa bàn là 247 cán bộ, gần 99% số trẻ em trong độ tuổi được tiêm văcxin phòng bệnh. Đã tổ chức khám chữa bệnh cho nững người nghèo, tàn tật, cô đơn và các đối tượng chính sách. 1.1.2.5. Văn hóa [12] Một số di tích lịch sử được công nhận như: Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh, miếu Thần Hoàng, chùa An Xá,... 1.1.3. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp [12] Năm 2005 có 141413,42 ha trong đó: Đất nông nghiệp có 111254,97 ha chiếm 78,67% diện tích tự nhiên Đất phi nông nghiệp có 9.318,94 ha chiếm 6,59% diện tích tự nhiên bao gồm: đất ở, đất chuyên dùng, đất tính ngưỡng, đất nghĩa trang nghĩa địa. Đất chưa sử dụng có 20839,51 ha chiếm 14,74% diện tích tự nhiên. 1.2. TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT 1.2.1. Định nghĩa về chất thải rắn sinh hoạt: Chất thải rắn sinh hoạt là những chất thải rắn liên quan đến các hoạt động sinh hoạt của con người, nguồn gốc tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, Trang 6 Trang trường học, trung tâm dịch vụ, thương mại. Chất thải rắn sinh hoạt có thành phần bao gồm thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, vỏ, rau quả, kim loại, sành sứ, thủy tinh, gạch ngói vỡ, đất đá, cao su, chất dẻo, xương động vật, lông gà,... [13]. 1.2.2. Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn sinh hoạt [8] Theo Nguyễn Văn Phước: Rác thải được phát sinh từ các nguồn khác nhau, tùy thuộc vào các hoạt động mà rác được phân chia thành các loại như sơ đồ 1.2 Khu dân cư Khu thương mại, khách sạn... Cơ quan công sở Khu xây dựng và phá hủy công trình xây dựng Khu công cộng (nhà Hoạt động công nghiệp, nông nghiệp ga,...) CTRSH Sơ đồ 1.1. Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn sinh hoạt Qua sơ đồ 1.2 ta thấy chất thải rắn sinh hoạt được thải ra từ nhiều hoạt động khác nhau như: các khu dân cư, khu thương mại, cơ quan công sở, các hoạt động công nông nghiệp,... tuy nhiên hàm lượng và thành phần rác thải ở các khu vực là khác nhau, trong số đó rác thải sinh hoạt chiếm đa số. 1.2.3. Phân loại chất thải rắn sinh hoạt [8] Tùy thuộc vào nguồn gốc phát sinh và tính chất của chất thải rắn sinh hoạt mà có nhiều cách phân loại CTRSH khác nhau, sau đây là một số cách phân loại cơ bản: Dựa vào hàm lượng hữu cơ, vô cơ ta có thể chia như sau: Rác hữu cơ: là những loại rác thải trong sinh hoạt, ăn uống hàng ngày Rác vô cơ: là những loại rác có khả năng tái sử dụng như giấy tờ, sách báo, hộp nhựa, ni lon,... Loại thủy tinh: chai, lọ,... Trang 7 Trang Dựa vào đặc điểm, rác thải được chia thành rác thải thực phẩm, rác thải bỏ đi, rác thải nguy hại Rác thải thực phẩm: bao gồm các thực phẩm thừa thãi không ăn được sinh ra trong khâu chuẩn bị, dự trữ, nấu ăn,… Rác thải bỏ đi: bao gồm các rác thải không sử dụng được hoặc không có khả năng tái chế sinh ra từ các hộ gia đình, công sở hoạt động thương mại,… Rác thải nguy hại, rác thải hoá chất, sinh học, dễ cháy, dễ nổ hoạc mang tính phóng xạ theo thời gian có ảnh hưởng đến đời sống con người, động vật, thực vật. 1.2.4. Thành phần và tính chất của chất thải rắn sinh hoạt Theo đánh giá của những nhà nghiên cứu và khoa học thì chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu chứa các chất hữu cơ khá cao tiếp đó là các chất vô cơ [4]. Thành phần cụ thể được thể hiện như bảng 1.2 Trang 8 Trang Bảng 1.2. Thành phần vật lý của chất thải rắn sinh hoạt Phần trăm trọng lượng Thành phần Giới hạn dao Trung bình động Thực phẩm 6-25 15 Giấy 25-45 40 Carton 3-15 4 Plastic 2-8 3 Vải 0-4 2 Cao su 0-2 0.5 Da 0-2 0.5 Rác làm vườn 0-20 12 Gỗ 1-4 2 Thuỷ tinh 4-16 8 Đồ hộp 2-8 6 Kim loại màu 0-1 1 Kim loại đen 1-4 2 Bụi, tro, gạch 1-10 4 Trang 9 Trang (Nguồn: Bộ KHCN-MT Hà Nội 12-2000) Qua bảng 1.2 ta thấy trong thành phần chất thải rắn sinh hoạt thì các chất hữu cơ chiếm tỷ lệ cao các thành phần kim loại, da, cao su chiếm tỷ lệ thấp vì vậy trong quá trình quản lý và xử lý chất thải sinh hoạt ta cần chú ý và tập trung vào lượng chất thải rắn hữu cơ này nhằm đạt hiệu quả cao trong quá trình xử lý. Theo thống kê của Bộ khoa học và Công nghệ và Môi trường thì tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh hàng năm là rất lớn với thành phần phong phú và phức tạp, tiêu biểu ở 3 thành phố lớn sau [2]: Bảng 1.3. Thành phần chất thải rắn sinh hoạt ở ba thành phố lớn nước ta (% khối lượng) Trang 10 Trang STT Thành phần Hà Nội Đà Nẵng TP HCM 1 Nilon, nhựa, 5.5 22.5 8.78 2.5 1.4 1.55 4.2 6.8 24.83 35.9 36.0 18.0 1.8 1.8 5.59 50.1 31.5 41.25 cao su 2 Kim loại, vỏ lon 3 Giấy, vải vụn, carton 4 Đất cát và chất khác 5 Thủy tinh, sành sứ 6 Lá cây, rác hữu cơ (Ng uồn: Bộ KHCN - MT Hà Nội 12 - 2000) Qua số liệu ta thấy, thành phần và số lượng rác thải sinh hoạt tại các vùng là khác nhau và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, tốc độ công nghiệp hóa, mức sống của Trang Trang 11 cộng đồng ở khu vực đó. Ở TP HCM và Hà Nội lượng rác hữu cơ, lá cây chiếm tỷ lệ cao với 41.25% (TP HCM) và 50.1% (Hà Nội). Trong khi đó ở TP Hà Nội và Đà Nẵng thì lượng đất cát và các chất khác lại chiếm đa số với 36%. Và thành phần rác thải chiếm tỷ lệ thấp nhất ở các tỉnh thành là kim loại và vỏ lon là dưới 2,5%. 1.2.5. Một số ảnh hưởng của chất thải rắn sinh hoạt đến môi trường và con người 1.2.5.1. Ảnh hưởng của chất thải rắn sinh hoạt đến môi trường Hiện nay do khối lượng rác thải phát sinh với một lượng quá lớn, ở các địa phương công tác thu gom xử lý và tiêu hủy đã và đang vượt quá năng lực. Điều này là nguyên nhân chủ yếu tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe cộng đồng [6]. Ảnh hưởng trực tiếp của rác thải trước hết là môi trường và sức khỏe cộng đồng. Các bãi tập trung rác không những là những nơi gây ô nhiễm mà còn là các ổ dịch bệnh, nơi ruồi muỗi và các vi sinh vật gây bệnh sinh sôi phát triển ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của người dân, là mối nguy hại cho sự tồn tại, phát triển và bền vững của cộng đồng dân cư trong vùng. Trong thành phần rác thải chứa nhiều chất độc, do đó khi rác thải được đưa vào môi trường thì các chất độc xâm nhập vào trong đất sẽ tiêu diệt nhiều loài sinh vật có ích cho đất như: Giun, vi sinh vật, nhiều loài động vật không xương sống, ếch, nhái làm cho môi trường đất bị giảm đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây trồng. Đối với môi trường không khí: mùi hôi từ các điểm trung chuyển rác thải trong khu vực dân cư đã gây ô nhiễm môi trường không khí và gây mùi khó chịu. Hiện nay môi trựờng không khí ở nông thôn đang bị ảnh hưởng do rác thải sinh hoạt. Chất thải sinh hoạt phát sinh ở nông thôn chứa lượng chất hữu cơ cao, khi phân huỷ đã phát tán vào không khí nhiều hợp chất nguy hại như: H 2S, NH3, CH4, CO2,… các khí này là nguyên nhân làm cho trái đất nóng lên. Đối với môi trường đất: Trong chất thải rắn sịnh hoạt chứa một lượng lớn các chất hữu cơ, khi phân huỷ hoà tan vào nước sẽ ngấm sâu vào đất làm cho đất bị đổi Trang Trang 12 màu, xói mòn, biến chất và suy giảm chất lượng đất. Ngoài ra rác thải còn làm hạn chế quá trình phân hủy, tổng hợp chất dinh dưỡng, làm đất giảm độ phì nhiêu, bị chua, năng suất cây trồng giảm. Làm giảm tính đa dạng sinh học phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây trồng.. Các loại rác thải khó bị phân hủy hay hoàn toàn không bị phân hủy sinh học tồn tại lâu dần dẫn đến chúng sẽ trộn lẫn vào trong đất làm cho lượng chất hữu cơ trong đất giảm đi và mật số vi sinh vật cũng sẽ giảm, đất sẽ bạc màu và không canh tác được. Ngoài ra, rác thải sinh hoạt tồn tại tràn lan, không được thu gom thì nó cũng sẽ ảnh hưởng đến lối sống văn hóa, vẻ mỹ quan của vùng nông thôn. Nếu như rác thải ở nông thôn không được quan tâm đúng mức thì ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến ý thức cũng như sức khỏe nói riêng trong thế hệ tương lai. Đối với môi trường nước: rác thải và các chất ô nhiễm đã biễn đổi màu của mặt nước thành màu đen, từ không mùi đến có mùi khó chịu. Nồng độ của chất bẩn hữu cơ đã làm cho thủy sinh vật trong nguồn nước mặt bị xáo trộn. làm giảm diện tích ao hồ, làm giảm khả năng tự làm sạch của nước, cản trở dòng chảy, hệ sinh thái trong ao hồ bị hủy diệt. Dẫn đến môi trường nước bị ô nhiễm. 1.2.5.2. Ảnh hưởng của chất thải rắn sinh hoạt đến sức khoẻ con người Hiện nay với tình trạng ô nhiễm ngày càng tăng do chất thải rắn phát sinh ở nông thôn, nó đã gián tiếp góp phần làm phát sinh nhiều bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân sống trong khu vực [7]. Trong thành phần rác thải có rất nhiều chất độc, khi không được thu gom rác thải tồn đọng trong không khí lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ con người xung quanh. Những người thường xuyên tiếp xúc với rác thải, những người làm công việc thu nhặt các phế liệu từ rác thải dễ mắc bệnh viêm phổi, sốt rét, các bệnh về mắt, tai, mũi, họng,... Theo tổ chức y tế thế giới, trên thế giới có 5 triệu người chết và có gần 40 triệu trẻ em mắc các bệnh có liên quan tới rác thải, 26 bệnh truyền nhiễm trong cộng đồng đều liên quan tới ô nhiễm môi trường. Nổi bật trong số các bệnh tật do ô nhiễm môi trường là nhóm bệnh truyền nhiễm bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính, viêm Trang 13 Trang phổi, viêm họng, cúm, tiêu chảy, hội chứng lỵ, bại não, sốt xuất huyết, viêm gan do vi rút,... Ngoài ra còn có tới 80% dân số Việt Nam bị mắc bệnh giun sán [16]. Các bệnh viêm nhiễm liên quan tới đường hô hấp khoảng 36,1%, các triệu chứng về mắt là 28,5% rối loạn chức năng thông khí phổi là 22,8%. Đặc biệt là các bệnh liên quan tới ô nhiễm môi trường ảnh hưởng lên trẻ em là nhiều nhất [16]. Bên cạnh đó việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách, trong quá trình canh tác sẽ để lại ảnh hưởng nghiêm trọng. Do người dân tiếp xúc với thuốc bảo vệ thực vật thường xuyên nên dễ bị các bệnh ngoài da như nổi mẫn đỏ, ung thư da hay nhiều bệnh về da khác và khả năng bị ngộ độc là rất cao, đặc biệt ở các nước đang phát triển nơi mà hầu hết người dân không có kiến thức về phòng bị, bảo vệ sức khỏe cho cơ thể [2]. Mặt khác, việc xử lý chất thải rắn luôn phát sinh những nguồn gây ô nhiễm, nếu không có biện pháp xử lý triệt để dẫn đến môi trường sống phát sinh nhiều bệnh tật dịch bệnh. 1.2.6. Tình hình phát sinh chất thải rắn sinh hoạt 1.2.6.1. Tình hình phát sinh chất thải rắn sinh hoạt trên thế giới Trong vài thập kỷ vừa qua, do sự phát triển kinh tế và bùng nổ dân số diễn ra mạnh mẽ, tình trạng lượng rác thải phát sinh ngày càng gia tăng gây ô nhiễm môi trường sống đã trở thành vấn đề lớn của hầu hết các nước trên thế giới. Nếu tính bình quân mỗi ngày một người thải ra 0.5kg rác thải ra thì mỗi ngày trên thế giới sẽ thải ra 3 triệu tấn rác thải [2,13]. Theo con số thông kê chưa đầy đủ, mỗi năm thế giới thải ra 10 tỷ tấn rác, trong đó 4 tỷ tấn rác được thải ra từ các nước trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD trong những năm 1990. Nhưng đứng đầu vẫn là Mỹ với 2 tỷ tấn [19]. Tại Anh hằng năm thải ra 27 triệu tấn rác hỗn tạp không qua tái chế. Chia đều cho các gia đình trung bình mỗi hộ thải nửa tấn rác hàng năm và con số này đã đưa nước Anh trở thành thùng rác của châu lục Trang 14 Trang Ở Nga, lượng rác thải phát sinh theo bình quân đầu người là 300 kg/người, như vậy mỗi năm ở Nga có khoảng 50 triệu tấn rác. Ở Pháp, lượng rác thải bình quân 1 tấn/người/năm và mỗi năm nước Pháp có khoảng 35 triệu tấn rác thải [4]. Ở Trung Quốc, lượng rác thải đô thị phát sinh hằng năm rất cao. Trong năm 2004, riêng khu vực đô thị đã tạo ra 190 triệu tấn rác. Theo tính toán đến năm 2030 con số này sẽ là 480 triệu tấn rác [15]. Tại Nhật Bản, theo số liệu của Cục Y tế và Môi sinh Nhật Bản, hàng năm nước này có khoảng 450 triệu tấn rác thải, trong đó chất thải rắn sinh hoạt chiếm 87 triệu tấn Trong tổng số rác thải trên, chỉ có khoảng 5% rác thải phải đưa tới bãi chôn lấp, trên 36% được đưa đến các nhà máy để tái chế. Số còn lại được xử lý bằng cách đốt, hoặc chôn tại các nhà máy xử lý rác. Như vậy, lượng rác thải ở Nhật Bản rất lớn, nếu không tái xử lý kịp thời thì môi trường sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng [21]. Tại Singapo quá trình xử lý rác thải đã trở thành vấn đề sống còn ở Singapo. Để đảm bảo đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hoá nhanh, năm 1970, Singapo đã thành lập đơn vị chống ô nhiễm gọi tắt là APU, có nhiệm vụ kiểm soát ô nhiễm không khí và thanh tra, kiểm soát các ngành công nghiệp mới. Hiện nay, mỗi ngày Singapore thải ra khoảng 16.000 tấn rác. Rác ở Singapore được phân loại tại nguồn nhờ vậy 56% số rác thải ra mỗi ngày (khoảng 9.000 tấn) quay lại các nhà máy để tái chế. Khoảng 41% (7.000 tấn) được đưa vào bốn nhà máy thiêu rác để đốt thành tro. Toàn bộ rác thải ở Singapo được xử lý tại 4 nhà máy đốt rác. Sản phẩm thu được sau khi đốt được đưa về bãi chứa trên hòn đảo nhỏ Pulau Semakau, cách trung tâm thành phố 8 km về phía Nam. Chính quyền Singapo khi đó đã đầu tư 447 triệu USD để có được một mặt bằng rộng 350 ha chứa chất thải. Mỗi ngày, bãi rác Semakau tiếp nhận 2.000 tấn tro rác [20]. 1.2.6.2. Tình hình phát sinh chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam Rác thải là sản phẩm tất yếu của cuộc sống được thải ra từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác như khám chữa bệnh, vui chơi giải trí của con người. Cùng với mức sống của nhân dân ngày càng được nâng cao Trang Trang 15 và công cuộc công nghiệp hoá ngày càng phát triển sâu rộng, rác thải cũng được tạo ra ngày càng nhiều với những thành phần ngày càng phức tạp và đa dạng. Tác động tiêu cực của rác thải nói chung và rác thải có chứa các thành phần nguy hại nói riêng là rất rõ ràng nếu như những loại rác thải này không được quản lý và xử lý theo đúng kỹ thuật môi trường. Xử lý rác thải đã và đang trở thành một vấn đề nóng bỏng ở các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam [18]. Việt Nam là một nước nông nghiệp, dân số sống ở khu vực nông thôn chiếm một tỷ lệ rất lớn (khoảng 80%) do vậy lượng rác thải nông thôn thải ra ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, sự đa dạng về sản phẩm hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ và phát triển của xã hội đã làm cho rác thải trở nên đa dạng, nhiều về chủng loại và khó phân hủy, dần dần tích lũy trong môi trường và trở thành nguy cơ gây ô nhiễm. Mặt khác do chưa hiểu biết hoặc người dân có ý thức chưa cao đối với tác hại của rác thải đến môi trường, cũng như thiếu sự đầu tư các phương tiện thu gom và xử lý rác của chính quyền địa phương đã làm cho rác thải sinh hoạt ngày càng nhiều và gây nên ô nhiễm. Một khi không được xử lý chúng sẽ gây ra nhiều tác hại đến môi trường như làm ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí, ảnh hưởng đến sức khỏe của dân cư trong vùng và phát sinh dịch bệnh cũng như để lại hậu quả xấu cho thế hệ tương lai [15]. Theo số lượng thống kê năm 2002 cho thấy lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh bình quân khoảng từ 0,6 đến 0,8 kg/người/ngày ở các đô thi lớn và dao động từ 0,4 đến 0,5 kg/người/ngày ở các đô thị nhỏ và vùng nông thôn. Đến năm 2004, tỷ lệ đó tăng tới 0,9 đến 1,2 kg/người/ngày ở các thành phố lớn và 0,5 đến 0,65 kg/người/ngày tại các đô thị nhỏ [2]. Theo báo cáo “Diễn biến môi trường Việt Nam 2004 - Chất thải rắn” thì hầu hết các loại chất thải rắn phát sinh tập trung chủ yếu ở các đô thị. Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2008, ước tính mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 17 triệu tấn rác thải trong đó có 12,8 triệu tấn rác thải sinh hoạt chiếm 76,5% tổng lượng rác thải [2]. Trang 16 Trang Theo số liệu của Bộ Xây dựng, hiện tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh trên toàn quốc ước tính khoảng 21.500 tấn/ngày, đến năm 2015, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ các đô thị ước tính khoảng 37000 tấn/ngày và năm 2020 là 59000 tấn/ngày cao gấp 2 - 3 lần hiện nay [17]. Theo báo cáo về diễn biến CTR của Bộ tài nguyên và Môi trường thì khối lượng CTR phát sinh tại các khu vực được thể hiện ở bảng 1.4 Bảng 1.4. Tình hình phát sinh chất thải rắn. Các loại chất thải rắn Toàn quốc Đô thị Nông thôn 12.800.000 6.400.000 6.400.000 128.400 125.000 2.400 2.510.000 1.740.000 770.000 Chất thải Y tế lây nhiễm (tấn/năm) 21.000 - - Tỷ lệ thu gom trung bình (%) - 71 20 Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị trung bình - 0,8 0,3 Tổng lượng phát sinh chất thải sinh hoạt (tấn/năm) Chất thải nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm) Chất thải không nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm) theo đầu người ( kg/người/ngày) Tại các đô thị lớn thì theo Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nội, tổng lượng rác thải sinh hoạt đô thị của thành phố vào khoảng 2.800 tấn/ngày, ngoài ra chất thải công nghiệp, chất thải xây dựng, chất thải y tế cũng là “vấn đề rất lớn” với tổng khối lượng khoảng 2.000 tấn khác/ngày. Chất thải rắn sinh hoạt chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại: khoảng 60% chất thải xây dựng chiếm khoảng 1/4 và lượng chất thải phân bùn bể phốt là 5% [6]. Ở tỉnh Bắc Ninh mỗi ngày có khoảng 533 tấn rác thải sinh hoạt và khoảng 2 tấn rác thải y tế. Trong đó, khu vực nông thôn chiếm khoảng gần 250 tấn/ngày. Dự báo đến năm 2020 con số này sẽ tăng lên là 704 tấn/ngày và 4 tấn/ngày. Trong khi đó, tỷ lệ thu gom rác thải sinh hoạt còn thấp, chỉ đạt khoảng 51%, tình trạng để lẫn rác thải nguy hại Trang 17 Trang với rác thải thông thường ở một số cơ sở y tế vẫn diễn ra phổ biến, đang là mối đe doạ đến sức khoẻ của người dân [3]. Theo số liệu điều tra thì lượng chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%),... Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh CTRSH tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%) [6]. Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 cho thấy, lượng CTRSH đô thị phát sinh chủ yếu tập trung ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng CTRSH phát sinh tới 8.000 tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng CTRSH phát sinh từ tất cả các đô thị. Dưới đây là kết quả điều tra Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở các đô thị Việt Nam đầu năm 2007 [3]. Bảng 1.5. Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở các đô thị Việt Nam đầu năm 2007 STT Lượng CTRSH bình quân Loại đô thị trên đầu người (kg/người/ngày) Lượng CTRSH phát sinh Tấn/ngày Tấn/năm 1 Đặc biệt 0,84 8.000 2.920.000 2 Loại 1 0,96 1.885 688.025 3 Loại 2 0,72 3.433 1.253.045 4 Loại 3 0,73 3.738 1.364.370 5 Loại 4 0,65 626 228.490 Tổng 6.453.930 (Nguồn: Bộ khoa học CNMT Hà Nội) Như vậy qua bảng 1.5 ta nhận thấy rằng lượng CTRSH phát sinh nhiều nhất là ở các loại đô thị đặc biệt và đô thị loại 1 từ 0.84 – 0.96 kg/người/ngày. Do ở đây quá Trang 18 Trang trình đô thị hóa diễn ra mạnh, dân cư tập trung đông, nhu cầu sinh hoạt hằng ngày tăng cao đồng nghĩa với việc CTR phát sinh nhiều. Ngược lại, lượng CTRSH ở đô thị loại 4 là thấp nhất với 0.65 kg/người/ngày. 1.2.7. Quy trình quản lý chất thải rắn sinh hoạt [8] Ngày nay do lượng CTRSH ngày càng gia tăng gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe làm mất mỹ quan đô thị vì vậy vấn đề quản lý và xử lý CTR dang được quan tâm và giải quyết. Quá trình quản lý CTR nhìn chung bao gồm các bước cơ bản như sau: CTR phát sinh Quá trình vận chuyển quá trình thu gom quá trình lưu trữ xử lý. Sau đây là quá trình quản CTRSH cơ bản như sau: 1.2.7.1. Quá trình thu gom Thu gom chất thải rắn là quá trình thu nhặt rác từ các hộ dân, công sở hay từ những điểm thu gom chất chúng lên xe trung chuyển đến điểm trung chuyển trạm xử lý hay những điểm chôn lấp chất thải rắn. Thu gom chất thải rắn được chia làm hai loại: Hệ thống thu gom chất thải chưa phân loại tại nguồn và hệ thống thu gom chất thải đã phân loại tại nguồn. a. Hệ thống thu gom chất thải chưa phân loại tại nguồn: các cách thu gom CTR dạng này được xem xét cụ thể đối với từng nguồn phát sinh: khu dân cư biệt lập thấp tầng, khu dân cư thấp tầng và trung bình, khu dân cư cao tầng, khu thương mại và công nghiệp. Phương pháp áp dụng cho các khu dân cư biệt lập thấp tầng: phương pháp này bao gồm các dịch vụ thu gom lề đường, lối đi ngõ hẻm, mang đi trả về, mang đi. Phương pháp áp dụng cho các khu dân cư thấp tầng và trung bình: dịch vụ thu gom lề đường là phương pháp phổ biến cho các khu dân cư thấp tầng và trung bình. Với dịch vụ này, đội thu gom có trách nhiệm vận chuyển các thùng chứa đầy CTR từ các hộ gia đình đến các tuyến đường thu gom bằng các phương pháp thủ công hoặc cơ giới, tùy thuộc vào số lượng CTR được vận chuyển. Trang 19 Trang Phương pháp áp dụng cho các khu dân cư cao thấp tầng: đối với các khu chung cư cao tầng các loại thùng chứa lớn được sử dụng để thu gom CTR. Tùy thuộc vào kích thước và kiểu dáng của các thùng chứa được sử dụng và áp dụng xe cơ giới để dỡ tải. Phương pháp áp dụng cho các khu thương mại công nghiệp: cả hai phương pháp thủ công và cơ khí đều được sử dụng để thu gom CTR từ khu thương mại. Để tránh tình trạng kẹt xe, việc thu gom CTR của các khu thương mại tại nhiều thành phố lớn được thực hiện vào ban đêm hoặc sáng sớm. Khi áp dụng phương pháp thu gom thủ công thì CTR được đặt vào các túi nilon bằng nhựa hoặc các loại thùng giấy và được đặt dọc theo đường phố để thu gom. Phương pháp này thông thường được thực hiện bởi một nhóm có 3 người, trong một vài trường hợp có thêt có tới 4 người, gồm một tài xế và từ 2 dến 3 người đem CTR từ các thùng chứa trên lề đường đổ vào xe thu gom. b. Hệ thống thu gom chất thải đã phân loại tại nguồn: Các thành phần CTR đã phân loại tại nguồn cần phải được thu gom và đem tái chế. Phương pháp cơ bản đang được sử dụng là thu gom dọc theo lề đường sử dụng những phương tiện thu gom thông thường hoặc thiết kế các thiết bị đặc biệt chuyên dụng. Tại các khu dân cư: CTR được phân loại theo nhiều cách: phân loại tại lề đường khi đổ chúng vào xe chở thông thường hoặc xe chuyên dụng, phân loại bởi chủ nhà để mang đến điểm thu mua. Hình thức phân loại tại lề đường giúp chủ nhà không phải mang đi xa nên được nhiều người ủng hộ Tại các khu thương mại: CTR thường được phân loại bởi những tổ chức tư nhân (các tổ chức này ký hợp đồng phân loại CTR với cơ sở thương mại). Thành phần CTR có thể tái chế được cho vào từng thùng chứa riêng. Các loại thùng carton được bó lại để ngay lề đường để tthu gom riêng. Các lon nhôm thải ra từ các khu trung tâm thương mại được đập dẹp để giảm kích thước khi thu gom. 1.2.7.2. Trạm trung chuyển Tuỳ thuộc vào các yếu tố kinh tế và kỹ thuật thuộc hệ thống quản lý chất thải rắn mà người ta sẽ áp dụng việc trung chuyển hay không. Trạm trung chuyển là cơ sở Trang 20 Trang
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng