Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đề tài tốt nghiệp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại nhnt hà nội”...

Tài liệu Đề tài tốt nghiệp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại nhnt hà nội”

.PDF
85
111
88

Mô tả:

1 Lời nói đầu Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nƣớc ta đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng. Cùng với tiến trình đổi mới kinh tế và đặc biệt khi nƣớc ta lại vừa gia nhập tổ chức thƣơng mại quốc tế (WTO), hệ thống tài chính- tiền tệ của Việt Nam đã và đang phát triển rất mạnh mẽ. Và trong hệ thông tài chính-tiền tệ đó thì NHTM là một mắt xích quan trọng với tƣ cách là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế. NHTM đã có những đóng góp rất to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế thông qua việc tài trợ cho các dự án, trong đó có những dự án rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nƣớc. Đối với ngân hàng tài trợ dự án là hoạt động mang lại lợi nhuận cao song cũng chứa đựng nhiều rủi ro (do quy mô lớn, thời gian dài…). Để hạn chế rủi ro, hƣớng tới mục tiêu an toàn và sinh lời, các NHTM tiến hành việc thẩm định các dự án thông qua hoạt động thực tiễn của mình, họ ngày càng ý thức đƣợc tầm quan trọng của việc thẩm định dự án trƣớc khi ra quyết định tài trợ. Thẩm định dự án có rất nhiều nội dung (thẩm định về phƣơng diện thị trƣờng, thẩm định về phƣơng diện tài chính…) trong đó thẩm định dự án về mặt tài chính luôn đƣợc coi là trọng tâm, có lẽ bởi nó gần với lĩnh vực chuyên môn của Ngân hàng nhất và nó cũng trả lời câu hỏi mà Ngân hàng quan tâm nhất là khả năng trả nợ của khách hàng. Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNT Hà Nội, em nhận thấy hoạt động thẩm định tài chính của ngân hàng đã có nhiều cải tiến, song nếu đƣợc bổ sung hoàn thiện thêm 1 số biện pháp hợp lý thì hiệu quả đạt đƣợc càng cao góp phần giảm thiểu đáng kể rủi ro trong hoạt động đầu tƣ dự án. Vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội” làm đề tài tốt nghiệp của mình. 2 Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận gồm 3 chƣơng: Chương 1: Lý luận chung về thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại các NHTM Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh NHNT Hà Nội Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội Em xin chân thành cám ơn cô giáo hƣớng dẫn Ths Phan Thị Hạnh và các cán bộ phòng Quan hệ khách hàng, tổ Thẩm định dự án Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thƣơng Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em mong sẽ nhận đƣợc các ý kiến đóng góp để bài viết đƣợc hoàn thiện hơn. 3 CHƢƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC NHTM 1.1. Khái niệm chung về dự án 1.1.1. Dự án và vai trò của dự án Đầu tƣ là một nhu cầu thiết yếu đối với mỗi nền kinh tế. Đầu tƣ là hoạt động hy sinh các nguồn lực (tiền, tài sản có sẵn, thời gian, công sức…) vào một hoạt động nào đấy, trong một thời gian nhất định để đạt đƣợc lợi ích (tiền, lợi ích xã hội…). Đặc điểm của hoạt động đầu tƣ là: quyết định đầu tƣ là một quyết định tài chính, phải đƣợc cân nhắc về tính khả thi của nó, cân nhắc giữa những gì phải bỏ ra và những kết quả kỳ vọng, và một đặc điểm rất quan trọng nữa là đầu tƣ mang tính rủi ro. Tính rủi ro của đầu tƣ bắt nguồn từ bản chất của hoạt động đầu tƣ là hy sinh nguồn lực ở hiện tại để kỳ vọng những lợi ích ở tƣơng lai dài hạn. Vì thế để thực hiện đầu tƣ và đầu tƣ có hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo, dự tính và lên kế hoạch cho các giai đoạn đầu tƣ cụ thể. Sự chuẩn bị này đƣợc thực hiện thông qua việc soạn thảo các dự án. Vậy dự án là gì? Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong cách định nghĩa dự án, đó là: - Dự án là một hệ thống các thuyết minh, đƣợc trình bày một cách chi tiết, có luận cứ về các giải pháp sử dụng nguồn lực để đạt mục tiêu cao nhất trong chủ trƣơng đầu tƣ. 4 - Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau đƣợc kế hoạch hoá nhằm đạt đƣợc mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực nhất định. - Dự án là một tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả thu đƣợc trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tƣ phát triển hoặc phục vụ đời sống Trong chuyên đề này, khái niệm về dự án sẽ đƣợc hiểu nhƣ sau: "dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tƣ phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt đƣợc những kết quả nhất định và thực hiện đƣợc những mục tiêu xác định trong tƣơng lai lâu dài" Dự án có vai trò rất quan trọng đối với chủ đầu tƣ, các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt đƣợc cơ hội phát triển. Những công trình thế kỷ của nhân loại trên thế giới luôn là những minh chứng về tầm quan trọng của dự án. Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tƣ, xây dựng kế hoạch đầu tƣ và theo dõi quá trình thực hiện đầu tƣ. Dự án là căn cứ để các tổ chức tài chính đƣa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của Nhà nƣớc phê duyệt và cấp giấy phép đầu tƣ. Do vậy, hiểu đƣợc những đặc điểm của dự án là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của dự án. 1.1.2. Đặc điểm của dự án Xuất phát từ khái niệm dự án, có thể nhận biết những đặc điểm cơ bản sau đây của dự án: 5  Dự án không chỉ là một ý tƣởng hay phác thảo mà còn hàm ý hành động với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án chỉ vĩnh viễn tồn tại ở trạng thái tiềm năng.  Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tƣợng hay ứng dụng mà phải nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã đƣợc đặt ra, tạo nên một thực tế mới.  Dự án tồn tại trong một môi trƣờng không chắc chắn. Môi trƣờng triển khai dự án thƣờng xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong quá trình thực hiện dự án rủi ro thƣờng là có thể xảy ra. Đặc điểm này có ảnh hƣởng rất lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý dự án.  Dự án bị khống chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tƣ và cho nền kinh tế.  Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thƣờng, các dự án bị ràng buộc về vốn, vật tƣ, lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn, mức độ ràng buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp; mọi quyết định liên quan đến các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối nhiều mối quan hệ, chẳng hạn: chủ đầu tƣ, nhà tƣ vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công, các nhà kỹ thuật …Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới mục tiêu của dự án. Một dự án sẽ thành công nếu các đặc điểm của dự án đƣợc các nhà quản lý dự án nhận biết và đánh giá một cách đúng đắn. 1.1.3. Phân loại dự án đầu tư 6 Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô thời hạn và đƣợc phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Chẳng hạn có thể phân loại các dự án đầu tƣ theo các tiêu thức sau: - Theo cơ cấu tái sản xuất: Dự án đầu tƣ đƣợc phân thành dự án đầu tƣ theo chiều rộng và dự án đầu tƣ theo chiều sâu. Trong đó dự án đầu tƣ chiều rộng thƣờng đòi hỏi khối lƣợng vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tƣ và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn dự án đầu tƣ theo chiều sâu thƣờng đòi hỏi khối lƣợng mạo hiểm thấp hơn so với đầu tƣ theo chiều rộng. - Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội: Dự án đầu tƣ có thể phân chia thành dự án đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tƣ phát triển khoa học kỹ thuật, dự án đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội)…, hoạt động của các dự án đầu tƣ này có quan hệ tƣơng hỗ tƣơng hỗ với nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tƣ phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn các dự án đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh đến lƣợt mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tƣ phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tƣ khác. - Theo các giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tƣ trong quá trình tái sản xuất xã