Mô tả:
Mở đầu ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ GIÁO DỤC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1. Đối tượng nghiên cứu 1.1. Quá trình hình thành, phát triển của lịch sử giáo dục Giáo dục là một hiện tượng xã hội, ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời của con người và xã hội loài người. Điều kiện cũng là một qui luật để tồn tại và phát triển là thế hệ đi trước phải truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm lịch sử xã hội những kinh nghiệm đó để tham gia vào các hoạt động sản xuất vật chất, các hoạt động giao lưu xã hội khác, làm cho xã hội tồn tại và phát triển không ngừng. Sự truyền lại và lĩnh hội đó gọi là giáo dục và chỉ có ở con người. Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người, là một chức năng của xã hội, không tách rời đời sống xã hội, do thực tiễn xã hội qui định. Giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau, mang tính tất yếu, phổ biến, vĩnh hằng. Giáo dục chịu sự qui định của xã hội, vừa phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội vừa đáp ứng các yêu cầu kinh tế - xã hội. Giáo dục trở thành nhu cầu cơ bản của con người và xã hội, một chức năng cơ bản của xã hội. Với tư cách là hiện tượng xã hội, lúc đầu giáo dục mang tính tự phát, tự nhiên, chưa có tổ chức và chưa có lí luận. Do giáo dục ngày càng tỏ rõ vai trò của mình với việc giáo dục con người, giáo dục gắn liền với sự phát triển xã hội và sự phát triển nội tại của chính giáo dục đã làm xuất hiện lí luận giáo dục (thế kỷ XVII). Đây là dấu mốc đánh giá giáo dục trở thành một khoa học độc lập mà trước đó nó chỉ là một lĩnh vực tri thức nằm trong hệ thống tri thức Triết học, đó là khoa học giáo dục. Hoạt động giáo dục ngày càng đa dạng, phức tạp về tính chất, mở rộng về qui mô, đối tượng. Sự phát triển của lí luận giáo dục ngày càng phong phú để có thể giải đáp được những vấn đề thực tiễn giáo dục đặt ra. Sau thời kỳ văn hoá Phục hưng (thế kỷ XVII) ở Châu Âu, các nhà sư phạm người Đức, Pháp, Nga nhận thấy cần phải tổng kết, lưu lại kinh nghiệm của loài người trên cả hai bình diện hoạt động tổ chức giáo dục và lí luận giáo dục. Người đặt nền móng cho khoa học lịch sử giáo dục hãy kể đến công lao của C.E.Menghenxđô với công trình " Trình bày những kinh nghiệm người ta đã nói và làm trong lĩnh vực giáo dục suốt ngàn năm qua", xuất bản năm 1779, sau đó là công trình nghiên cứu như: Lịch sử nhà trường và giáo dục của F.E Rucốp (Đức), xuất bản năm 1794, "Lịch sử giáo dục từ lúc phát sinh cho đến thời đại chúng ta" của tác giả K.A. Xmít người Đức xuất bản năm 1884 và nhiều các tác giả người Đức, Pháp, Nga, Mỹ với những công trình nghiên cứu theo hướng trên và các công trình đó lấy sự phát triển lí luận giáo dục làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Từ đó, lịch sử giáo dục đã ra đời. Cho đến nay, hiện đang tồn tại nhiều quan niệm rộng, hẹp khác nhau về Lịch sử giáo dục. Tuy nhiên, người ta cũng đã có quan niệm chung nhất về lịch sử giáo dục: "Lịch sử giáo dục là khoa học nghiên cưú sự hình thành và phát triển về mặt lí luận và mặt thực tiễn giáo dục, dạy học và nhà trường trong các thời kỳ lịch sử khác nhau". Vị trí của lịch sử giáo dục là khoa học chuyên ngành trong hệ thống khoa học giáo dục. Tính chất của khoa học lịch sử giáo dục vừa là khoa học giáo dục vừa là khoa học lịch sử, sự giao thao này là nét đặc trưng của lịch sử giáo dục. 1.2. Đối tượng nghiên cứu Xét về mặt nguồn gốc phát sinh, lịch sử nhân loại bắt đầu từ đâu thì lịch sử giáo dục bắt đầu đó. Lịch sử giáo dục là bức tranh toàn cảnh, khái quát về thực tiễn giáo dục và lí luận giáo dục tiêu biểu của thế giới, gắn liền với bối cảnh chính trị, xã hội, kinh tế văn hóa trong mỗi giai đoạn, thời kỳ phát triển của thế giới. Quá trình hình thành, tồn tại, phát triển của giáo dục thế giới được biểu hiện tập trung ở hai khía cạnh chính là hoạt động tổ chức giáo dục (mặt nhận thức) và tư tưởng giáo dục (mặt lí luận) giáo dục. Lịch sử giáo dục thế giới nghiên cứu hoạt động thực tiễn giáo dục bằng cách tìm hiểu mô tả lại, khái quát và hệ thống hoá các hoạt động tổ chức giáo dục trong thực tiễn như: hệ thống giáo dục quốc dân, các mô hình tổ chức giáo dục, dạy học, các loại hình trường lớp, loại hình đào tạo; mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo; ngành nghề đào tạo và công tác quản lí giáo dục. Lịch sử giáo dục thế giới nghiên cưú sự phát sinh, phát triển các tư tưởng giáo dục. Trong quá trình nghiên cứu lịch sử giáo dục thế giới, việc nghiên cứu sự ra đời, phát triển của các tư tưởng, quan điểm giáo dục của các nhà giáo dục, nhà tư tưởng là không thể thiếu, bởi những tư tưởng giáo dục đó thường là những đóng góp có giá trị về lí luận và thực tiễn giáo dục, thể hiện tư duy và tầm nhìn vượt trước, những kinh nghiệm tốt được dày công đúc rút từ thực tế giáo dục sẽ có ích cho đời sau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu những tư tưởng giáo dục thường gắn liền với tên tựuổi của các nhà giáo dục, các học giả tiêu biểu. Họ là những người sống trong điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, giai cấp nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu xem xét, khẳng định sự đóng góp và giá trị của những tư tưởng giáo dục nào đó, của một ai đó cần đặt chúng trong bối cảnh tình hình giáo dục và điều kiện lịch sử mà các tư tưởng giáo dục đó ra đời và tồn tại. Như vậy, lịch sử giáo dục với tư cách là một khoa học, nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của thực tiễn hoạt động giáo dục và lí luận giáo dục của nhân loại qua các thời kỳ lịch sử, từ khi xã hội loài người ra đời cho đến nay. Lịch sử giáo dục Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của lịch sử giáo dục, đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của thực tiễn giáo dục và lí luận giáo dục Việt Nam từ buổi đầu dựng nươc và giữ nước cho đến nay. Việt Nam có chiều dài lịch sử mấy nghìn năm và bề dày truyền thống trọng đạo học từ ngàn xưa. Theo truyền thuyết, buổi bình minh của lịch sử nước ta bắt đầu từ thời đại của các vua Hùng xây dựng nên nước Văn Lang, tồn tại lâu dài tới 2600 năm. Nếu xem xét lịch sử giáo dục ở cả hai bình diện thực tiễn và lí luận giáo dục thì sự phát triển của nó chưa có gì nhiều để nói. Dưới các triều đại Phong kiến Việt Nam, dù tổ chức hành chức nhà nước, chủ trương xây dựng, phát triển đất nước của mỗi triều đại khác nhau, nhưng đều có quan tâm phát triển giáo dục. Từ khi có Đảng và chính quyền cách mạng, giáo dục Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới cả về thực tiễn và lí luận giáo dục theo phương hướng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa. Giáo dục Việt Nam nếu chỉ xét từ khi có chính quyền cách mạng, có chiều dài lịch sử hơn 60 năm. Đó là một nền giáo dục có sự lãnh đạo của Đảng, mang đậm tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc phục vụ đắc lực cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc trước đây và xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay. Quá trình xây dựng và phát triển của giáo dục Việt Nam luôn được định hướng bởi chủ trương, chính sách phát triển giáo dục của Đảng và nhà nước, thành tựu phát triển giáo dục được đánh giá theo từng kế hoạch.