hội: Có thể phân loại các dự án đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh thành dự án đấu tƣ thƣơng mại và dự án đầu tƣ sản xuất. Dự án đầu tƣ thƣơng mại là loại dự án đầu tƣ có thời gian thực hiện đầu tƣ và hoạt động của các kết quả đầu tƣ để thu hồi vốn đầu tƣ ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Dự án đầu tƣ sản xuất là loại dự án đầu tƣ có thời hạn hoạt động dài hạn (5, 10, 20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tƣ 7 lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tƣ lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất động trong tƣơng lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác đƣợc (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị…) - Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra: Ta có thể phân chia các dự án đầu tƣ thành dự án đầu tƣ ngắn hạn và dự án đầu tƣ dài hạn. - Theo sự phân cấp quản lý dự án: tuỳ theo tầm quan trọng và quy mô của dự án, dự án đầu tƣ đƣợc chia thành 4 nhóm: Dự án quan trọng quốc gia (do Quôc hội quyết định chủ trƣơng đầu tƣ), dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C. Đối với các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc chia thành 3 nhóm: dự án nhóm A, dự án nhóm B và các dự án phân cấp cho các địa phƣơng. - Theo cấp độ nghiên cứu gồm 2 loại dự án tiền khả thi và dự án khả thi. Dự án tiền khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi (giai đoạn sơ bộ lựa chọn dự án). Nội dung của dự án tiền khả thi còn sơ bộ chƣa chi tiết. Kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá lại cơ hội đầu tƣ để lựa chọn quyết định có nên chuyển sang giai đoạn tiếp theo không. Dự án khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu khả thi. Nội dung của dự án khả thi chi tiết, mức độ chính xác cao. Nó là căn cứ để chủ đầu tƣ, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nƣớc ra quyết định đầu tƣ hoặc cho phép đầu tƣ. - Theo nguồn vốn: dự án đầu tƣ bằng nguồn ngân sách Nhà nƣớc, dự án đầu tƣ bằng nguồn tín dụng đầu tƣ phát triển của Nhà nƣớc, vốn tín dụng cho nhà nƣớc bảo lãnh, dự án đầu tƣ bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác, dự án đầu tƣ bằng nguồn vốn hỗn hợp. 8 1.2. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM 1.2.1. Khái niệm thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM Nhƣ ta đã biết dự án là tài liệu do chủ đầu tƣ chịu trách nhiệm soạn thảo trong bƣớc nghiên cứu khả thi. Mặc dù trong dự án đã đề cập tất cả các khía cạnh liên quan đến hoạt động đầu tƣ một cách khá đầy đủ và chi tiết nhƣng dẫu sao nó cũng không tránh khỏi tính chủ quan của ngƣời lập dự án và những khiếm khuyết, lệch lạc còn tồn tại trong quá trình lập dự án là lẽ đƣơng nhiên. Để khẳng định đƣợc một cách chắc chắn hơn mức độ hợp lý và hiệu quả, tính khả thi của dự án cũng nhƣ quyết định đầu tƣ thực hiện dự án, cần xem xét, kiểm tra lại dự án một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, soạn thảo dự án, hay nói cách khác cần thẩm định dự án. Thẩm định dự án đƣợc tiến hành chủ yếu đối với giai đoạn xác định dự án, phân tích và lập dự án, duyệt dự án. Nội dung thẩm định dự án thƣờng bao gồm: thẩm định kỹ thuật, thẩm định kinh tế xã hội và thẩm định tài chính. Trên phƣơng diện tài trợ vốn cho các dự án, các ngân hàng thƣơng mại hoặc tổ chức tài chính-tín dụng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, qua thẩm định dự án sẽ khẳng định đƣợc tính hiệu quả và an toàn của việc đầu tƣ. Nhờ đó mà tổ chức tài chính -tín dụng có đƣợc cơ sở vững chắc trong quá trình quyết định tài trợ vốn. Là ngƣời tài trợ cho dự án, NHTM đặc biệt quan tâm nhiều đến khả năng hoàn trả vốn và sinh lời của dự án, chính vì thế thẩm định dự án về mặt tài chính luôn đƣợc Ngân hàng đặt lên hàng đầu trong danh sách các nội dung cần thẩm định. Nhƣ vậy thẩm định tài chính là một nội dung lớn và quan trọng trong thẩm định dự án. Thẩm định tài chính dự án là rà soát lại, đánh giá một cách khoa học 9 và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tƣ: doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế , các cá nhân. Nếu nhƣ Chính phủ, các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều tới hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thì các nhà đầu tƣ lại quan tâm nhiều hơn tới khả năng sinh lãi của dự án. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tƣ có những thông tin cần thiết để đƣa ra quyết định đầu tƣ đúng đắn. 1.2.2. Sự cần thiết của thẩm định tài chính dự án đối với NHTM Ngân hàng thƣơng mại là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - một lĩnh vực rất nhạy cảm của nền kinh tế. Ngân hàng dùng tiền của ngƣời khác để kinh doanh bằng cách cung cấp các khoản tín dụng cho những ngƣời có nhu cầu. Một trong những hoạt động tín dụng của Ngân hàng là tài trợ cho các dự án. Cho vay theo dự án là một xu hƣớng tất yếu trong quá trình phát triển, đổi mới hoạt của các NHTM. Rủi ro của loại hình tín dụng này nói chung là cao song lợi nhuận lại rất lớn. Nhận thức đƣợc vai trò và tầm quan trọng của công tác thẩm định dự án đầu tƣ nên các NHTM cần phải tiến hành thẩm định dự án. Thẩm định dự án là công việc hết sức quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại. Bởi lẽ một dự án đầu tƣ thƣờng đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, thời gian dài, quá trình thực hiện đầu tƣ phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn, nhiều công việc theo một trình tự nhất định và cũng đòi hỏi công tác quản lý phức tạp. Hơn nữa dự án đầu tƣ là tài liệu do chủ đầu tƣ chịu trách nhiệm soạn thảo trong bƣớc nghiên cứu khả thi nên còn mang nhiều tính chủ quan.Chính những điều này đòi hỏi dự án đầu tƣ nhất thiết phải trải qua một quá trình thẩm định kỹ càng. 10 Thẩm định dự án không chỉ quan trọng đối với bản thân ngân hàng, các tổ chức tài chính-tín dụng mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối với các chủ đầu tƣ và các cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Đối với chủ đầu tƣ, với tƣ cách ngƣời lập dự án thì đƣơng nhiên chủ đầu tƣ sẽ biết rất rõ và tỷ mỷ về dự án đã trình. Tuy nhiên trên thực tế chủ đầu tƣ có rất nhiều dự án khác nhau trong cùng một giai đoạn và họ sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn dự án. Doanh nghiệp tuy nắm vững đƣợc những vấn đề cụ thể thuộc phạm vi dự án nhƣng đôi khi khả năng thu thập, nắm bắt thông tin mới của chủ đầu tƣ lại bị hạn chế, nhất là tình hình khu vực và quốc tế, những xu hƣớng kinh tế ,chính trị xã hội…Bên cạnh đó, một dự án dù đƣợc tiến hành soạn thảo kỹ lƣỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của ngƣời soạn thảo mà họ thƣờng đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận vấn đề của dự án… Những điều này làm tăng rủi ro, giảm tính chính xác trong phán đoán của ngƣời soạn thảo. Việc thẩm định dự án đƣợc tiến hành độc lập với quá trình soạn thảo dự án cho phép chủ đầu tƣ nhìn nhận lại dự án của mình một cách khách quan hơn để phát hiện đƣợc những thiếu sót trong quá trình sọan thảo và bổ sung kịp thời, từ đó giúp chủ đầu tƣ chọn đƣợc phƣơng án tối ƣu nhất, xác định các mặt lợi, mặt hại khi đƣa dự án vào vận hành. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực đầu tƣ và xây dựng, mục đích thẩm định dự án là nhằm đánh giá đƣợc tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, của địa phƣơng và của cả nƣớc trên các mặt : mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả. Tất cả các dự án đầu tƣ thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nƣớc, bởi vậy, trƣớc khi ra quyết định đầu tƣ hay cho phép đầu tƣ, các Cơ quan có thẩm quyền của Nhà nƣớc cần biết xem dự án đó có góp phần đạt đƣợc mục tiêu của Quốc gia hay không, nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ 11 nào…Đồng thời việc thẩm định giúp xác định tính lợi hại và sự tác động của dự án khi đi vào hoạt động trên các khía cạnh nhƣ: ứng dụng công nghệ mới, trình độ sử dụng vốn, ô nhiễm môi trƣờng cũng nhƣ các lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại. Đối với bản thân ngân hàng và các tổ chức tài chính – tín dụng thì thẩm định đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của tín dụng là có nên cho vay hay không và cho vay nhƣ thế nào.Thông qua kết quả thẩm định cán bộ thẩm định có thể rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án để ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay. Thẩm định dự án còn góp phần nâng cao tính khả thi của dự án, bởi lẽ thông qua những thông tin và kinh nghiệm đã đúc kết đƣợc trong quá trình thẩm định nhiều dự án khác nhau, ngân hàng thƣơng mại chủ động tham gia góp ý với chủ đầu tƣ nhằm bổ sung điều chỉnh những nội dung còn thiếu sót trong dự án giúp cho chủ đầu tƣ giảm thiểu rủi ro đảm bảo hiệu quả cũng nhƣ tính khả thi của dự án. Thông qua quá trình thẩm định ngân hàng sẽ có cơ sở để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích và tiết kiệm vốn.Thẩm định cũng tạo ra cơ sở tƣơng đối vững chắc để ngân hàng xác định số tiền vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, đảm bảo vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, vừa có khả năng thu hồi vốn đúng hạn. Thẩm định một dự án có rất nhiều nội dung, tuy nhiên mối quan tâm của Ngân hàng là khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn của khách hàng, đồng thời Ngân hàng có thế mạnh chuyên sâu về lĩnh vực tài chính cho nền thẩm định dự án về mặt tài chính đƣợc Ngân hàng chú trọng hơn cả. 12 Việc thẩm định tài chính dự án sẽ giúp cho Ngân hàng đánh giá đƣợc mức độ khả thi của các dự án và ra quyết định: có tài trợ không? tài trợ dự án nào? quy mô tài trợ bao nhiêu, thời gian, lãi suất, quá trình giải ngân, quản lý và thu hồi nợ nhƣ thế nào. Nhƣ vậy thẩm định nhất là thẩm định tài chính dự án là cần thiết, nó là một bộ phận của công tác quản lý nhằm đảm bảo hoạt động cho vay có hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các cơ hội đầu tƣ. Tóm lại, để đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời, NHTM nhất thiết phải thực hiện thẩm định tài chính dự án trƣớc khi ra quyết định tài trợ. 1.2.3. Nội dung của thẩm định tài chính dự án 1.2.3.1. Dự toán vốn đầu tƣ Đây là nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành thẩm định tài chính dự án. Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tƣ có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dự án : nếu vốn đầu tƣ dự tính quá thấp thì dự án có thể bị đổ vỡ do công trình không thể đƣa vào thực hiện đƣợc, ngƣợc lại nếu dự tính quá cao thì không phản ánh đƣợc chính xác hiệu quả tài chính của dự án. Tổng mức vốn đầu tƣ là toàn bộ chi phí đầu tƣ và xây dựng (kể cả vốn sản xuất ban đầu) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án đƣợc xác định trong quyết định đầu tƣ. Tổng mức vốn đầu tƣ đƣợc xác định dựa trên cơ sở năng lực sản xuất theo thiết kế, khối lƣợng các công tác chủ yếu và sản xuất đầu tƣ, giá chuẩn hay đơn giá tổng hợp do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Hiện nay tổng mức vốn đầu tƣ đƣợc chia ra thành ba loại: Vốn cố định , vốn lƣu động ban đầu và vốn đầu tƣ dự phòng. Tính toán về vốn cố định: 13 Vốn cố định bao gồm toàn bộ chi phí có liên quan đến việc hình thành tài sản cố định từ giai đoạn chuẩn bị đầu tƣ đến giai đoạn thực hiện đầu tƣ và giai đoạn kết thúc xây dựng dự án vào sử dụng cụ thể: chi phí chuẩn bị, giá trị nhà xƣởng và kết cấu hạ tầng sẵn có đƣợc sử dụng cho dự án, chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xƣởng cũng nhƣ kết cấu hạ tầng, chi phí mua máy móc thiết bị ,dụng cụ sản xuất phƣơng tiện vận tải, chi phí chuyển giao công nghệ, chi phí đào tạo cán bộ và các chi phí khác. Tính toán về vốn lưu động: Vốn lƣu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho việc dự trữ các tài sản lƣu động nhằm đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của dự án. Chỉ có vốn lƣu động ban đầu (cho chu kỳ sản xuất đầu tiên của doanh nghiệp) mới đƣợc tính vào vốn đầu tƣ bao gồm: Vốn sản xuất: Chi phí nguyên liệu, điện nƣớc, phụ tùng, bao bì, tiền lƣơng… Vốn lƣu thông: Sản phẩm dở dang, tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng hóa bán chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị… Dự phòng vốn đầu tư: Do trong nền kinh tế giá cả nguyên vật liệu luôn biến động bên cạnh đó trong quá trình thi công công trình có thể gặp phải những rủi ro về kỹ thuật hoặc nảy sinh các chi phí bất thƣờng nên cần phải dự trù một khoản dự phòng để sẵn sàng ứng phó với những bất trắc có thể xảy ra. Ngoài ra trong việc thẩm định, ngân hàng cần phải quan tâm đến cơ cấu vốn đầu tƣ bằng ngoại tệ, nội tệ để từ đó xác định nguồn ngoại tệ nào sẽ đảm bảo cho dự án đƣợc thực hiện. Tùy theo từng dự án chỉ có vốn lƣu động (dự án ngắn hạn), song các dự án phức tạp thƣờng bao gồm cả vốn cố định và vốn lƣu động, sai lầm hay mắc 14 phải của các chủ đầu tƣ khi xây dựng dự án làchủ dự án không tính toán đầy đủ vốn lƣu động hoặc không đƣợc tính . Căn cứ vào bảng dự trừ vốn, ngân hàng kiểm tra mức vốn đầu tƣ cho các hạng mục, tính toán tổng vốn đầu tƣ sát với nhu cầu thực tế. Điều đặc biệt có ý nghĩa quan trong thẩm định toàn bộ nội dung về tài chính là cán bộ thẩm định phải đảm bảo tính chính xác, hợp lý và độ tin cậy của các số liệu đƣa vào tính toán chứ không nên căn cứ vào số liệu sẵn có trong dự án một cách máy móc rập khuôn nhƣ tính toán lại các phép tính mà chủ đầu tƣ đã làm. Sau khi thẩm định vốn đầu tƣ cuả dự án, Ngân hàng tiến hàng so sánh với dự tính ban đầu khi phê duyệt dự án, giải thích chênh lệch nếu có. Phƣơng pháp dự toán bao gồm phƣơng pháp dự báo theo tỷ phần doanh thu và phƣơng pháp dự toán tổng thể. Phƣơng pháp dự báo theo tỷ phần doanh thu thƣờng đƣợc áp dụng đối với các dự án nhỏ, gắn kết trực tiếp với hoạt động thƣờng ngày của doanh nghiệp còn phƣơng pháp dự toán tổng thể áp dụng đối với các dự án lớn có thể đƣợc xem nhƣ doanh nghiệp có tính “độc lập cao”. Các phƣơng thức tài trợ cho dự án thông thƣờng bao gồm tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, tài trợ bằng nợ, tài trợ bằng leasing và tài trợ kết hợp.  Tài trợ dự án bằng vốn tự có: - Phát hành cổ phiếu: doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu để tài trợ cho dự án. Có 2 loại là cổ phiếu thƣờng và cổ phiếu ƣu đãi. Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thƣờng chính là những ngƣời sở hữu công ty, do đó họ có quyền đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thƣờng phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của dự án. Cổ phiếu ƣu tiên thƣờng chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng số cổ phiếu đƣợc phát hành. Cổ phiếu ƣu tiên có đặc điểm là nó thƣờng có cổ tức cố định. Ngƣời chủ của cổ phiếu này có quyền đƣợc thanh toán lãi trƣớc các cổ đông thƣờng. Nếu số lãi chỉ 15 đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ƣu tiên thì các cổ đông thƣờng sẽ không đƣợc nhận cổ tức của kỳ đó. - Thặng dƣ vốn: Thặng dƣ vốn là khái niệm chỉ chênh lệch giữa giá thị trƣờng của cổ phiếu thƣờng và mệnh giá của nó ở thời điểm phát hành - Thu nhập giữ lại: trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để gia tăng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ thu nhập giữ lại để tái đầu tƣ, tài trợ cho các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là phƣơng thức tài trợ có nhiều ƣu điểm, giảm đƣợc chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài nên đƣợc nhiều doanh nghiệp rất coi trọng.  Tài trợ cho dự án bằng nợ: - Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng là một nguồn vay quan trọng đối với các chủ đầu tƣ. Ngân hàng cung cấp các khoản tài chính rất đa dạng nhƣ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn với lãi suất cố định hay biến đổi. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, điều kiện đảm bảo tiền vay, sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. - Tín dụng thƣơng mại: Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là một phƣơng thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh đồng thời tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên nếu quy mô tài trợ quá lớn thì mức độ rủi ro cũng rất cao. - Phát hành trái phiếu: các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án mới. Việc phát hành trái phiếu mang lại cho dự án nguồn tài chính dài hạn tuy nhiên không phải dự án nào cũng có thể sử dụng phƣơng thức tài trợ này vì đòi hỏi chi phí phát hành lớn và uy tín của chủ thể phát hành. 16  Tài trợ thông qua đi thuê: Thay vì vay vốn cũng có thể thuê thiết bị nhà máy hoặc thậm chí các đơn vị sản xuất hoàn chỉnh, nói cách khác các tài sản sinh lợi đƣợc mƣợn. Đổi lại, ngƣời thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tƣơng xứng với quyền sử dụng và quyền hƣởng dụng đó. Mỗi phƣơng thức tài trợ đều có những đặc trƣng riêng và có ảnh hƣởng chi phối tới việc xác định dòng tiền phù hợp và lựa chọn lãi suất chiết khấu. 1.2.3.2. Dự tính các dòng tiền của dự án Sau khi thẩm định tổng mức vốn đầu tƣ, bƣớc tiếp theo của quá trình thẩm định là thẩm định dòng tiền cuả dự án để tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính của dự án.Dòng tiền của một dự án đƣợc hiểu là các khoản chi và thu đƣợc kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Dòng tiền ròng của dự án là mức chênh lệch giữa khoản thu và chi. Đây là vấn đề các ngân hàng thƣơng mại đặc biệt quan tâm vì khả năng trả nợ vay của dự án phụ thuộc rất lớn vào kết quả kinh doanh hàng năm của chủ đầu tƣ. Chính vì vậy việc thẩm định về chi phí sản xuất, doanh thu, và lợi nhuận hàng năm của dự án là việc làm không thể thiếu trong thẩm định tài chính của dự án . Việc tính dòng tiền đƣợc thực hiện thông qua các báo cáo tài chính dự tính cho từng năm hay từng giai đoạn của đời dự án. Qua báo cáo tài chính nhà thẩm định sẽ thấy đƣợc tình hình hoạt động của dự án, nhƣng trƣớc hết phải lập đƣợc dự trù chi phí, doanh thu, lợi nhuận của dự án. Dự trù chi phí: bao gồm tất cả các khoản chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kể từ khi bắt đầu bỏ vốn cho đến khi kết thúc dự án. Chi phí gồm có: - Chi phí vốn của dự án (vốn cố định và vốn lƣu động): chi phí này diễn ra trong những năm của quá trình thực hiện xây dựng công trình và những chi phí để tạo ra tài sản lƣu động ban đầu, các khoản chi phí thay thế hoặc mua sắm máy móc, thiết bị. 17 - Thay đổi vốn lƣu động ròng của dự án: Do trong các năm vận hành khai thác của dự án vốn lƣu động có thể tăng hoặc giảm do thay đổi quy mô hoạt động… - Chi phí vận hành hàng năm: Dòng này bao gồm tất cả các khoản chi phí xảy ra trong những năm vận hành khai thác dự án: chi phí nguyên vật liệu, năng lƣợng, tiền lƣơng công nhân, chi phí bảo dƣỡng máy móc, thiết bị… Dự trù doanh thu: doanh thu từ hoạt động của dự án bao gồm doanh thu do bán sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu…Doanh thu của dự án đƣợc dự tính cho từng năm hoạt động và dựa vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hằng năm của dự án để xác định .Cần tính toán đầy đủ các nguồn thu nhƣ: Doanh thu từ sản phẩm chính, từ sản phẩm phụ... Do tiền có giá trị về thời gian nên chúng ta không thể so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về một mốc để so sánh. Các nguyên tắc đánh giá dòng tiền của dự án bao gồm: - Luồng tiền phù hợp: nghĩa là một sự thay đổi trong tổng luồng tiền trong tƣơng lai của doanh nghiệp phải là hậu quả trực tiếp của việc thực hiện dự án. Nguyên tắc này đòi hỏi khi tính toán dòng tiền của dự án ta phải xem xét dự án đơn thuần với các giá trị độc lập với hoạt động khác hoặc dự án khác. Nguyên tắc này cũng dẫn đến một yêu cầu quan trọng là phải loại bỏ đƣợc chi phí chìm khi phân tích. Chi phí chìm là những chi phí đã trả hay phải trả mà việc chấp nhận hay không chấp nhận dự án không có ảnh hƣởng tới các chi phí đó. - Đƣa chi phí cơ hội vào phân tích: Chi phí cơ hội là cơ hội thu nhập bị bỏ qua do chấp nhận dự án này mà không chấp nhận dự án khác. Ví dụ, khi thực 18 hiện dự án doanh nghiệp phải sử dụng một diện tích đất 1.000 m2 để xây dựng nhà xƣởng nghĩa là doanh nghiệp đã mất đi khoản thu nhập có thể thu đƣợc do cho thuê mảnh đất đó nếu dự án không đƣợc thực hiện. Chi phí cơ hội phải đƣợc cho vào khi tính toán dòng tiền của dự án. - Tác dụng phụ: Khi dự án đƣợc thực hiện có thể có những tác động đến thu nhập hiện tại của doanh nghiệp nhƣ việc doanh nghiệp bị giảm doanh thu hiện tại do khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm do dự án sản xuất ra. - Tài sản lƣu động ròng: Ngoài tài sản cố định, dự án còn đòi hỏi một lƣợng vốn dài hạn để đầu tƣ và tài sản lƣu động ròng và lƣợng đầu tƣ này sẽ đƣợc thu hồi khi dự án kết thúc. - Phân bổ chi phí quản trị chung: Chi phí quản trị chung là những chi phí hoạt động không liên quan trực tiếp tới bất cứ sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào của doanh nghiệp. Do đó các chi phí này cần đƣợc phân bổ cho các bộ phận và sản phẩm theo một tiêu thức nhất định. 1.2.3.3. Dự tính lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tƣ yêu cầu đối với một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị hiện tại ròng của dự án. Việc xác định chính xác lãi suất chiết khấu có ý nghĩa quyết định khi tính toán hiệu quả tài chính của dự án. Những nhân tố ảnh hƣởng tới lãi suất chiết khấu bao gồm: - Cơ cấu vốn và chi phí của mỗi loại vốn - Mức lãi suất tính toán còn chịu ảnh hƣởng của độ rủi ro của dự án. Dự án có độ rủi ro lớn thì giá trị của lãi suất chiết khấu của dự án phải lớn. 19 - Khả năng và phƣơng pháp huy động vốn: Khi nguồn vốn bị hạn chế, cần phải tăng lãi suất chiết khấu - Mức lãi suất tối thiểu đƣợc sử dụng ở các công ty khác. Khi lãi suất chiết khấu sử dụng ở các dự án khác tăng lên, ngân hàng cũng có thể tăng lãi suất chiết khấu của dự án cần xem xét lên - Lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp thực hiện dự án: nếu lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp cao thì mức thu lợi tối thiểu của dự án đƣợc chọn sẽ cao hơn và ngƣợc lại. - Tỉ lệ lạm phát cũng ảnh hƣởng đến lãi suất tính toán. Nếu tỉ lệ lạm phát cao ngân hàng phải tăng mức lãi suất tính toán để đảm bảo mức lãi suất tính toán thực tế trong tƣơng lai và ngƣợc lại. Phƣơng pháp xác định lãi suất chiết khấu: - Khi vốn đầu tƣ là nợ Khi vốn đầu tƣ là vốn đi vay thì chủ đầu tƣ phải trả một lãi suất là Kd, Kd chính là chi phí của nợ vay khi chƣa tính tới tác động của thuế. Do chi phí trả lãi vay đƣợc coi là chi phí hợp lý khi tính thuế nên doanh nghiệp tiết kiệm đƣợc một khoản thuế là Kd* T (T là thuế suất) vì vậy chi phí nợ vay sau thuế là: Chi phí nợ vay sau thuế = Kd*(1-T) Ví dụ: nếu doanh nghiệp A vay tiền với lãi suất 10% và thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 40% thì chi phí nợ vay sau thuế là: 10%*(1-0.4) = 6% 20 Nói tóm lại, đối với những dự án mới, nếu vốn tài trợ cho dự án hoàn toàn là nợ thỉ lãi suất chiết khấu đƣợc sử dụng để chiết khấu các dòng tiền có thể đƣợc xem là chi phí nợ sau thuế bằng Kd*(1-T) - Khi vốn đầu tƣ là vốn chủ sở hữu:  Chi phí cổ phiếu ƣu tiên: Chi phí của cổ phiếu ƣu tiên (Kp) đƣợc xác định bằng cách lấy cổ tức ƣu tiên (DP) chia cho giá phát hành thuần của cổ phiếu (Pn) – là giá mà doanh nghiệp nhận đƣợc sau khi đã trừ chi phí phát hành: KP  DP Pn  Chi phí của lợi nhuận không chia: Chi phí của lợi nhuận không chia là tỉ lệ cổ tức mà ngƣời nắm giữ cổ phiếu thƣờng yêu cầu đối với dự án mà doanh nghiệp đầu tƣ bằng lợi nhuận không chia. Thực tế có ba phƣơng pháp thƣờng đƣợc sử dụng để xác định chi phí lợi nhuận không chia: phƣơng pháp CAPM, phƣơng pháp luồng tiền chiết khấu, phƣơng pháp lấy lãi suất trái phiếu cộng với phần thƣởng rủi ro Phương pháp CAPM: Sử dụng phƣơng trình CAPM để xác định tỷ lệ lợi tức mong đợi đối với cổ phiếu đang xét: Ks = KRS + (KRM + KRF)*βi Trong đó: KRS: Lợi tức của tài sản phi rủi ro KRM: Lợi tức của cổ phiếu có độ rủi ro trung bình β:Hệ số bêta của cổ phiếu Ks:Lợi tức mong đợi đối với cổ phiếu đang xét Phương pháp luồng tiền chiết khấu: Theo phƣơng pháp này tỷ lệ cổ tức yêu cầu đối với cổ phiếu thƣờng đƣợc xác định bởi phƣơng trình sau:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất